Chính sách tài chính và tiền tệ
Các khó khăn của Chính sách Tiền tệ trên Thực tế
Trên thực tế, có rất nhiều khó khăn tiềm tàng đối với việc thực
hiện chính sách tiền tệ.
- Như chúng ta đã thấy, cung ứng tiền bao gồm cả các khoản tiền
gửi ngân hàng, mà nó được quyết định một phần bởi hoạt động
của ngân hàng trung ương, và một phần do quyết định của các
hộ gia dình/doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó, sự thay đổi trong
cung ứng tiền có thể không chính xác như ngân hàng mong
muốn.
- Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực thi chính sách tiền tệ,
điều này có nghĩa là có thể mất đến 18 tháng để áp dụng được
chính sách tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều này có thể đến
quá trễ! Ví dụ, ngân hàng trung ương có thể giảm lãi suất, nhưng
các dự án đầu tư cần thời gian để xây dựng và thực hiện, và các
nhà máy có thể không hình thành và hoạt động trong khoảng thời
gian mong muốn.
- Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá cả, và điều này
có thể có tác động cản trở đến chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu
chúng ta đạt đến mức có đầy đủ việc làm, một chính sách tiền tệ
tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả, và có ảnh hưởng nhỏ đến GDP
thực tế và mức giá.
Hãy để ý, điều gì là chính sách thực tế hiện tại của Ngân hàng
Canada?
- Ngân hàng Canada đang tập trung vào việc duy trì mức lạm
phát thấp và ổn định.
- Mục tiêu hiện tại của Ngân hàng là duy trì lạm phát ở trong
khoảng 1% và 3%.
- Trong năm qua, mức lạm phát tăng lên trong khoảng từ 1% đến
2% gần đây, chủ yếu là do sự tăng giá nguyên liệu đầu vào chưa
chế biến như dầu thô.
- Hoa Kỳ cũng chịu tác động của áp lực lạm phát tương tự, thậm
chí là chịu tác động mạnh hơn.
- Ngân hàng trung ương của cả hai nước đang mong muốn chấm
dứt những áp lực lạm phát này bằng cách tăng lãi suất trong thời
gian tới ? chúng ta có thể dự đoán được sẽ có một sự tăng nhất
định về lãi suất ở Hoa Kỳ và Canada, như trong bài báo
?Greenspan tăng lãi suất?, được đăng trên tờ Globe and Mail số
tháng Hai, năm 2000 (Greenspan là giám đốc ngân hàng trung
ương Hoa Kỳ).
- Chúng ta cũng sẽ xem xét chính sách tiền tệ chống lạm phát
trong phần tiếp theo.
2) Thực thi chính sách tiền tệ ở Canada.
Hình 3 dưới đây cho thấy sự thay đổi trong cung ứng tiền có tác
động thực sự đến lãi suất như chúng ta đã dự đoán ? làm giảm
mức tăng trưởng của cung ứng tiền (được xác định bằng M1) làm
tăng lãi suất, bằng sự dịch chuyển của đường LM sang trái.
Hình 3 Tăng trưởng tiền tệ và lãi suất[1]
Mức tăng trưởng của M1
Lãi suất trái phiếu kho bạc 90 ngày
Chúng ta cũng có thể thấy được ảnh hưởng của việc tăng trưởng
tiền đối với lãi suất được chuyển thành mối quan hệ giữa mức
tăng trưởng của cung ứng tiền và chu kỳ kinh tế như Hình 4 dưới
đây.
- Chúng ta có thể thấy rõ ràng là sự giảm xuống mức tăng trưởng
M1 có quan hệ chặt chẽ với sự giảm xuống của GDP thực tế, với
độ trễ khoảng một năm.
- Cung ứng tiền giảm làm giảm hoặc thay đổi ngược lại mức tăng
trưởng GDP thực tế; cung ứng tiền tăng làm tăng mức tăng
trưởng GDP thực tế, mặc dù ảnh hưởng này không mạnh lắm.
- Chúng ta đặc biệt chú ý rằng các cuộc khủng hoảng năm 1982
và 1990-91 xảy ra đồng thời hoặc ngay sau khi có sự tăng trưởng
âm của đồng tiền.
Hình 4 Tăng trưởng tiền tệ và Chu kỳ Kinh tế[2]
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng mức giá và lạm phát đều chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của chính sách tiền tệ.
- Chỉ cần nhìn vào chính sách tiền tệ ở Canada gần đây, ở đó
chính sách tiền tệ thắt chặt nhiều năm đã làm cho Canada có
mức lạm phát thấp nhất trong vòng 30 năm, và đứng vào hàng
một trong những nước phương Tây có mức lạm phát thấp nhất.
