Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

FDI và FII lợi ích và sự khác biệt.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.95 KB, 7 trang )

FDI hay FII – Đầu tư nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam
Trên góc độ một nhà ĐTNN, vấn đề có lẽ sẽ không phải là chọn cách đầu tư nào mà trên thực
tế là phói hợp ra sao để FDI hay FII của mình cùng mang lại hiệu quả tối đa. Đứng trên góc độ một
người làm kinh doanh hay quản lý trong nước sẽ cần cân nhắc với một cơ hội kinh doanh cụ thể, nếu
như việc FDI tham gia không mang lại những nhân tố căn bản cho thành công dự kiến thì có nhất
thiết phải dành cho FDI hay nên để cho một doanh nghiệp trong nước khai thác, khi cần sẽ kêu gọi
FII
FDI hay FII – câu hỏi nguyên lý?
FDI (foreign direct investment) và FII (foreign Indirect Investment) là hại dạng thức mà chúng ta
vẫn sử dụng để phân biệt các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam. Việc phân biệt cho phép ta so
sánh và đong đếm những lợi và hại của hai dạng thức vốn này. Nhìn chung ở Việt Nam, Trung Quốc
hay Ấn Độ, những quốc gia thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài, FDI vẫn có ý nghĩa quan trọng và
được chăm sóc nhiều hơn FII. Nếu như với FDI, câu chuyện thường xoay quanh thu hút thế nào cho
nhiều thì với FII, câu chuyện lại là quản lý thế nào cho tốt. Liệu khác biệt trong quan niệm này có căn
cứ và có phải khi nào FDI cũng tốt hơn FII không, có khi nào nên nghĩ đến chuyện hợp nhất hai loại
vốn này?
Về nguyên lý, FDI như ông già Noel đi vào mang theo những túi quà lóng lánh. Những túi quà này
điểm qua thì có đầu tư tài chính; khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến; khai phá và kích thích
xuất khẩu,… Những món quà vô giá với những cậu bé – những doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vốn
chỉ quen chơi những trò chơi nhỏ, manh mún. Chúng ta phần nào “ưa” FDI bởi tác động – ích lợi của
nó rất hiện hữu, sờ - nắm - đo đếm – bình phẩm được. Đó là những nhà máy mới, to lớn hiện đại
chưa từng thấy, những mạng lưới công nghệ thông tin cao cấp, những khu thương mại khổng lồ, sáng
long lanh và lộng lẫy, những người lao động chất lượng cao nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ
quốc tế,… - về góc độ xã hội là khả năng tạo việc làm lớn. Những ưu điểm này vượt trội nếu so với
FII.
Chưa hết, tác động của FDI không dừng lại ở một nhà máy hay một hệ thống, mỗi đơn vị đầu tư này
lại có vai trò nhưng một hệ số nhân tác động – tức là sự xuất hiện của nó kéo theo một loạt các hiệu
ứng phát triển quy mô vùng. Cùng với những dự án FDI được triển khai sẽ có hàng loạt các dự án lớn
nhỏ ăn theo và một hệ thống các dịch vụ phụ trợ. Nhà máy Intel Việt Nam đi vào hoạt động chắc
chắn sẽ làm cho cả một khu dân cư xung quanh thay đổi, kèm theo là một loạt các dịch vụ ăn uống,
giải trí, vận chuyển,… - một hệ số nhân thực sự.


