“Cái nết” và “cái đẹp”
“Cái nết đánh chết cái đẹp”, câu tục ngữ một thời tưởng bị chìm
khuất đi trong nhịp sống hiện đại của thời hội nhập. Cứ ngỡ như “cái
đẹp” đang lên ngôi trong hội chứng bắt chước những ngôi sao điện
ảnh nước ngoài mà cứ bật ti-vi lên là đập ngay vào mắt.
Rồi hối hả rộn ràng thôi thúc thị hiếu của không ít bạn trẻ đang
bị hút hồn theo những cuộc thi hoa hậu và người mẫu uốn lượn,
khơi gợi với những màn trình diễn “duyên dáng”, “mát mẻ” triền
miên. “Đánh chết thế nào được, cái nết chào thua trước cái đẹp
thì có”, một số bạn trẻ dõng dạc tung hô. Thế rồi, vụ “xì-căng-
đan” hoa hậu vừa đăng quang gây bức xúc công luận, khiến
người ta nhớ lại và suy ngẫm thêm về câu tục ngữ kia.
Nếu những điều vừa diễn nói trên là đúng, thì quả thật rất cần
phải bàn lại chuẩn của Hoa hậu với những cuộc thi mà xem ra
đang là một hội chứng tràn lan. Và cần thiết hơn, phải trở lại
khái niệm đẹp trong lý tưởng thẩm mỹ của chúng ta hàm chứa
thuần phong mỹ tục của dân tộc nói riêng và trong triết lý
phương Đông nói chung. Lý tưởng ấy đang dẫn dắt thị hiếu của
một bộ phận lớp trẻ háo hức dõi theo các cuộc đua “người
mẫu”, cuộc thi Hoa hậu….
Những hoạt động đó đang là những hiện tượng văn hóa trong
đời sống đất nước. Phải chăng cần nghiêm chỉnh nhìn nhận
“hiện tượng văn hóa” ấy trên quan điểm “văn hóa là nền tảng
tinh thần của đời sống xã hội” mà Nghị quyết của Đảng đã
khẳng định để hiện tượng văn hóa không bị những hành vi phản
văn hóa làm vấy bẩn.
Khi các sự kiện văn hóa được dồn dập đưa lên màn hình và các
phương tiện truyền thông đại chúng khác, chúng sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, đặc biệt là đối với thế hệ
trẻ, ảnh hưởng tốt được phát huy và ảnh hưởng xấu cũng lan
tỏa, mà thói thường, cái xấu lan tỏa nhanh hơn cái tốt. Chính vì
thế, trao đổi lại vấn đề cái nết và cái đẹp trong truyền thống
thẩm mỹ dân tộc chắc không là tiếng kèn lạc điệu mà có khi lại
là một tiếng chuông cảnh báo.
Thật ra, phương Đông cũng như phương Tây, tư duy của loài
người đâu có đối lập giữa đẹp và nết, sự hài hoà giữa cái đẹp
thể hình với cái đẹp tinh thần, giữa “sắc đẹp” quan sát được
bằng mắt với phẩm chất, nhân cách của con người được cảm
thụ không chỉ bằng mắt, đều là thuộc tính của con người, thuộc
tính người. Emanuel Kant, nhà triết học lớn đã để dấu ấn rất sâu
đậm trong lịch sử tư duy của loài người, từng cho rằng: “Lý
tưởng của chân lý là Trời. Lý tưởng của cái đẹp là Người”.
Cái đẹp gắn liền với con người, phạm trù đẹp xuất hiện cùng với
phạm trù người, chỉ con người mới thưởng thức được cái đẹp.
Có lẽ vì thế mà C.Mác viết : “Con mắt trở thành con mắt người
cũng như đối tượng của con mắt trở thành đối tượng của xã
hội, của con người, do con người sáng tạo ra vì con người” vì
thế mà C. Mác cho rằng “do đó con người cũng sáng tạo theo
cả những quy luật (thước đo) của cái đẹp”.
Trong cảm quan thẩm mỹ của dân tộc ta, ý tưởng về cái đẹp
được diễn đạt dung dị song thật hàm súc trong câu tục ngữ:
“Người ta là hoa của đất”. Có lẽ thuật ngữ Hoa hậu, từ hoa trong
danh xưng này, cần làm đậm nét ý nghĩa rất thâm thúy trong
cách diễn đạt thật dung dị này. Hàm lượng trí tuệ câu tục ngữ
này quả là phong phú.