Hình 5 Tăng trưởng tiền tệ và Lạm phát[3]
- Điều này được thể hiện trong Hình 5 trên đây, nó chỉ ra mối
quan hệ gần gũi giữa mức tăng cung ứng tiền (xác định bởi mức
tăng của M2+) và mức lạm phát ? lưu ý rằng quan hệ này diễn ra
với độ trễ một năm.
- Chúng ta sẽ nói thêm một chút về vấn đề này bằng cách đề cập
đến chính sách chống lạm phát trong cuộc suy thoái 1990-91, và
chính sách chống suy thoái hiện tại.
Ảnh hưởng của Chính sách Chống lạm phát cuối những năm 80
Hình 5 trên đây chỉ cho chúng ta thấy mức tăng cung ứng tiền
giảm đi dường như làm giảm lạm phát.
- Lạm phát thường xảy ra khi đường AD dịch chuyển sang phải
quá nhanh, hoặc nếu đường SAS dịch chuyển sang trái quá
nhanh.
- Hình 6 dưới đây chỉ ra một trường hợp với mức tăng trưởng
quá cao của AD.
- Đường AD
0
hiện tại được kỳ vọng sẽ tăng lên đến AD
exp
trong
giai đoạn tiếp theo, tạo nên một áp lực lạm phát.
- Hơn nữa, cuối cùng chúng ta sẽ thấy một áp lực tăng lên về tiền
lương bởi vì sản lượng sẽ cao hơn mức tự nhiên, và thất nghiệp
sẽ dưới mức tự nhiên ? hãy xem dòng gạch chân trong bài viết
của Greenspan.
Hình 6
- Để chấm dứt tình trạng này, ngân hàng trung ương giảm mức
tăng trưởng AD, điều này làm cho đường LM dịch chuyển sang
trái, và giữ cho AD khỏi sự tăng trưởng quá nhanh.
- Nếu họ đánh giá sai tình huống, họ có thể có đường AD mới
nằm bên trái của đường AD
0
hiện tại, và chúng ta gặp phải suy
thoái, như là trong năm 1990-91.
- Như chúng ta có thể thấy trong Hình 5, có một vài vấn đề lạm
phát nhỏ trong cuối những năm 90, và Ngân hàng Canada phản
ứng bằng cách giảm mức tăng cung ứng tiền.
- Chúng ta có thể thấy trong Hình 3 rằng mức tăng cung ứng tiền
danh nghĩa trở nên âm, và nếu mức lạm phát lúc đó là 5%, thì
mức tăng cung ứng tiền thực tế thậm chí còn thấp hơn thiều.
- Kết quả là có sự tăng lên về lãi suất trong năm 1990, và dẫn
đến giảm mạnh đầu tư trong những năm tiếp theo, như chúng ta
đã thấy trong Chương 4 - giữa năm 1989 và 1993 đầu tư thực tế
giảm 13.9%, và nền kinh tế đi vào suy thoái.
- Hình 5 cho thấy, Ngân hàng Canada đã thành công trong việc
giảm lạm phát đến mức gần 1%, nhưng phải cần một chi phí rất
lớn để điều chỉnh lạm phát.
- Mọi người rất nhận thức được điều này trong những năm đầu
của thập kỷ 90, họ hy vọng rằng ngân hàng trung ương Canada
và Hoa Kỳ có thể thực hiện tốt hơn việc chấm dứt những áp lực
lạm phát hiện thời mà không cần gây ra sự suy thoái.
Bây giờ chúng ta đã hiểu về chính sách tiền tệ hoạt động như thế
nào, đây là lúc để tìm hiểu về chính sách tài chính.
3) Chính sách tài chính trong mô hình IS-LM
Chính sách tài chính bao gồm những nỗ lực của chính quyền liên
bang hoặc cấp tỉnh nhằm tác động đến tình trạng kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế bằng cách thay đổi thuế, các khoản chi trả
chuyển nhượng, hoặc mua sắm của chính phủ các hàng hoá và
dịch vụ.
- Trong khoá học này, chúng ta không tập trung vào những nỗ lực
để thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, như là chính sách môi
trường, chính sách lao động (ví dụ, trợ cấp sinh đẻ tăng lên trong
ngân sách liên bang năm 2000), chính sách đối với nông nghiệp,
v.v
- Chúng ta tập trung vào những nỗ lực làm ảnh hưởng đến tổng
chi tiêu với chính sách tài chính.