Câu hỏi là FDI có phải luôn tốt như vậy? Rất nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước thực sự băn
khoăn về câu hỏi này. Xã hội Mỹ tăng trưởng không phải chỉ nhờ có những Microsoft, Intel, Apple,
Goldman Sachs,… mà phần rất lớn động lực tuôn trào từ những người đang từng ngày nỗ lực để trở
thành những Bill Gates mới và Steve Jobs mới. Giáo sư Nancy Napier, nhà nghiên cứu hàng đầu về
chiến lược tại ĐH Boise State, trong một lần trao đổi với chúng tôi đã chia sẻ mối lo lắng của những
người làm chiến lược về sức sáng tạo và năng động trong các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ đang
ngày càng giảm, làm cho nước Mỹ ngày càng già và kém vận động. Sức sáng tạo, tính năng động đó
chính là những người khởi nghiệp. Nó quan trọng đến nỗi Jack Welch huyền thoại của GE từng tuyên
bố muốn chẻ nhỏ, tái cơ cấu tập đoàn này để có thể tiến lên với tinh thần của một doanh nghiệp nhỏ.
Những doanh nghiệp nhỏ - những doanh nghiệp khởi sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sức tăng
trưởng và khả năng đổi máu của toàn nền kinh tế. Bằng chứng với những người chủ khởi nghiệp đầu
tiên của Trung Nguyên hay FPT có lẽ cũng đủ - họ định nghĩa lại sức mạnh của Việt Nam.
Thế thì FDI, nguồn vốn luôn được ta tôn sùng có một hạn chế: sự xuất hiện của nó giống như sự xuất
hiện của những doanh nghiệp lớn đã trực tiếp cạnh tranh những khoảng đất màu mỡ có thể nuôi mầm
những tinh thần khởi nghiệp. Phía nào yếu thế hơn, câu trả lời dành cho độc giả. Nhà máy ViBird của
tập đoàn Nguyễn Hoàng – người chủ sau 8 năm vẫn tự cho rằng “Tôi đang khởi nghiệp” – sẽ ra sao
nếu Dell đầu tư xây dựng nhà máy lắp ráp máy tính ở Việt Nam. Chỉ là câu hỏi “nếu như” nhưng
cũng có thể khiến NHG Group rùng mình.
Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng – miễn là bắt được chuột
Quay trở lại, mối đe dọa của FDI có thể làm triệt tiêu đi các nguồn lực tự thân ở quốc gia sở tại đã
được cụ thể hóa thành các yêu cầu như đảm bảo hàm lượng “chất xám nội” trong những nhà máy
FDI, những cam kết xuất khẩu và chuyển giao công nghệ cùng hàng loạt các quy định về giao dịch
ngoại hối cùng các quy định có tính cưỡng bức khác.
Nguồn vốn ngoại nếu ở dạng FII lại là nguồn dinh dưỡng rất lớn nuôi dưỡng tinh thần khởi nghiệp
trong nước, đưa những doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đến nguồn vốn dồi dào kèm theo các điều
kiện nâng chuẩn công bố thông tin, yêu cầu minh bạch hóa và hàng loạt các chuẩn mực quốc tế khác.
Có thể khó khăn, nhưng cơ bản là cần thiết. Rõ ràng ngoài việc đưa vốn đến, những lợi ích không
trực tiếp của những nguồn vốn không trực tiếp này là đưa dần chuẩn mực kinh doanh trong nước tiếp
cận với các chuẩn mực hành vi quốc tế về giao dịch, quản trị rủi ro, quản trị chiến lược, các công cụ
mới,… Thực tế với thị trường tài chính và thị trường chứng khoán cho thấy sự tham gia của các tổ

chức và quỹ đầu tư quốc tế đã đẩy tính thanh khoản, chiều sâu thị trường, tính hiệu quả cùng các yêu
cầu chuẩn mực lên rất cao và rất nhanh chỉ trong một thời gian rất ngắn. Giai đoạn 2006-2007 có
bước tiền dài bằng cả 5-6 năm vận hành trước đó của thị trường tài chính – thị trường chứng khoán
Việt Nam. Quá trình này ngược lại giúp tăng cường hiệu quả hoạt động phân bổ vốn quốc tế và trong
nước.
Có lý do cụ thể để giải thích vì sao nhiều quốc gia không thực sự thích FII. Nếu như FDI là những
khoản đầu tư có đặc tính ổn định, giống như đã có gạch và vữa để xây lên bức tường và việc phá đi
cũng không giúp người bỏ tiền xây thu lại được nhiều; thì, FII khác ở chỗ họ đặt một bức tường và
khi cần thì nhấc cả bức tường đi. Thảm họa tài chính cuối những năm 1990 với các nước Châu Á
luôn là nỗi ám ảnh vô cùng lớn, Việt Nam không là ngoại lệ. Việt Nam và Trung Quốc đều đang có
những đặc điểm kinh tế - tài chính – xã hội rất giống với các nước Châu Á kia trước khủng hoảng.
Rủi ro lớn nhất của FII là khi các danh mục đầu tư được vẽ ra rất đẹp với điểm nhấn là các tài sản
trong nước chợt bị gấp lại, bán hết và rút đi trong chớp nhoáng. Tuy nhiên, rủi ro luôn là rủi ro, đối
mặt và có các biện pháp phòng vệ sẽ tốt hơn là bỏ đi và chọn cách khác. Trong điều kiện kinh tế - tài
chính khu vực và thế giới hiện nay, sau bài học 1997 thì mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam đều cố
gắng xây dựng nhũng khung chính sách rất nhạy cảm và linh hoạt điều chỉnh theo các biến động của
kinh tế thế giới. Việc hợp tác cùng giải quyết là giải pháp mà các quốc gia đều thống nhất. Bên cạnh
đó, luôn tồn tại những lượng vốn rất lớn trong thị trường vốn toàn cầu đi tìm những khu vực thị
trường có thể hứa hẹn tăng trưởng đầu tư tốt. Rủi ro vẫn là rủi ro nhưng rủi ro ở mức độ nào và khả
năng đe dọa ra sao cấn sẽ cần được tính toán cụ thể.
Một đặc điểm khác giúp ta phân biệt tốt FDI và FII là tính chấp nhận rủi ro. Việt Nam hay bất kỳ nền
kinh tế mới nổi nào cũng đều có chung đặc điểm rủi ro cao và hiện diện trong mọi lĩnh vực. Ở một
khía cạnh nào đó, có thể thấy FDI sẽ chỉ được rót vào nếu các cơ hội làm kinh doanh và mang lại lợi
nhuận là rất cụ thể, có thể tính toán và dự báo với độ chính xác cao. Điều này dễ hiểu vì nếu mất, nhà
đầu tư FDI mất rất nhiều. Ngược lại, FII dám theo đuổi những cơ hội đầu tư nhiều rủi ro nhưng với
lợi suất kỳ vọng cũng lớn không kém.
Trên góc độ một nhà đầu tư nước ngoài, vấn đề có lẽ sẽ không phải là chọn cách đầu tư nào mà trên
thực tế là phối hợp ra sao để FDI hay FII của mình cùng mang lại hiệu quả tối đa. Đứng trên góc độ
một người làm kinh doanh hay người làm quản lý trong nước sẽ cần cân nhắc với một cơ hội kinh
doanh cụ thể, nếu như việc FDI tham gia không mang lại những nhân tố căn bản cho thành công dự

