BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
" Văn bia lăng các vua Nguyễn "
1
MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa đề tài
Cố đô Huế, một trong những trung tâm văn hóa, lịch sử của Việt Nam.
Không những thế, Huế còn là một quần thể di tích sánh hàng với những kì quan
thế giới. Với diện tích không lớn nhưng Huế với vẻ độc đáo vĩ đại riêng của
mình như “bục đứng của một nhạc trưởng giữa một giàn giao hưởng không gian
bất tận” [24,tr177]. Thiên nhiên nơi đây có vẻ hấp dẫn lạ kì: núi xuống tận bình
nguyên, biển vào sâu thành đầm phá, đồi thông xanh lặng lẽ đối điện với đô thị
ồn ào, náo nhiệt, những ngọn đồi như đang ngủ giấc ngàn thu, dòng sông Hương
cứ êm đềm chảy Vượt qua con sông này là vùng lăng mộ của các đế vương-
nơi an nghỉ của những con người một thời đầy quyền lực. Sự hòa điệu giữa
những nét cổ kính mang dấu ấn dân tộc với những nét hiện đại của nền văn minh
mới đã mang đến cho Huế một hơi thở vừa quen vừa lạ làm say đắm lòng người.
Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu của công cuộc đổi
mới, sức sống của mảnh đất này dường như trỗi dậy và bừng cháy. Những giá trị
văn hóa truyền thống được đánh thức, đặc biệt là các di tích lăng tẩm đế vương.
Đó là sự sáng tạo góp sức của chính những con người Huế và cả những người
2
quan tâm đến nền văn hóa Huế. Huế hôm nay và mai sau mãi mãi là một bài thơ
đô thị, là kho sử liệu quý giá cần được nghiên cứu và phát huy.
Với hơn ba năm sống trên đất cố đô đầy huyền thoại, chúng tôi cảm thấy
mình cần phải làm gì đó để góp phần vào sức sống đang trỗi dậy của cố đô, của
nền văn hóa phi vật thể đang ngày càng chứng tỏ giá trị và sức cuốn hút của
mình. Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn và các văn bia ở đó đã thực sự thu hút sự
chú ý của những người học ngành Hán Nôm như chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài này. Đây không chỉ là cơ hội để chúng tôi làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học mà còn là dịp để ứng dụng những điều đã học vào
thực tế. Chúng tôi hy vọng rằng, kết quả của đề tài này sẽ là góp phần vào việc
nghiên cứu, đánh giá giá trị văn hóa của Huế ngày càng chính xác và phong phú
hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Huế vốn là nơi giao thoa của hai nền văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh. Nói
đến văn hóa Huế, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn diện và xuyên suốt tiến trình
lịch sử bởi vì văn hóa Huế có một truyền thống lâu đời. Nhưng ngày nay, khi
nhắc đến các di tích lịch sử ở Huế, người ta thường nghĩ ngay đến lâu đài, cung
điện, lăng tẩm, thành quách Bởi vì đây là một quần thể di tích đồ sộ và nhờ có
quần thể di tích này mà Huế trở nên nổi tiếng, được vinh danh là di sản văn hóa
nhân loại. Đặc biệt lăng tẩm của các bậc đế vương trong mắt của du khách và các
nhà nghiên cứu lịch sử- văn hóa luôn gợi cho chúng ta sự tò mò. Các công trình
nghiên cứu về các lăng vua có thể nói là rất nhiều. Có những công trình nghiên
cứu mang tính khái quát như “Lăng tẩm Huế- một kì quan” và “Kiến trúc cố đô
Huế” của Phan Thuận An, “Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam” của Thái
Công Nguyên; Có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về một lăng như tác
phẩm “lăng của hoàng đế Minh Mạng” của Mai Khắc Ứng Đó là chưa kể đến
các bài nghiên cứu trên các tạp chí như: “Lăng Gia Long” trên tạp chí BAVH tập
X năm 1923, “Lăng Minh Mạng”- BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia trên lăng
Gia Long- BAVH tập X năm 1923, bản dịch bài văn bia của lăng Minh Mạng
-BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia lăng Tự Đức trên tạp chí sông Hương số 46
(T4-1991) Nhìn chung, đề tài chúng tôi đang nghiên cứu chưa phải là sự mới
3
mẻ trong công tác nghiên cứu lăng tẩm ở Huế, nhưng mục đích của đề tài là sự
tổng hợp lại có hệ thống những văn bia hay còn gọi là “thánh đức thần công bi” ở
các lăng vua Nguyễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Lịch sử với những thăng trầm của nó đã giữ lại cho hậu thế những gì cần
giữ lại và xóa đi những cái không cần thiết. Đó cũng giống như trong mười ba
đời vua sau chỉ có 7 lăng tẩm của các vua Nguyễn vẫn còn giá trị và đang tồn tại.
Trong đề tài này, đối tượng được nghiên cứu là các “thánh đức thần công bi” ở
sáu khu lăng tẩm. Đó là Thiên Thọ lăng của vua Gia Long, Hiếu lăng của vua
Minh Mạng, Xương lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức, Tư
Lăng của vua Đồng Khánh và Ứng lăng của vua Khải Định.
Phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài thực địa nên sự cần thiết của nó là bản
nguyên văn chữ Hán của bài văn bia và phần dịch nghĩa. Phạm vi đề tài không
nằm ngoài sự khảo sát và đánh giá về cả nội dung và hình thức của các bài văn
bia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cũng như các công trình nghiên cứu khác, phương pháp nghiên cứu được
sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là công tác điền dã, thu thập và xử lí tài
liệu. Các phương pháp cụ thể như sau:
- Khảo sát thực địa: chúng tôi tiến hành ghi chép, đối chiếu, chụp ảnh 6 văn
bia lăng vua Nguyễn hiện còn ở Huế
- Thu thập tài liệu: chúng tôi tiến hành thu thập những tài liệu như sách báo,
tạp chí, các tư liệu liên quan đến các lăng và văn bia của các lăng, sau đó tra cứu,
đối chiếu và xử lí nguồn tài liệu ấy. Sau đó, có sự tổng hợp đánh giá chung về nội
dung và hình thức nghệ thuật của văn bia các lăng vua Nguyễn. Từ đó, rút ra
những kết luận và đề xuất ý kiến góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị
của loại di sản văn hóa này.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chúng tôi được chia làm 3 chương
Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn
Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát về các lăng Thiên Thọ
4
Lăng, Hiếu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, Tư Lăng và Ứng Lăng với các nội
dung như vị trí địa lý, quá trình xây dựng, vị trí của mỗi lăng trong di sản văn
hóa Huế.
Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn
Đây là phần trọng tâm của đề tài khóa luận. Chúng tôi tiến hành khảo sát 6
bài văn bia ở 6 lăng đã nêu theo thứ tự thời gian và được trình bày theo thứ tự
:nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích.
Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn
Trong chương này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu giá trị của các văn bia bởi
giá trị của nó ở rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về mặt lịch sử, văn học, thẩm
mỹ Đồng thời, đề xuất những ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại
di sản văn hóa này.
Mặc dù đã rất cố gắng và được thừa hưởng thành quả của người đi trước
nhưng khóa luận cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý
thầy cô chỉ bảo thêm để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
5
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN
1.1. Lăng vua Gia Long
Lăng vua Gia Long hay còn gọi là lăng Thiên Thụ 天 天 天 (hoặc Thiên Thọ)
ở địa phận xã Định Môn 天 天, phủ Thừa Thiên nay là xã Thiên Thọ 天 天, huyện
Hương Trà 天 天, tỉnh Thừa Thiên Huế 天 天 天, cách trung tâm thành phố Huế
khoảng 20 km.
Lịch sử xây dựng lăng rất phức tạp vì đây không chỉ có lăng vua Gia Long
mà còn có lăng của nhiều người thân của vua bao gồm lăng Trường Phong của
chúa Nguyễn Phúc Chú, lăng Quang Hưng của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc
Tần, lăng Vĩnh Mậu của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc Thái, lăng Thoại Thánh
của mẹ vua Gia Long, lăng Hoàng Cô của Thái trưởng Công chúa Long Thành
(chị ruột vua Gia Long), lăng Thiên Thọ Hữu của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu
(vợ thứ của vua Gia Long và là sinh mẫu của vua Minh Mạng) và lăng Thừa
Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ chính của vua Gia Long). Quần thể lăng tẩm này có
chu vi đến 11.234,40m [20,tr.177] và được xây dựng vào những thời điểm khác
nhau. Ngay cả lăng của vua và chính hậu cũng không phải xây cùng một thời
điểm mà xây kéo dài nhiều năm dưới ba đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị.
Vào năm 1814, sau khi người vợ chính của vua Gia Long là Thừa Thiên
Cao Hoàng Hậu mất, nhà vua bàn với đình thần về việc làm một hiệp lăng để
song táng hai người về sau vào một chỗ theo lệ “càn khôn hiệp đức”. Lê Duy
Thanh, Tống Phúc Lương và Phạm Như Đăng là những người xem đất và lựa
chọn. Ngày 18-5-1814, việc xây lăng được tiến hành, bao gồm 300 người trong
các đội quân Sanh Thiết, 274 người trong các đội thủy quân và dân làng Phú Bài.
Theo thuật phong thủy mà nói thì lăng Gia Long ở vào vị trí hết sức thuận
lợi. Khi đứng sau tẩm và thẳng trên trục của nó ta thấy xa xa có một ngọn núi
tròn trịa, trên đầu có chòm cây thông mọc rải rác, đó chính là Thiên Thọ Sơn.
Đây là ngọn núi cao nhất trong vùng. Ngoài ra ở bên trái có 14 ngọn là Thanh
Sơn, Ất Sơn, Diên Sơn, Bình Sơn, Bảo Sơn, Yên Sơn, Hưng Sơn, Hòa Sơn, Xuân
6
Sơn, Phương Sơn, Cẩm Sơn, Nhân Sơn, Mậu Sơn và Đại Tượng. Bên phải lăng
cũng có 14 ngọn núi, đó là các ngọn: Bạch Sơn, Ngọc Sơn, Thạch Bàn, Thịnh
Sơn, Bích Sơn, Trinh Sơn, Kim Sơn, Lẫm Sơn, Tam Bút, Trấn Sơn, Thụy Sơn,
Thuận Sơn, Đoài Sơn và Mỹ Sơn. Phía sau lăng còn có các núi Bắc Sơn, Hùng
Sơn, Quý Sơn, Thành Sơn, Tiểu tượng
(1)
. Các ngọn núi này đều có tên với ý
nghĩa báo điềm lành. Vùng vườn lăng được bao quanh bởi hai dòng suối: dòng
thứ nhất tụ hợp tất cả những dòng nước chảy từ bên trái lăng xuống, tạo thành
một khúc quanh chạy ngang trước tẩm mộ, tại đây có mở rộng ra bằng cách tạo
thành một hồ bán nguyệt và chảy đến trước điện Minh Thành thì bẻ quanh trở lại
tạo nên một khúc ngoặt đột ngột để chảy thẳng đến lăng thứ hậu vua Gia Long;
dòng nước tiếp tục chảy đến một cái hồ vuông, trước lăng của thân mẫu vua Gia
Long và đến trước tháp mộ của Thái Trưởng công chúa, chị của nhà vua, như vậy
hồ nầy đã kết nối mọi người trong gia đình với nhau. Hồ này được gọi là Hồ Dài.
Còn hồ thứ hai được gọi là “Suối Trường Phong”, phát nguyên từ Nhuệ Sơn,
chảy quanh núi Thiên Thọ, chạy dọc về phía bên phải, theo lăng Trường Phong
tạo thành hình bán nguyệt trước lăng rồi hợp lưu với Hồ Dài. Không một suối
nào đâm thẳng trước mặt lăng mà chảy bao quanh lăng.