-Tự động hoá ổn định là một dạng của chính sách tài chính tự
động trong hoàn cảnh suy thoái hoặc kinh tế bùng nổ, mà không
có những sự thay đổi có chủ ý của chính phủ.
- Ví dụ, nếu nền kinh tế đi xuống, thu thuế giảm và các khoản chi
phí chuyển nhượng như bảo hiểm thất nghiệp hoặc khoản phúc
lợi sẽ tăng lên, làm tăng thu nhập có sẵn và tiêu dùng, điều này
có tác động ngăn cản sự đi xuống của nền kinh tế.
- Chính sách tài chính tuỳ nghi là những thay đổi có chủ ý trong
cấu trúc thuế và chương trình chi tiêu nhằm làm tăng hoặc giảm
tổgn cầu.
- Chúng ta phải lưu tâm đến chính sách tăng trưởng dài hạn -
nhằm thay đổi tăng trưởng kinh tế dài hạn của nền kinh tế, có lẽ
bằng cách khuyến khích các ngành công nghệ cao, hoặc đầu tư
vào các trường đại học, đường sá, sân bay, v.v. - nhằm đẩy
nhanh tốc dộ tăng trưởng của tổng cung.
Ngân sách Chính phủ Liên bang năm 2000.
Những chính sách tôi mô tả ở trên thường được công bố trong
các văn bản ngân sách hàng năm, đó là báo cáo hàng năm về kế
hoạch thu chi của chính quyền liên bang và cấp tỉnh.
- Bảng dưới đây cho chúng ta thấy các phần chính của kế hoạch
thu chi của Ngân sách Liên bang 2000, công bố ngày 28 tháng
Hai.[4]
- Như chúng ta có thể thấy từ bảng này, khoản mục chi tiêu lớn
nhất của chính quyền liên bang là khoản nợ còn tồn từ thâm hụt
ngân sách từ năm trước - mức độ hiện tại của khoản này khoản
$575 tỷ, hay khoảng $18,808 mỗi người (chúng ta sẽ quay lại
thâm hụt ngân sách và nợ trong phần 4).
- Tiếp theo, họ hầu như chi tiêu bằng cách chuyển tiền đến nhiều
người, doanh nghiệp, và các tỉnh.
- Cuối cung, họ chi tiêu một lượng nhỏ vào mua sắm thực tế của
chính phủ các hàng hoá và dịch vụ
Ngân sách Liên bang 2000-2001
M
ục
Giá tr
ị dự kiến
(T
ỷ
đô la)
% Chi tiêu
hoặc thu
Thu ngân sách
162
Thuế thu nhập cá nhân 75,9
46,9%
Thuế thu nhập doanh
nghiệp
23,9
14,8%
Thuế bán hàng, thuế quan,
v.v
33,5
20,7%
U.I Premiums 18,2
11,2%
Khác 10,5
6,5%
Chi ngân sách
162
Chuyển cho các tỉnh 22,6
14,0%
Các khoản chuyển lưu 19,6
12,1%
Chi trả tiền lời 42,0
25,9%
Chi trả lợi của người già 24,2
14,9%
Lợi U.I. 11,2
6,9%
Chi phiếu mua của chính 37,8
23,3%
phủ
Tiền dự trữ 4,0
2,5%
Thâm h
ụt hoặc thặng d
ư
dự kiến
0
Bây giờ chúng ta đã biết được các khoản mục chính trong chi tiêu
ngân sách, chúng ta hãy xem những thay đổi về thuế và/hoặc chi
tiêu ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào.
Mô hình IS-LM cơ bản của Chính sách Tài chính
Chúng ta đã biết từ Chương 5 năm rằng một sự tăng lên chi tiêu
của chính phủ làm dịch chuyển đường IS sang phải, bởi một
lượng tương ứng với số nhân x DG.
- Tuy nhiên, phân tích đó dựa trên thị trường hàng hoá dịch vụ
trong sự cô lập, bỏ qua thị trường tiền tệ, và giữ nguyên mức lãi
suất VÀ mức giá.
- Bây giờ chúng ta muốn mở rộng phân tích này bằng cách xem
điều gì xảy ra đối với sự cân bằng kết hợp, khi chúng ta cho phép
hai biến này thay đổi.
- Hình 7 dưới đây chỉ ra ảnh hưởng của chính sách tài chính mở
rộng, như là tăng chi tiêu của chính phủ hoặc giảm thuế.
- Thay đổi đó làm tăng tổng chi tiêu dự kiến và làm dịch chuyển
đường IS sang phải, mức lãi suất giữ nguyên.