kiến thì có nhất thiết phải dành cho FDI hay nên để cho một doanh nghiệp trong nước khai thác, khi
cần sẽ kêu gọi FII.
Nhìn chung, khó có thể nói FDI hay FII tốt hơn hay thậm chí có nhất thiết phải phân FDI và FII trong
một số trường hợp. Mỗi hình thức đầu tư có những lợi thế và hạn chế. Ở góc độ quản trị và điều hành
vốn, không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các nhà đầu tư FII cũng có những giải pháp tăng cường
quản trị, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kinh doanh để tối đa hóa giá trị cho khoản đầu tư của mình.
Việt Nam – FDI vẫn rất được quan tâm
Tăng trưởng FDI 1988 – 2006

(Nguồn: Vietpartners)
Biểu đồ tăng trưởng FDI trong nước cho thấy sau giai đoạn 1988-2004, những năm 2005, 2006 có
tăng trưởng đột biến về FDI. FDI năm 2006 đã vượt rất nhanh, cao hơn đỉnh 1996 và cao nhất trong
19 năm gần nhất. Dự kiến cuối năm 2007, FDI có thể đạt đến 12 tỉ USD. Những con số cho thấy tiềm
năng tăng trưởng mạnh mẽ.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, năm 2007, GDP ước đạt 8,5% (kế hoạch 8,2-8,5%), phấn đấu
năm 2008 đạt 8,5-9%; kim ngạch xuất khẩu tăng 20,5% (kế hoạch 17,4%); kim ngạch nhập khẩu
27% (kế hoạch 15,5%); Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt 40,6% (kế hoạch 40%), tổng thu
ngân sách 287.000 tỷ đồng, tổng chi ngân sách 368.000 tỷ đồng. Theo Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế
hoạch đầu tư, trong 9 tháng đầu năm, các DN FDI đã đạt tổng doanh thu 25,8 tỉ USD, trong đó xuất
khẩu tới hơn 14 tỉ USD, tăng gần 32% so với cùng kỳ.
Những dự báo này cho thấy sức tăng trưởng mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây (theo lời Thủ Tướng.
Cơ sở này là điểm cân nhắc cho nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng ra quyết định đổ thêm
vốn vào Việt Nam, cả FDI lẫn FII.

Nguồn: www.saga.vn
Trong giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/2007, đã có 8.058 dự án FDI được triển khai ở Việt Nam.
Lượng vốn đầu tư trong gần 20 năm đạt đến con số 72,86 tỉ USD nhưng cho đến thời điểm 9/2007
mới chỉ thực hiện được khoảng 42,5% – một hiệu suất không hề cao. Nếu bổ ra theo các ngành công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì càng thấy rõ.
Bảng trên cho thấy có rất ít vốn đổ vào ngành nông nghiệp, nhiều nhất và vượt trội là vốn đầu tư vào

ngành công nghiệp. Lượng vốn đầu tư vào mảng dịch vụ chỉ bằng một nửa.
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam – góc nhìn từ thị trường tài chính