Lăng Gia Long không có vòng la thành bao quanh, các lâu đài đình tạ cũng
không có, “nó đơn giản và hoành tráng như cuộc đời một võ tướng” [1,tr.176].
Các công trình kiến trúc hầu như không sơn son thếp vàng và chạm trổ tinh xảo.
Điện Minh Thành 天 天 天 xây trên Bạch Sơn, nơi thờ vua và chính hậu cũng
không trang trí rườm rà. Đáng chú ý là các con rồng đều đắp bằng vôi gạch chứ
không được chạm bằng đá như các lăng về sau. Phía trước làm bái đình 7 cấp xây
bằng đá núi, mỗi cấp có 3 bệ đá, 6 lan can hình rồng uốn, tả hữu tường gạch.
Trước bái đình là sân ngoài có 4 tượng viên biền đứng hầu bằng đá, tượng 6
thị vệ đá, ngựa đá, voi đá 2 con. Có các cột trụ xây gạch để giới hạn vùng đất
cấm của lăng ở xung quanh khu lăng, ngày xưa có 85 cột, vào năm 1859, chỉ còn
42 cột, ngày nay đa số đều bị hư hỏng, còn lại khoảng chục cột .
Bi đình 天 天 được xây dựng trên núi Thanh Sơn và nhìn chung đơn giản
(1)
Theo BAVH, tập VII, trang 346 và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, quyển 216, phần lăng
tẩm, trang 321-322. Còn theo Đại Nam thực lục tập I thì có đến 36 ngọn với những tên gọi khác với
những tên núi vừa nêu ở trên.
7
hơn so với các nhà bia khác. Trên trần nhà bia cũng như các cột nhà bia hiện nay
được nâng cấp trùng tu lại, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ngoài ra, bi đình
được trùng thiềm lợp ngói phẳng, chung quanh xây tường, trước xây bệ gạch 9
cấp, tả hữu lan can rộng. Bia đá được dựng trong bi đình cao 2,8m, rộng 1,52m,
chân dài 1,88m, cao 0,8m, chữ bia khắc theo kiểu chữ chân phương. Trước đây,
tấm bia này bị nứt, chữ trên văn bia không nhìn thấy rõ và đa phần bị mất, nay
bia đã được tu sửa. Mặt bia được quét vôi trắng. Những họa tiết trên mặt bia tuy
không giữ được hiện trạng xưa nhưng không mất hẳn. Trước đây, tấm bia toàn
bộ đều bằng đá cẩm thạch màu xám hơi xanh, trang trí những hình chạm trổ
thanh nhã. Nay toàn bộ văn bia là màu trắng của vôi lẫn với màu của vật liệu xi-
măng. Những họa tiết trên bia có nhiều điểm khác biệt so với các văn bia khác.
Trên trán bia là hình một con rồng lớn với nhiều họa tiết mây uốn lượn rất đẹp.
Phía trên của thân bia là hình hai con rồng nhỏ quay đuôi về phía mặt trời; hai
dọc bên thân bia, mỗi bên có hai con rồng và hai con giao xen kẽ nhau, hai con
quay đầu lên và hai con quay đầu xuống; phía dưới của thân bia, giữa là hình hoa
văn nhiều đỉnh núi. Ngoài ra, ở thân bia còn có sự phối trí của nhiều hình hoa văn
cây lá với nhiều hình thức trang trí khác nhau. Hai tai bia được chạm hình hoa
văn lớn. Hai nách bia có độ rộng và dày gần bằng tai bia, được chạm ở mỗi bên
hình một con rồng nhỏ. Chân bia ở phần trên cùng được trang trí hình các hoa
văn liên tiếp; phần giữa có 3 hình hoa văn cây lá tròn; bên dưới lại có hình một
đầu rồng; dưới cùng của chân bia ở mặt trước và sau có 3 hình hoa văn cây lá;
hai mặt bên của chân bia cũng có 3 họa tiết như vậy. Đó là toàn bộ họa tiết trang
trí ở mặt trước của tấm bia. Mặt sau hoàn toàn trống trừ hai tai bia và hai nách
bia có họa tiết như ở mặt trước. Nếu so với các bi đình khác, văn bia ở lăng Gia
Long được dựng ở nơi thoáng đãng, bốn phía có 4 cửa lớn thông ra ngoài, đó là
chưa kể các ô cửa sổ. Bài văn trên bia do vua Minh Mạng ngự chế vào ngày Bính
thìn tháng 7 năm Minh Mạng nguyên niên, nhằm ngày 10 tháng 8 năm 1820.
1.2. Lăng vua Minh Mạng
Khu đất mà ngày nay xây dựng lăng Minh Mạng là khu đất sau nhiều lần
lựa chọn mới được chấp nhận. Bởi theo quan niệm trong triết học phương Đông-
Kinh dịch, khi chết chôn ở một chỗ đất êm ả, trong lành thì sẽ “kết” và ảnh
8
hưởng đến hạnh phúc thịnh vượng của con cháu đời sau thuộc dòng. Cho nên,
các vua chúa nhà Nguyễn thường coi trọng ngôi đất được chọn làm sinh phần.
Vào năm Minh Mạng thứ 7 (tức năm 1826), nhà vua mới 35 tuổi đã sai các quan
giỏi địa lý trong triều lập thành từng nhóm đi coi đất để chuẩn bị xây lăng cho
mình. Sau nhiều lần lựa chọn với các nhóm như nhóm Nguyễn Văn Bảng, nhóm
Khâm Thiên Giám, nhóm Nguyễn Xuân Thục không thống nhất và có nhiều ý
kiến khác nhau, mãi đến năm Canh tý (1840), ông Lê Văn Đức, Hiệp biện đại
học sĩ, Thượng thư bộ công kiêm quản Hàn lâm viện, sau nhiều năm tìm kiếm đã
chọn được một ngôi đất nằm bên triền phía Đông núi Cẩm Kê. Tháng 4-1840,
trên đường từ lăng Thiên Thọ trở về ngã ba Bằng Lăng, thuyền ngự dừng lại
trước thôn La Khê, làng An Bằng, nhà vua nói với các vị đại thần: “ Núi này
phong thủy rất tốt, từ trước chưa ai tìm ra, nay mới xem được chỗ đất ấy, thật
đáng vui mừng” [11,tr176] và đổi tên vùng núi Cẩm Kê thành ra Hiếu Sơn. Vua
sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám thành vệ lên tiến
hành việc khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông
ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ La thành, bửu thành, điện, lầu, đình,
tạ, đường viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa Xem xong nhà vua
rất đắc ý.