- Chúng ta có thể thấy bản ảnh hưởng của số nhân trong
Chương 4 trên đồ thị, Y
0
? Y
A
.
Hình 7
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy trong mô hình kết hợp đủ rằng sự
tăng lên của Y từ chính sách mở rộng không phảii là phần kết của
câu chuyện.
- Sự dịch chuyển sang trái của đường IS thể hiện sự tăng lên về
chi tiêu, va tăng GDP thực tế.
- Trong thị trường tiền tệ, GDP tăng lên làm tăng nhu cầu về tiền,
điều này lại làm tăng lãi suất từ r
0
đến r
1
.
- Lãi suất tăng lên làm giảm chi tiêu đầu tư của các doanh nghiệp,
được thể hiện bằng mũi tên màu xanh như là sự dịch chuyển
lên/sang trái của đường IS.
- Do đó, sự tăng lên của GDP thực tế mong muốn, được thể hiện
bằng sự dịch chuyển sang phải của đường AD, với mức giá giữ
nguyên, là việc Y
0
chuyển sang Y
1
.
- Tiếp theo, chúng ta biết rằng sự tăng lên của AD tạo ra áp lực
tăng lên đối với mức giá.
- Khi mức giá trung bình tăng lên, nó làm giảm cung ứng tiền thực
tế, và làm dịch chuyển đường LM sang trái, làm tăng lãi suất từ r
1
đến r
2
.
- Sự tăng lên của lãi suất lần thứ hai này lại tiếp tục làm giảm chi
phí đầu tư.
- Tại phần cuối của câu chuyện, chúng ta thấy rằng tổng tăng lên
của GDP thực tế từ chi tiêu của chính phủ chỉ là việc dịch chuyển
từ Y
0
đến Y
2
, nhỏ hơn rất nhiều so với từ Y
0
? Y
A
, tổng số dự
đoán do phân tích số nhân cơ bản trong chương 4.
Sự chèn lấn (crowding out)
Phân tích của chúng ta đã chỉ ra rằng sự tăng lên trong tổng chi
tiêu do tăng chi tiêu của chính phủ hoặc việc cắt giảm thuế bị cân
bằng bởi sự giảm xuống về đầu tư do tăng thuế.
- Hiệu ứng cân bằng này được gọi là sự chèn lấn.
- Chúng ta có thể tóm tắt tổng các hiệu ứng của sự tăng lên chi
tiêu của chính phủ bằng biểu thức sau
Đây là một mối bận tâm của các nhà kinh tế học rằng chi tiêu quá
mức của chính phủ chèn lấn đầu tư tư nhân, bởi vì đầu tư tư
nhân là cách chúng ta làm tăng tổng lượng vốn, một nguồn cơ
bản của tăng trưởng kinh tế dài hạn.
- Lưu ý rằng nếu nền kinh tế bắt đầu với việc làm đầy đủ, với AD
= SAS = LAS, thì chính sách tài chính mở rộng không có một tác
động dài hạn nào đối với Y, như được chỉ ra trong Hình 8 dưới
đây.
- Trong trường hợp này, chi tiêu tăng lên của chính phủ dẫn đến
một sự chèn lấn hoàn toàn.
- Tuy nhiên, nếu như trong Hình 7 nền kinh tế không ở trong tình
trạng việc làm đầy đủ, chính sách tài chính mở rộng có thể làm
tăng GDP thực tế, và đẩy nền kinh tế đến có việc làm đầy đủ -
chính sách tài chính có thể được sửe dụng để thực hiện
chính sách ngược chu kỳ.
- Tuy nhiên, như chúng ta đã nhấn mạnh trong phần trước, mô
hình số nhân đơn giản cần được sửa đổi ? chính sách tài chính
mở rộng làm tăng lãi suất và mức giá, điều này có tắc động tiêu
cực đến nền kinh tế.
Hình 8
Những Khó khăn Tiềm tàng khác khiTthực hiện Chính sách Tài
chính trong Thực tế
Có hai vấn đề khác cần nói đến khi sử dụng chính sách tài chính.
- Thứ nhất, cũng như chính sách tiền tệ, cần có thời gian để triển
khai chính sách này trong toàn bộ nền kinh tế, điều này có nghĩa
là có sự khó khăn khi sử dụng nó như là một công cụ chính xác
để tinh chỉnh nền kinh tế.
- Thứ hai, khi bạn tăng chi tiêu của chính phủ hoặc giảm thuế như
là một phần của chính sách tài chính, điều này làm tăng thâm hụt
chính phủ, lượng tiền họ phải đi vay mỗi năm, điều này cũng có
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
4) Các khoản nợ chính phủ và sự thâm hụt
Chúng ta hãy nói về nợ chính phủ và sự thâm hụt của chính phủ,
hãy bắt đầu với một số khái niệm.