Nghĩ sâu vào, có thể hiểu ra vì sao văn hào Nga Đốtxtoiepxki
viết rằng “cái đẹp sẽ cứu thế giới” còn M. Gorki thì tin rằng “mỹ
học (tức là khoa học về cái đẹp. TL) là đạo đức học của tương
lai”! Dù được diễn đạt dưới nhiều cách khác nhau, điểm quy
chiếu của những ý tưởng lớn ấy vẫn là con người, con người
trong tính toàn vẹn của nó, trong sự gắn bó, đan kết của chân,
thiện, mỹ. Cái đẹp (mỹ) có mối tương tác hài hòa với cái đúng
(chân) và cái tốt (thiện).
Trong truyền thống văn hóa của dân tộc ta, con người, phẩm
chất của con người là mối quan tâm hàng đầu của các bậc thức
giả. Chẳng thế mà Nguyễn Văn Siêu một danh sĩ thời Tự Đức,
khi bàn về văn hóa, văn chương đã chia làm hai loại,“Có loại
đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú
ở con người”. Ngẫm cho kỹ, khi ông cha ta nói quá đi mối tương
quan giữa cái nết và cái đẹp là cũng chỉ để đề cao con người, đề
cao cái đẹp của con người, chứ không nhằm đối lập giữa cái
đẹp và cái nết đều là những giá trị quý báu của con người.
Chỉ có điều, vì “cái nết” là thuộc tính người, chỉ có ở con người
nên đưa “nết” lên trước là có cái lý của nó, vì “chuyên chú ở
con người”. Với một bông hoa, người ta nói bông hoa đẹp, và
cùng lắm thì chê là bông hoa này không đẹp chứ không ai chê
là bông hoa “mất nết”. Ông cha ta đặt trọng nết, thêm cho nết
một “quyền uy” trước “đẹp” chắc là vì lẽ đó chứ “cái nết”
không đánh chết ai cả. Nó chỉ răn dạy người đẹp đừng mất nết
để làm phôi pha, gây phản cảm với cái đẹp, thậm chí triệt tiêu
cái đẹp.
Không biết hiện nay, trong số những nam thanh nữ tú đang hối
hả học đòi theo những mốt thời thượng cho thật “sành điệu”,
bắt chước sao cho giống cách ăn mặt uốn éo, dậm giật của
những màn trình diễn của nước ngoài, cố “chép” cho y nguyên
bản mà chưa kịp tiêu hoá đó, có ai thuộc kiểu dáng con sáo cụt
lưỡi mà Cao Bá Quát đã nói đến không. Mong sao không có ai!
Chỉ có điều, nếu tin rằng “mình sẽ còn tiến xa”, và cái đích
trước mắt là cuộc thi Hoa hậu thế giới sắp đến, mà sự chuẩn bị
cho cuộc thi ấy thì “chuẩn bị trước tiên là về ngoại hình. Tôi sẽ
trang điểm tạo cho mình một vẻ đẹp thuần Việt để đưa nhan sắc
Việt ra với bạn bè thế giới” còn chuyện “đọc sách thu nạp thêm
kiến thức, học ngoại ngữ thật chuẩn” là việc làm lúc “tranh thủ
thời gian rảnh rỗi” (Thanh Niên ngày 4.9.08), thì e rằng “cái vẻ
đẹp thuần Việt” này đang được nhận thức một cách quá nông
cạn.
Từ xưa trong dân gian, bà con ít chữ của chúng ta từng bộc
bạch ý tưởng một cách mộc mạc : “Trông xa ngỡ tượng tô vàng.
Đến gần lại hóa chẫu chàng ngày mưa”! Ở đây, “đến gần”
không chỉ diễn đạt khoảng cách không gian, mà còn hàm ý thời
gian “thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết tính người dở
hay”, cho nên mới có chuyện “kìa ai lào lạo ngoài da, mà trong
rỗng tuếch như hoa muống rừng”.
Từ đó mà dẫn đến một lời răn nghe ra có vẻ cực đoan, vì nếu
như thế thì phải xóa sổ các cuộc thi Hoa hậu mất: “tốt gỗ hơn
tốt nước sơn, xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người”! Nhưng
giả dụ, nói đổ sông đổ biển, nếu chẳng may mà câu chuyện
tước vương miện lại trở thành một kết cục cay đắng cho cô gái
18 tuổi kia, thì cái logic cực đoan ấy không phải là không có một
hạt nhân hợp lý nào đó! “Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô” và
có “đứt tay mới hay thuốc”!