Lăng được khởi công xây dựng vào ngày Đinh sửu tháng 7 năm Canh tý.
Nhưng sau đó bị ngập mưa nên hoàng đế phải cho dừng công việc đến tháng 9
mới giao cho Bộ công huy động binh điền trở lại công trường.
“Công việc ở núi Hiếu trước đây phải bắt dương binh làm, nhưng ta nghĩ,
khi ấy đương tiết gặp mưa, đã chuẩn cho cuối tháng nghỉ việc nên hôm trước đã
cho về cả. Xét ra thành bao ấy rất quan trọng mà công trình xây đắp không phải
mươi ngày mà xong được. Tất cả phải dự định khơi đào trước để thành thể thế thì
sau này mới làm có thể đỡ khó nhọc đôi chút, huống chi nơi ấy là núi cao, nếu có
mưa ngập cũng không quản ngại. Vậy phải ra quản vệ một người, suất đội bốn
người, biền binh 200 người, cứ theo bọn Khâm Thiên, Giám thành chỉ bảo, ở
chính giữa nơi thành bao núi ấy liều lượng nhà xưởng ở trên rồi ra công khai đào,
dài 5 trượng, ngang dưới 3 trượng, sâu một trượng hoặc 7,8 thước. Nếu khi còn
khô ráo thì đào sâu dần, nếu có mạch nước ở núi chảy ra thì tùy thế khơi một cái
9
ngôi nhỏ để khi thấm nước chảy thông ra núi cốt cho khô ráo sạch sẽ. Về việc
phát quản vệ cho đến binh đinh, định cứ một tháng thay đổi một lần [11;tr176].
Bốn tháng làm việc thổ mộc, đã xây dựng được phần lớn vòng la thành và
giải quyết xong mặt bằng đến ngày 21 tháng Chạp năm Canh tý (1840), vua
Minh Mạng qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ngày Bính
thìn tháng 2 năm Tân sửu (1841) cho trực tiếp xây dựng sơn lăng.
Khu lăng có một chiều sâu hun hút (từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng
của La thành cách nhau đến 700 m).Vòng La thành tuy cao nhưng cũng không
hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở xa xa bên
ngoài. Đứng ở cầu Hữu Bật nhìn về phía nam, cảnh vật núi non cây cỏ in bóng
xuống đáy hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc. Bên trong La thành,
hơn 40 công trình lớn nhỏ được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính
xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống
như tình trạng xã hội đương thời, một xã hội được tổ chức theo chính sách trung
ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng Nho học đến mức tối đa. Bố cục
kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của vua Minh Mạng.
Bửu thành 天 天 xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn
có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy.
Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng. Càng vào sâu, mật độ
kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia
Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một
trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng khôn khéo lợi dụng được thế đất và
các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc.
Điện Sùng Ân 天 天 天 là một công trình ghép hai ngôi nhà rường lại với
nhau tạo thành một không gian đồng nhất. Nhà trước thường gọi là tiền điện hay
chính tích. Tiền tích gồm năm gian hai chái đơn. Chính tích hai gian ba chái kép.
Điện Sùng Ân là nơi để thờ cha mẹ vua, là một công trình chính ở Hiếu lăng cho
nên, ở đây có bộ vì chồng sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Hai bên điện là Đông phối
điện và Tây phối điện, là ngôi nhà phối thuộc của điện dùng để văn võ bá quan
túc trực mỗi khi có việc phải lên lăng. Phía sau điện Sùng Ân là Hoàng Trạch
Môn 天 天 天, đó là giới hạn kết thúc khu thành vuông của điện, mở ra không gian
10
thứ ba. Và, lớp mái ở đây được nâng bởi các dải cổ diềm có chia nhiều ô. Minh
Lâu 天 天 cách Hoàng Trạch Môn bởi một hồ sen, hai bên có cầu Tả phụ và Hữu
bật xuống thấp gần mặt nước hồ Trường Minh 天 天 天 nên càng gây ấn tượng
lồng lộng xa vời. Từ sau sân Minh Lâu tiếp nối sân đầu cầu được liếp bằng đá
Thanh. Thật ra, đây là một con đường đá vắt qua hồ Tân Nguyệt 天 天 天 để vào
Bửu thành. Hai đầu có hai bộ cửa đồng trụ gọi là Phương Môn 天 天 và Nghi Môn
天 天. Qua một khoảng sân là núi Bửu Thành 天 天 天, thi hài vua được quàng ở
đây. Đó là tất cả kết cấu, bố cục toàn thể lăng Minh Mạng. Nó được bao bọc bởi
hai hồ bán nguyệt hai bên cây cối xanh tươi bốn mùa tạo nên sự thoáng mát và
uy nghi. Tất cả mọi bệ đá ở tầng cấp đều có rồng chầu hổ phục, các kèo và mái
uốn lượn đầu rồng mang phong cách Á Đông. Đặc biệt, ở tất cả các công trình
đều được trang trí hoa quả và thơ ở đầu vách theo từng ô.
Nhìn chung, kiến trúc lăng Minh Mạng có một sự uy nghi, bề thế. Nó hấp
dẫn mọi người bởi phong cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và hài hòa, nhất là
vào buổi chiều tà từ trên lăng nhìn xuống Hương Giang, quả thật rất dịu êm và
thoải mái.