- Chúng ta có thẻ xác định cân bằng ngân sách của chính phủ
tương đương với:
Chi tiêu của chính phủ - khoản thu của chính phủ
= Mua sắm của chính phủ + Các khoản chi phí chuyển đổi +các
khoản lãi phải thanh toán đối với nợ hiện tại - thuế.
- Nếu chi phí thấp hơn thu vào, thì chúng ta có thặng dư.
- Nếu chi phí lớn hơn thu vào, thì chúng ta có thâm hụt.
+ Bù đắp bằng trái phiếu là khi khoản tiền thiếu hụt được bù
đắp bằng việc bán trái phiếu cho các thành viên trong công
chúng, do đó có sự tăng lên số trái phiếu của chính phủ trên thị
trường.
+ Bù đắp bằng tiền là khi trái phiếu được bán cho Ngân hàng
Canada, điều này tương đương với việc in một lượng tiền tương
ứng và sử dụng nó để đáp ứng số tiền còn thiếu, do đó có sự
tăng lên trong cung ứng tiền (nhưng không có thay đổi trong số
trái phiếu của chính phủ trên thị trường).
- Ở Canada, thâm hụt ngân sách thường được bù đắp bằng bán
công trái, do đó số nợ của chính phủ được tăng lên do thâm hụt,
điều này có nghĩa là:
Khoản nợ của chính phủ hiện tại = Khoản nợ năm trước + khoản
thâm hụt năm trước
= Khoản nợ cách đây 2 năm + khoản thâm hụt cách đây 2 năm +
thâm hụt năm trước
= Khoản nợ cách đây 3 năm +?
= Tổng của các khoản thâm hụt trong quá khứ.
- Do đó, quy mô của khoản nợ của chính phủ phụ thuộc vào quy
mô của thâm hụt trong quá khứ.
- Do đó, điều hành sự thâm hụt liên tục dẫn đến mức tăng càng
cao các khoản nợ chính phủ.[5]
- Nếu có sự thặng dư ngân sách một năm nào đó, điều này có
nghĩa là chính phủ giảm các khoản nợ chưa trả hết bằng cách trả
một phần khoản nợ này với số thặng dư.
- Thặng dư có thể hiểu như là thâm hụt âm.
Chúng ta đôi khi muốn nhìn vào chi tiêu cảu chính phủ với các
khoản lãi ròng, bởi vì điều này giúp chúng ta thấy được ngân
sách chính phủ có tác động như thế nào đến tổng cầu.
- Chúng ta có thể định nghĩa
chương trình cân bằng
= tổng chi tiêu (ngoại trừ các khoản lãi) - thuế.
= tổng cân bằng ? các khoản lãi.
Những vấn đề do Thâm hụt gây ra
Hình 9 dưới đây cho thấy cân bằng chung và chương trình cân
bằng gần đây, đến năm 1996 ? sau năm 1996 cân bằng tổng
nhanh chóng chuyển đến thặng dư.
- Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề thặng dư bắt đầu từ cuối thập
kỷ 70, khi chi tiêu để trợ cấp giá dầu cao và những chương trình
xã hội đã dẫn đến thâm hụt nặng.
- Sự thâm hụt này làm tăng các khoản nợ chưa trả hết, và do đó
dẫn đến tăng không ngừng các khoản lãi của nợ.
- Điều này chỉ ra một vấn đề khi ở trong sự thâm hụt ? nó tạo
thêm nhiều nợ, và thâm hụt trong tương lai, một loại hiệu ứng
quả bóng tuyết.
- Đây là một trong những lý do chính phủ liên bang và các tỉnh
quyết định cố gắng giảm thâm hụt của họ - tình huống càng trở
nên trầm trọng, và các khoản lãi tăng lên so với khoản thu thuế
của chính phủ.
- Bây giờ ngân sách đang thặng dư, tổng số nợ giảm nhẹ, do đó
các khoản lãi cũng giảm nhẹ.
- Tuy nhiên để cân bằng ngân sách, chính phủ phải vận hành một
chương trình thặng dư đủ mạnh để vượt qua được các khoản lãi.
- Chương trình thặng dư này được tạo ra bằng cách tăng thuế và
cắt giảm chi tiêu của chính phủ vào những vấn đề như bảo hiểm
thất nghiệp, và chuyển vấn đề chăm sóc y tế cho các tỉnh, và vấn
đề giáo dục sau trung học.