Nguồn: www.saga.vn
Trong biểu đồ tình hình sử dụng vốn của ngành dịch vụ, ta thấy rất rõ hiệu suất sử dụng thấp thể hiện
qua các cột xanh rất thấp so với các cột da cam. Có một điểm tương phản: lĩnh vực tài chính-ngân
hàng tuy có lượng vốn đầu thấp nhưng hiệu suất thực hiện rất cao, đạt xấp xỉ 91% - trái ngược với
hầu hết các lĩnh vực khác của ngành dịch vụ và cả nền kinh tế. Tuy nhiên lượng FDI đổ vào hoạt
động tài chính – ngân hàng chỉ khoảng 840 triệu USD. Trong khi chỉ riêng lượng vốn của các quỹ
đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam đã đạt mức xấp xỉ 6 tỉ USD.
Rõ ràng hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một câu chuyện khác,
cần kể riêng.
Những ngân hàng ngoại thấu hiểu người nội
Giấy phép chi nhánh của HSBC ở Tp. Hồ Chí Minh ghi ngày 22/03/1995, vốn điều lệ là 15 triệu USD
nhưng rất nhiều người trong chúng ta đều biết câu chuyện họ đã có mặt ở Việt Nam từ năm 1870.
Hoạt động đầu tư trực tiếp tồn tại từ rất sớm.
ANZ tuyên ngôn là một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên hoạt động tại Việt Nam với hơn
15 năm vận hành. Ngân hàng này còn nhanh tay thiết lập một hệ thống 24 điểm đặt máy ATM và
hiện đang được rất nhiều người có thu nhập cao, người có người thân đi học, công tác và cư trú ở
nước ngoài sử dụng.
Bên cạnh ANZ và HSBC, những ngân hàng Nhật cũng có mặt tại Việt Nam từ rất sớm. Những tên
tuổi như Mitsubishi Tokyo, Sumitomo-Mitsui, Mizuho,… đều nổi tiếng ở Nhật và thế giới. Họ cũng
có mặt ở Việt Nam từ những năm 1990.
Hiểu rồi thì mua …
Thống kê một số hoạt động mua lại cổ phần ngân hàng trong nước.
Thời gian Tên DN Nước TênNH Mức Giá trị ($)
24/03/2005 ANZ Úc Sacombank 10% 27 triệu
29/06/2005 Standard Chartered Anh ACB 10% 22 triệu
28/12/2005 HSBC HongKong Techcombank 10% 17,3 triệu
28/09/2005 OCBC Singapore VPBank 10% 15,7 triệu

17/01/2007
United Overseas Bank
Limited (UOB) Singapore Southern Bank 10%
14/07/2007 ANZ Úc SSI 10%
14/09/2007 HSBC HongKong Tập đoàn Bảo Việt 10% 225 triệu
2/10/2007 HSBC HongKong Techcombank 5% 33,7 triệu
4/10/2007 Deutsche Bank Đức Habubank 10% -
12/2007 Paris National Bank-
Paribas Pháp OCB 10% -
Nguồn: www.saga.vn
Bảng trên liệt kê một số vụ mua cổ phần ngân hàng trong thời gian gần đây. ANZ và HSBC, hai cái
tên ta vừa nhắc đến ở trên cũng chính là hai ngân hàng tích cực nhất trong hoạt động đầu tư gián tiếp
mua lại cổ phần các ngân hàng trong nước.
Cùng với nguồn vốn và trợ lực từ HSBC, Techcombank trở thành một trong những ngân hàng tư
nhân phát triển nhanh và mạnh nhất ở khu vực miền bắc, đang ráo riết mở rộng phạm vi của mình ở
khu vực phía Nam. Chỉ trong vòng 3 năm 2005, 2006, 2007, Techcombank liên tục nhận những giải
thưởng danh giá từ Wachovia, Bank of Newyorks, CitiBank,… nhận giải thưởng thương hiệu mạnh
và là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam nằm trong danh sách xếp hạng tín nhiệm ngân hàng của
Moody’s. Một sức sống hoàn toàn mới và bản thân HSBC cũng thể hiện sự “phấn khích” khi tháng
10 vừa rồi quyết định mua thêm 5% cổ phần Techcombank với giá cao gần gấp 2 lần mức giá họ mua
10% của Techcombank hai năm trước. Họ đang chứng tỏ những mối quan hệ bền chặt và rõ ràng FDI
hay FII không còn nhiều ý nghĩa, thành công mới là câu chuyện để mừng.
ANZ cũng khẳng định mình biết làm đầu tư. Khoản đầu tư 27 triệu USD vào Sacombank cách đây
hơn 2 năm bây giờ đã có giá trị thị trường trên 3 nghìn tỉ, lãi 2,6 nghìn tỉ, một thương vụ đầu tư cực
kỳ thành công. STB hiện nay đang là một trong những cổ phiếu được ưa thích nhất trên sàn giao dịch
TP. HCM. Nó được ưa thích không chỉ nhờ tính thanh khoản cao mà còn nhờ hiệu quả vận hành rất
tốt của Sacombank, thương hiệu được ghi nhận và được tín nhiệm, đặc biệt của người dân phía Nam.
Sàn HoSE chỉ có hai cổ phiếu nhóm tài chính – ngân hàng, cả hai đều là những tên tuổi hàng đầu,
ngoài STB vừa nhắc đến còn có SSI. SSI cũng lại là một đối tượng đầu tư của ANZ. Với 88 triệu
USD để mua 10% SSI, sau hơn 3 tháng, giá trị tính theo giá thị trường là 130 triệu USD, lãi 50% sau