Về tấm bia “thánh đức thần công” thì được xây trong một gian nhà có
mái chồng lợp ngói lưu ly vàng, nền lát gạch hoa, trước sau đều một bệ đá có 3
cấp, tả hữu lan can rồng. Bia đá thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 1,96m và
cao 1,08m, chữ bia mạ vàng. Bia được khắc chữ cả hai mặt trước sau và đều
được trang trí. Trán bia là hình một con rồng mây lớn được trang trí cân đối và
đẹp. Thân bia ở trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình rồng
nhưng hướng về đỉnh núi. Dọc hai bên thân bia được trang trí bằng họa tiết hình
rồng, xen kẽ là họa tiết mây uốn lượn xung quanh. Chân bia cũng là sự phối hợp
giữa họa tiết dây lá ở trên, dưới chân và hình rồng ở giữa. Nhà bia đặt gần sân
chầu, có hai cửa lớn, một thông với sân chầu, một thông ra Hiển Đức Môn. Trần
bia phẳng, không có nhiều họa tiết cầu kì; toàn bộ nhà bia được trùng tu, sơn son
thiếp vàng rất rực rỡ. Nếu so sánh nhà bia này với nhà bia lăng Gia Long thì gần
giống nhau. Còn so với các nhà bia được xây dựng sau này như nhà bia lăng Tự
Đức, nhà bia lăng Khải Định thì nhà bia này vẫn mang lối kiến trúc cũ, không
có sự mới lạ mang dáng dấp hiện đại như các nhà bia về sau.
11
1.3. Lăng vua Thiệu Trị
Sau khi ở trên ngai vàng 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11-
1847 giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối nhà vua đã dặn người con trai sắp
lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận
tiện, để dân binh dễ làm công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt
đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho
kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”
[11,tr176].
Sau khi vua cha băng hà, vua Tự Đức liền cho các thầy địa trong triều đi coi
đất để xây lăng. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng
Cư Chánh 天天天 huyện Hương Thủy 天天天, cách Kinh thành không xa như hai
lăng vua tiền nhiệm. Sau đó, núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo 天天天 và lăng
ấy được gọi là Xương Lăng 天天.
Vào ngày 11-2-1848, vua Tự Đức sai một võ tướng đại thần trong triều là
Vũ Văn Giai 天天天, sung chức đổng lý, đứng ra coi sóc công tác kiến trúc lăng.
Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần ông phải báo cáo về cho vua biết công việc xây
lăng đã tiến hành đến đâu. Đồng thời làm theo lời trối trăn của vua cha, vua Tự
Đức cũng căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như
trên lăng Minh Mạng, còn việc kiến trúc các công trình mang tính thờ phụng ở
lăng như đình, các, viện thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và
tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.
Toại đạo 天天, tức là đường hầm ngầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ,
được xây vào ngày 24-3-1848.
Số binh lính và thợ thuyền do triều đình huy động lên đây làm việc rất
đông, cho nên, chỉ sau 3 tháng thi công, các công trình kiến trúc chính trong lăng
đã làm xong. Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5-1848, có đoạn
nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm cáo hoàn thành”. Ngày 14-6-1848, tức là
10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm
tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã dặn là phải làm lăng như thế
nào cho “kiệm ước”, không nên “lao phí đến tài lực của binh dân”, và rồi trong
bài văn bia ở Xương Lăng vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng “lời
12
vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy
lên xem thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.
Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long
An trong cung Bảo Định (ở bờ bắc Ngự Hà), mãi đến gần 8 tháng sau mới đưa
lên an táng ở lăng.
Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” 天天天天 với bài ký do vua Tự Đức
viết thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19-11-1848 mới được dựng. Như vậy, từ
ngày bắt đầu (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công
trong vòng chưa đầy 10 tháng.
Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng một khác nữa của những
người trong gia đình nhà vua. Nằm chếch chếch ở phía trước là lăng Hiếu Đông
của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa). Gần phía sau bên trái là Xương Thọ Lăng của vợ
vua (bà Từ Dũ). Và không xa phía trước bên trái là khu lăng “tảo thương” 天天,
trong đó có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ (tảo
thương nghĩa là chết sớm). Như vậy nhiều thành viên trong gia đình nhà vua đã
được an táng quây quần bên nhau.
Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần
lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có
hai lăng Gia Long và Minh Mạng mà thôi. Khi còn tại vị, vua Thiệu Trị đã tham
khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây
dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.
Ngày nay, mới nhìn qua, người ta dễ có cảm tưởng rằng lăng Thiệu Trị đơn
sơ, nhưng nếu xét kỹ, chúng ta sẽ thấy các nhà kiến trúc bấy giờ đã có một ý thức
cao khi thiết kế, xây dựng, và các công trình không kém phần dồi dào và bề thế.
So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, khu lăng thứ ba này ở tại một địa
điểm gần hơn đối với kinh thành. Về bố cục các công trình kiến trúc trên mặt
bằng tổng thể, nếu lăng Minh Mạng đã ghép ba trục của lăng Gia Long lại làm
một trục duy nhất, thì lăng Thiệu Trị lại dung hòa hai mô thức trên bằng cách
thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ)
nằm bên trái. Hai trục cách nhau chừng 100m. Nói cách khác, các nhà kiến trúc
lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữa của lăng Minh Mạng (điện thờ) đặt riêng ra một
13
bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về
các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng
cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và mấy cái
hồ bán nguyệt thì giống ở lăng Minh Mạng.
Lăng Thiệu Trị khác lăng vua cha ở chỗ không xây La thành, nhưng lại
giống lăng Gia Long trong việc lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm
một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành bao la hùng vĩ
này, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo 天天 gần trước mặt lăng là
cả một vùng đất bằng phẳng với cây cỏ xanh tươi và ruộng đồng mơn mởn trải
dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim.