Cái đẹp hình thể là của trời cho, và trong chuyện này thì xem ra
tùy thuộc vào “cái quay búng sẵn trên trời”, dù không đến nỗi
“mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” như cụ Nguyễn Gia Thiều
cảm nhận, nhưng quả thật chuyện đẹp, xấu cũng như trúng xổ
số, may ai nấy được, tạo hóa không ban phát chủ nghĩa bình
quân nhằm chia đều nhan sắc cho các cô gái. Vì vậy mà phải
biết giữ gìn ân huệ của tạo hoá, trân trọng cái vốn tự có ấy bằng
sự nuôi dưỡng cái đẹp tâm hồn nhằm hoàn thiện cái đẹp hình
thể trời cho.
Cái đẹp tâm hồn ấy chứa trong điều mà ông cha ta gọi là “cái
nết” được thăng hoa trong câu tục ngữ quen thuộc vừa dẫn. Khi
mà các cuộc thi Hoa hậu đang đua nhau nở rộ, có người đã gọi
là “hội chứng thi hoa hậu”, thì việc gợi lại những vấn đề cứ
tưởng như chỉ là “vang bóng một thời” của một xã hội khép kín
lạc hậu, khác xa với sự cởi mở thông thoáng của thời hội nhập,
phải chăng là câu chuyện của những người “bảo thủ” với kiểu
tư duy cổ lỗ không mấy “sành điệu”. Không!
Chân trời càng mở rộng, vận hội càng vẫy gọi thì thử thách
càng gay gắt. Mà gay gắt nhất là nước ta vẫn còn đang là một
nước kém phát triển. Mặc dù Việt Nam sắp sửa vươn tới mức
thu nhập trung bình thấp nhưng một bộ phận lớn dân cư vẫn
chưa được hưởng một mức sống “chấp nhận được” theo tiêu
chuẩn quốc tế.
Trong bối cảnh đó mà nhịp độ khá dồn dập của các cuộc thi hoa
hậu, hoa hậu tỉnh, thành phố, hoa hậu vùng, hoa hậu ngành, hoa
hậu toàn quốc, hoa hậu hoàn vũ, hoa hậu thế giới…thu hút
không ít sức người, sức của, chiếm nhiều thời gian của không ít
cơ quan, tổ chức…liệu có thỏa đáng không mặc dầu người ta đã
cổ vũ cho các cuộc từ thiện và trao danh hiệu “đại sứ an sinh xã
hội vì người nghèo” cho hoa hậu vừa đăng quang. Đấy là chưa
kể một hoa hậu vừa đăng quang năm trước đã quyết định chụp
ảnh “nuy” để lấy tiền làm từ thiện! Chao ôi, sao lại phải “nuy”
mới làm được từ thiện nhỉ (?). Liệu câu tục ngữ của một thời có
còn chút gợi ý nào không: “cá lên khỏi nước cá khô, làm thân
con gái lõa lồ ai khen”!
Xem ra đã đến lúc nhìn lại các cuộc thi hoa hậu, thi người mẫu,
thi sắc đẹp với đôi mắt tỉnh táo và thấu đáo hơn. Xin gợi ra đây
câu nói của Marcel Proust, văn hào Pháp : “Một cuộc thám hiểm
thật sự không phải ở chỗ tìm kiếm những vùng đất mới, mà ở
chỗ cần có đôi mắt mới”. Khi tiến trình phát triển và hội nhập đi
vào chiều sâu, hàng loạt những thách đố chưa có tiền lệ đang
diễn ra thì những chuyện thi hoa hậu, thi sắc đẹp, thi người
mẫu, rồi mơ mộng trở thành siêu sao, sự hút hồn theo “ai-đồ”
(Ido - thần tượng âm nhạc)…cũng chỉ là những hiện tượng phái
sinh của một trào lưu văn hóa nhập ngoại.
Ở đó, thể hiện khá rõ những khát vọng của tuổi trẻ muốn được
khẳng định mình. Thỏa mãn khát vọng đó, tạo điều kiện cho
khát vọng đó được thực hiện một cách đúng đắn là đòi hỏi của
cuộc sống mà xã hội phải đáp ứng, nhất là trên lĩnh vực văn
hóa. Chân trời ngày càng rộng mở, kỹ thuật ngày càng vạn năng
thì lại càng phải đánh giá cao cá nhân con người. Trong thời đại
chúng ta đang sống, với những thành tựu kỳ diệu của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin, thì quả thật cả thế giới đang đối diện và thách thức mỗi con
người, và mỗi cá nhân cũng đang đối diện với cả thế giới , sự
khẳng định vai trò cá nhân, sự tự khẳng định của tuổi trẻ cần
phải được cổ vũ và tạo điều kiện.