3 tháng. Chỉ FII mới có thể làm lên những khoản lãi khổng lồ trong khoảng thời gian rất ngắn.
Tuy nhiên việc so sánh FDI và FII không nên chỉ nhắm vào số lãi trên thời gian. Hãy nhìn vào cách
làm của ANZ, ngoài việc thực hiện đầu tư vào SSI, ANZ còn tham gia hỗ trợ với các tiêu chí về kĩ
thuật và quản trị kinh doanh. Những thành công vượt bậc của SSI trong khoảng thời gian ngắn gần
đây không thể không có phần đóng góp của ANZ và Daiwa Securities. FII đang thực sự minh chứng
hiệu quả của mình.
Câu chuyện đương nhiên sẽ không dừng lại, ngoài ANZ và HSBC còn có Standard Charter, Deustch
Bank hay Paribas. Tiếp theo các ngân hàng là thế lực vô cùng hùng hậu và có sức mạnh còn vượt trội
hơn nữa của các quỹ đầu tư quốc tế, các ngân hàng đầu tư hàng đầu như Morgan Stanley hay
G.Sachs. Mới đây trong một cuộc trao đổi với các đối tác từ Mỹ, chúng tôi được biết có đến 200 quỹ
đầu tư của họ đang chờ tín hiệu tốt để cùng tham gia vào thị trường Việt Nam. FII có thể tăng chóng
mặt, vốn sẽ bỗng chốc chảy ào ạt. Nhưng cũng đồng nghĩa với rủi ro đang đạt đến mức cần báo động
và phải có biện pháp phòng vệ.
Tương lai là gì
Ai cũng muốn nhìn vào tương lai tốt đẹp. Mặt tốt đẹp của những điều chúng ta trao đổi là lượng vốn
khổng lồ chảy vào sẽ kích thích nền kinh tế vọt lên nhanh chóng. Xu thế kết hợp cả đầu tư trực tiếp
và gián tiếp sẽ được nhiều nhà đầu tư nước ngoài áp dụng. Đầu tư trực tiếp để chủ động tìm hiểu,
nắm bắt thị trường, còn đầu tư gián tiếp để mở rộng hoạt động, đa dạng kinh doanh, danh mục đầu tư.
Đầu tư trực tiếp sẽ có ý nghĩa mở đường cho đầu tư gián tiếp.
HSCB đưa ra các khuyến cáo định hướng cho khách hàng của mình đầu tư vào Việt Nam. Khi đó, họ
vừa làm dịch vụ cho chính họ, đồng thời khuyến khích hoạt động đầu tư gián tiếp khác vào Việt
Nam.
Hội nhập WTO và hấp dẫn của thị trường 80 triệu dân đang tăng trưởng mở đường cho sự xuất hiện
ngày một đông đảo hơn đội ngũ các ngân hàng và định chế tài chính quốc tế tại Việt Nam dưới hình
thức FDI. Tuy nhiên với tốc độ tăng quá nhanh của số lượng các tổ chức tài chính như công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tài chính, ngân hàng… thì xu thế thâu tóm và mua lại đối tác
Việt Nam của các tổ chức tài chính nước ngoài dường như được báo trước sẽ đến thời điểm rất thuận
lợi và khi diễn ra sẽ rất ào ạt.
Bài đăng trong sách "20 năm Đầu tư nước ngoài- Nhìn lại và hướng tới 198 - 2007" do Cục Đầu tư
nước ngoài, Hội DN đầu tư nước ngoài và Tạp chí DN đầu tư nước ngoài hợp tác xuất bản; 1/2008

Lưu Quý Phương - Bùi Quang Nam © SAGA- www.saga.vn.

×