Về phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn thủy chi giao”
天天天天. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng
trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng chừng
1km, bên phải có đồi Vọng Cảnh 天天天, bên trái có núi Ngọc Trản 天天 chầu về
trước lăng theo vị thế “tả thanh long hữu bạch hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó
khoảng 8km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, trong khi động Bàu Hồ ở gần
hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi
Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đắp một mô cao lớn để làm “hậu chẩm” cho
lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có ba chiếc hồ bán nguyệt là hồ Điện, hồ
Nhuận Trạch 天 天 天 và hồ Ngưng Thúy 天 天 天, cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên 天
天 天 chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới
các lối đi.
Như vậy ta thấy thiên nhiên và kiến trúc ở lăng Thiệu Trị liên quan với
nhau một cách mật thiết. Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn
mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la.
Xét về phương diện trang trí mỹ thuật, các nghệ nhân bấy giờ đã thể hiện
nhiều hình ảnh và thơ văn lên trên mặt gỗ và mặt đá ở điện Biểu Đức 天天天, Bi Đình
天 天, Bái Đình 天 天 bằng những đường nét chạm khắc khá sâu và sắc cạnh để tạo
ra được những hình khối nổi rõ. Nghệ thuật trang trí bằng men pháp lam cũng được
sử dụng nhiều trong lăng này, nhất là tại khu vực điện thờ.
Bia “thánh đức thần công” ở lăng vua Thiệu Trị được dựng trong một
14
gian được lợp ngói lưu ly, trước sau có 1 bệ đá đều 11 cấp, lan can hình rồng
uốn. Nhà bia ở đây hiện nay đang bị xuống cấp trầm trọng, chỉ còn tấm bia là
nguyên vẹn. Bia thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 2,16m, cao 0,92m, có
nhiều họa tiết đặc trưng. Trán bia vẫn là hình rồng mây lớn với những họa tiết
sóng mây nhẹ nhàng. Phần trên của thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”;
hai dọc thân bia mỗi bên có 3 con rồng; bên dưới là hình hai con rồng hướng về
đỉnh núi có hình mặt trời ở trên; thân bia cũng có sự pha trộn các họa tiết dây lá
khác giống như các tấm bia còn lại. Hai tai bia và hai nách bia được chạm một
con rồng nhỏ. Chân bia có họa tiết dây lá dài lẫn ngắn xen kẽ nhau, giữa lại có
họa tiết ô vuông nối liền từng cặp rất mới lạ, bên dưới chân bia vẫn là hình
“lưỡng long triều nguyệt”, ở các góc cột chân bia còn có các họa tiết mây. Mặt
sau của tấm bia hoàn toàn trống. Bài văn bia khắc trên bia do vua kế nhiệm là Tự
Đức ngự chế, vẫn còn nguyên nét, được khắc lặn, chữ khắc đẹp và có pha một
chút nét chữ thảo.
1.4. Lăng vua Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời
Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ
xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con
người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà
Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng
天 天 天 天, tổng Cư Chánh 天 天 天 (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành
phố Huế).
Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà
Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu
Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới
là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng
Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng
trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước
nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan.
Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn
công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau
15
ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch
éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm
này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như
vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm
cung ký) .
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho
công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi
xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng 天
天.
Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với
nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm 天 天 天 ở phía trước làm tiền án, núi Dương
Xuân 天天 天 làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm 天 天 天 làm yếu tố minh đường.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có
suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng
Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy
góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt
đầu từ cửa Vụ Khiêm 天 天 天 đi qua trước Khiêm Cung Môn 天 天 天 rồi uốn lượn
quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ
ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh. Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh
quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến rũ của
mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của một
người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng
Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có
chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ sơn thần, du
khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ
nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ
các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung
Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ
Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong
khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”,
“tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh
16
Khiêm 天 天 天 với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú
hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ 天 天 天 và Dũ Khiêm Tạ 天 天 天,
nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách Ba cây cầu Tuần Khiêm 天 天,
Tiễn Khiêm 天 天 và Do Khiêm 天 天 bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông bạt
ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên, mộng
ảo ngay giữa chốn đời thường.
Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi
đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm 天 天 天 để vua làm việc, nay là nơi thờ
cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm 天 天 và Lễ
Khiêm 天 天 dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện
Lương Khiêm 天 天 天 , xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ
vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm
Đường 天 天 天 - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có
nhà hát Minh Khiêm 天 天 để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà
hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì
Khiêm Viện 天 天 天 và Y Khiêm Viện 天 天 天 là chỗ ở của các cung phi theo hầu
nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng
Khiêm Viện 天 天 天, Dụng Khiêm Viện 天 天 天 và vườn nuôi nai của vua.
Ra khỏi khu vực tẩm điện, du khách theo con đường quanh co dẫn sang khu
lăng mộ. Ngay sau Bái Đình 天 天 với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi là
Bi Đình 天 天 với tấm bia bằng đá Thanh nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm cung
ký” 天 天 天 do nhà vua soạn thảo vào năm 1871, đến năm 1875 mới được khắc
vào bia đá. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã
viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác.
Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương
nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Tự Đức muốn dùng tấm bia
khổng lồ đó để kể công và nhận tội trước lịch sử. Ông tự nhận tội mình: “Không
sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là
tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả ” và ông nhường
cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình. Tiếp sau tấm bia kia, hai trụ
biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng quyền uy và tài đức của nhà vua cùng
17
với hồ Tiểu Khiêm 天 天 天 hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa
tội, thì đúng là Tự Đức thật chu toàn đối với việc đón nhận cái chết. Mới hay, Tự
Đức là hiện thân sự thâm thúy siêu tuyệt của Nho gia! Giờ đây, yên nghỉ trong
ngôi nhà bằng đá bên trong bửu thành, giữa một rừng thông vi vu gió lộng hẳn
nhà vua hoàn toàn mãn nguyện với sự dàn xếp, lựa chọn cho cái chết của mình.