Các cuộc “thi” nói trên nên được đặt vào trong bình diện ấy để
biết cách qua đó mà giúp tuổi trẻ tự khẳng định mình một cách
lành mạnh, đồng thời lại phải thấy ra được điểm dừng cần thiết
với một tầm nhìn vừa cởi mở vừa nghiêm cẩn nhằm tránh được
những phản cảm do chúng gây ra và để phát huy được cao nhất
hiệu quả của nó. Cho nên, nếu chỉ quen với những con đường
mòn, người đi sau dẫm lên dấu chân của người đi trước, sẽ dẫn
đến thảm hoạ vì con đường mòn đó không có lối ra trong một
thế giới mà mọi sự dự đoán đều không chắc chắn. Sự sống
không ngừng sinh sôi nảy nở, và thông thường, nhận thức của
con người lại đòi hỏi một quá trình, đặc biệt là trên lĩnh vực văn
hóa.
Bởi lẽ, văn hóa không phải là “mì ăn liền”. Văn hóa được hình
thành bằng quy luật thẩm thấu. Đến với những thành tựu của
nền văn minh thế giới là nhu cầu của phát triển. Song cần hiểu
rằng, văn minh và văn hóa không hoàn toàn giống nhau. “Văn
hóa, với ý nghĩa sâu xa nhất và tốt đẹp nhất của nó” là “cốt lõi
của bản lĩnh, bản sắc dân tộc từ xa xưa cho đến nay”, là “sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lĩch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết
bao sóng gió thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua
được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh …(Phạm Văn
Đồng).
Đó chính là điểm tựa vững chắc để chúng ta đến với thế giới, để
tiếp thu những thành tựu của văn hóa và văn minh mà loài
người đã đạt được. Vậy thì liệu những trục trặc không đáng có
trong cuộc thi Hoa hậu 2008 có “dừng lại ở trình độ cảm tính, ở
chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng” mà nghị quyết Đảng đã
phê phán như đã dẫn ra không, liệu có đúng đó là những sự
kiện văn hóa nằm trong nội dung “văn hóa, với ý nghĩa sâu xa
nhất và tốt đẹp nhất của nó” không hay chỉ là những thứ phẩm
của văn hóa?
Vả chăng, trong nền văn minh của thế kỷ chúng ta đang sống,
“sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ là sự thay đổi về tri thức - về hình
thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri
thức, về những đặc điểm của con người có giáo dục”. Ấy vậy
mà, hệ thông giáo dục của ta cần phải vượt qua khủng hoảng:
Mặc dù tỷ lệ đi học ở các cấp phổ thông tương đối cao, nhưng
chất lượng của các bậc học này rất đáng lo ngại. Kết quả trượt
tốt nghiệp trung học phổ thông trong năm 2007 cho thấy nhiều
học sinh không nắm được kiến thúc cơ bản. Số lượng học sinh
bỏ học đang tăng cao.
Gánh nặng chi phí cho việc học đang quá sức với nhiều gia đình
nghèo đang chiếm một tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, số lượng sinh
viên được vào đại học cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong
những người ở độ tuổi học đại học. Trong năm 2000, tỷ lệ lao
động tốt nghiệp đại học chỉ chiếm 2% tổng dân số, so với 5% ở
Trung Quốc và 8% ở Ấn Độ là những nước đông dân hơn rất
nhiều.
Phải xót xa nhắc đến những điều không vui đó vì rằng, “Nguyễn
Trãi nói Nước ta là một nước văn hiến. Điều đó có nghĩa là trọng
học vấn và trọng người có học. Trọng học vấn, trọng nhân tài, vì
đó là những của quý không gì thay thế được của một nước, một
dân tộc.
Có nó thì sẽ có tất cả, thiếu nó, thì cái còn lại còn gì là đáng giá”
(Phạm Văn Đồng). Để dừng lại bài viết, xin lại viện đến Nguyễn
Văn Siêu với mong mỏi của ông cách đây ngót hai thế kỷ khi
bàn về nuôi dưỡng nhân tài : “thăm dò cái gốc của nó, lại phải
tưới tắm cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải
buông lơi cái dòng của nó”.
TƯƠNG LAI