Ông vua thi sĩ đã nằm xuống giữa một không gian của thơ và nhạc, của sự
yên bình trong tổng thể kiến trúc trác tuyệt về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời
Nguyễn. Người đời sau mỗi khi đứng trước khung cảnh thơ mộng này, ai cũng
nghĩ đến một câu thơ đề tặng “ngôi nhà vĩnh cửu” của vua Tự Đức với sự tâm
đắc, ngưỡng mộ:
“Tứ bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”
Trong các bi đình thì bi đình ở lăng Tự Đức là bề thế nhất với hình vẽ
những con rồng và sóng mây quấn lấy những cây cột lớn màu vàng. Nếu nhìn tư
xa, tưởng như bi đình được xây hai tầng.
Bia ở lăng Tự Đức là một tấm bia đồ sộ. Trán bia được chạm hình một
con rồng mây lớn với sự cân đối của mặt rồng ở chính giữa và những đường uốn
cong của đuôi rồng ra phía trước. Thân bia cao 3,05m, rộng 2,06m, trên và dưới
thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dọc hai bên thân bia, mỗi bên có chạm
hình 2 con rồng. Lòng bia dài 1,66m, khắc 69 dòng chữ Hán (mặt trước 34 dòng
và mặt sau là 35 dòng) kể cả dòng lạc khoản. Bệ bia dài 2,8m, cao 0,99m, dày
1,67m, cũng được trang trí bằng các họa tiết hình cây và ô vuông xen kẽ, phía
dưới có hình một con rồng lớn. Nách bia dài 0,77m, chỗ dày nhất là 0,21m. Mỗi
nách bia là hình một con rồng nhỏ. Chân bia được là theo kiểu sập chân quỳ như
ở các bia khác. Cột chân bia cao 0,695m. Đây có thể xem là tấm bia lớn nhất
trong các tấm bia khảo sát. Nhà bia ở đây nổi bật với kiểu vẽ hình rồng trên bốn
cột trụ lớn bên trong, được quét vôi màu vàng. Nhà bia được xây rất cao và
thoáng, 4 phía có 4 cánh cửa lớn hình vòm, xung quanh lại có tường thấp bao
quanh, đứng ở nhà bia có thể nhìn thấy các công trình kiến trúc khác. Bài văn
được khắc trên bia do chính vua Tự Đức ngự chế, nó được xem là bài văn bia độc
đáo nhất trong các bài văn bia ở các lăng.
18
1.5. Lăng vua Đồng Khánh
Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái
Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến
Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885) và Đồng Khánh (1886-1888). Ca dao
Huế từng nói về vương nghiệp của ba ông vua này:
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.
Ðồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ,
khi vua Hiệp Hòa bị giết (1883), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập
Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua Tự Đức, em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm
vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc qua đời, em
trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. Hàm Nghi trị vì được một
năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra
Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu Cần Vương kháng Pháp. Triều thần và chính phủ
bảo hộ đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ðồng Khánh.
Ðồng Khánh làm vua được 3 năm thì qua đời vào giữa tuổi 25. Nhà vua không
ngờ mình chết sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình.
Lăng Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn
trong điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.
Sau khi lên ngôi, Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có
điện thờ nên sai Bộ Công dựng điện Truy Tư cạnh đó để thờ cha. Điện Truy Tư
khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản.
Ðồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện, đồng thời tiếp
tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục
thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế
vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể
xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư 天 天 天 đổi
làm Ngưng Hy 天 天 天 để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an
táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về
phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng 天 天.
Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-
19
1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha
mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái Đình, Bi Đình đến Bửu Thành và Huyền
Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn
thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả Hữu Tùng Viện; Tả Hữu Tùng Tự tiếp tục
được tu sửa cho đến năm 1923.
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai
trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ
truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Đức và phong cách hiện đại
được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Định sau này thì lăng Ðồng Khánh
là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm
càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình
vẫn mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa
phụ thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ
linh, tứ quý quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn
được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn
mài nổi tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc
trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước bằng sơn mài, ghép
khảm và chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh
trong điển tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa.
Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối
đời vua (1888: khu vực điện Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm
thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở
rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915, 1917, 1921, 1923).
Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt
trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng
Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc
lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay
trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên
An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về
hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai Nếu tượng các quan
20
viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng
các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng vôi gạch với dáng cao
nhưng gầy.
Công trình kiến trúc nổi bật về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện
Ngưng Hy, là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế,
nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu).
Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ
“tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng,
nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.
Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng
pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô
hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó
người xưa đã diễn tả rất nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư
tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi con gà, con rắn, tắc kè, voi,
ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở
đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện
Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là
một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.
Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian
nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc
viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng
sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một
loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nội thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24
câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”.
Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt
Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và
kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành
công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến
lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
Bia lăng Đồng Khánh không có nhiều nét độc đáo như ở các văn bia
khác. Nhà bia được xây dựng xinh xắn trên một diện tích nhỏ. Bên trong là bia đá
21
cao 3,05m, rộng 1,45m, dày 0,16m. Cũng giống như họa tiết trên văn bia Tự
Đức, bia lăng Đồng Khánh là sự kết hợp giữa họa tiết cây cỏ và rồng, mây. Chỉ
có điểm khác biệt là ở hai tai bia và hai nách bia không được chạm họa tiết rồng
mà là hình hoa văn cách điệu. Bia được khắc ở cả hai mặt với lối chữ chân
phương, rõ ràng và đẹp. Chân bia dày 0,8m, dày 2,07m, cao 0,6m cũng được làm
theo kiểu sập chân quỳ. Bài văn khắc trên bia đá là do vua Khải Định ngự chế để
ca tụng công đức vua cha. Nó được làm theo mô-típ cũ là ca tụng khoa trương
mang tính chủ quan của người viết.
1.6. Lăng vua Khải Định
Lăng Khải Định (hay còn gọi là Ứng Lăng 天 天 ) nằm dựa lưng vào triền
phía Tây Nam vùng núi Châu Chữ, xưa thuộc địa phận làng Châu Chữ, xã Thủy
Bằng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên- nay thuộc làng Châu Chữ, xã Thủy
Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng nằm cách trung tâm thành phố
Huế 10km đường bộ về phía Tây Nam.
Năm 1920, khi các nhà địa lý đương thời đi xem và chọn địa điểm để xây
dựng lăng cho vua Khải Định tại triền núi Châu Chữ thì ở đó đã có một số ngôi
mộ của người Hoa. Triều đình đã ra lệnh phải dời những mộ ấy đi nơi khác. Theo
thuật phong thủy thì lăng Khải Định có vị trí hết sức trang trọng, cửa lăng hướng
về phía Tây- Tây Bắc. Hai dãy vúi Chóp Vung và Kim Sơn cách xa lăng 8 km
chầu vào phía trước, nằm trong tư thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”, rồng chầu hổ
phục, tạo nên một thế quy tụ, đăng đối vững chải. Phía trước mặt lăng có dòng
nước chảy từ tả qua hữu (khe Châu Ê) rồi lại rẽ theo lối “chi huyền thủy”, hay
còn gọi là “huyền thủy minh đường” (nhà sáng).
Mỗi công trình kiến trúc ở lăng Khải Định từ hệ thống tường rào, cổng vào
lăng, tả hữu tòng sự đến sân bái đình, bi đình, ba tầng sân trước cung Thiên Định
(gồm tả, hữu trực phòng, điện Khải Thành, Chính cung và Hậu điện) đều được
bố trí một cách cân xứng, đăng đối, thứ tự từ thấp lên cao, từ bậc cấp thứ nhất
đến bậc cấp 127 cuối cùng. Tùy theo địa hình tự nhiên sẵn có hoặc đào đắp, cải
tạo thêm ít nhiều để tạo ra mặt bằng kiến trúc hoàn chỉnh. Ở đây, kiến trúc gắn
liền với thiên nhiên, hòa vào trong sự hùng tráng của núi sông, tạo nên không khí
trang nghiêm, trầm mặc thích hợp với nơi yên nghỉ của một vị vua.
22
So với các khu lăng mộ khác (lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, Đồng Khánh), lăng Khải Định được xây dựng muộn nhất, mặt bằng kiến
trúc hẹp nhất nhưng lại là công trình được xây dựng với sự đòi hỏi về thời gian,
công sức, tiền bạc nhiều nhất. Nếu như lăng Gia Long xây dựng trong 6 năm
(1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-1843), lăng Thiệu Trị chỉ trong vòng
10 tháng (10-2 đến 19-11-1848) thì công việc xây lăng Khải Định phải kéo dài
đến 11 năm (1920-1931).
Cũng như các vị vua khác, sau khi bước lên ngai vàng được 4 năm, vua
Khải Định bắt đầu lo nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm cho mình, chuẩn bị cho
nơi an nghỉ cuối cùng. Đây là công việc trọng đại của cả triều đình làm hao tốn
sức người sức của. Ngày 4-9-1920, lăng được khởi công xây dựng nhưng ngày 6-
11-1925 thì vua băng hà và khi vua Bảo Đại lên ngôi, công trình mới được tiếp
tục xây dựng, đến năm Bảo Đại VI (1931) mới hoàn thành. Trong suốt 11 năm
ấy, triều đình nhà Nguyễn đã huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên đây
làm việc khổ sai dài hạn như mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra mặt bằng
xây dựng lăng ở triền phía Tây của ngọn núi thuộc vùng núi Châu Chữ.
Triều đình đã đưa tất cả các thợ thủ công có tay nghề cao nhất trong “nê
ngõa tượng cục” lên đây làm việc dài hạn. Trong số đó có nhiều nghệ nhân nổi
tiếng như cụ Phan Văn Tấn, cụ Kiểm Khả, cụ Ký Duyệt, cụ Cửu Sùng nhưng
nổi tiếng nhất là cụ Phan Văn Tấn. Cụ là người họa sĩ tài hoa đã vẽ những bức
họa “Cửu long ẩn vân” trên trần nhà ở cung Thiên Định bằng đôi chân của mình.
Chuyện này đã đi vào giai thoại dân gian xứ Huế. Ngoài ra, còn có những bức
họa ở các mặt tường và trần của Tả hữu trực phòng, các nghệ nhân đã dùng màu
xanh sẫm vẽ lên xi măng để giả đá cẩm thạch, trông như thật.
Với diện tích hàng chục mét vuông, những bức họa long vân trên trần ba
phòng giữa của cung Thiên Định 天 天 天 hiện nay vẫn được đánh giá là những tác
phẩm hội họa mang giá trị thẩm mỹ cao. Ngoài ra, còn có những bức tranh đắp
nổi bằng những mảnh sành sứ được trang trí ở các vị trí xung quanh bốn bức
tường cung Thiên Định cũng làm cho những ai đến đây chiêm ngưỡng đều phải
ngẩn ngơ.
Công việc xây dựng lăng Khải Định được đặt dưới sự điều hành của Triều
23
quân đô thống phủ Lê Văn Bá. Còn nhà thầu khoán Nguyễn Văn Hưng trông coi
về vật liệu xây dựng. Để thực hiện các công trình kiến trúc của lăng, nhà nước
phong kiến lúc bấy giờ đã phải tăng thuế đinh lên 10% và thuế điền là 30% trên
phạm vi cả nước. Nguyên nhân của sự hao phí là do lăng được xây dựng trên một
sườn núi cao, khi tiến hành thi công thì phu dịch phải bạt nó thành nhiều tầng,
nhiều cấp và những sân lớn để tạo ra một mặt bằng xây dựng. Hơn nữa, các
nguyên vật liệu dùng vào để xây dựng đều phải mua từ nước ngoài hay phải vận
chuyển hay phải vận chuyển từ xa đến như: sắt thép, xi măng, ngói ác-đoa, gạch
hoa phải mua từ Pháp. Sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung
Quốc, Nhật Bản. Còn sành ngang phải chở từ Hà Đông vào. Đây thực sự là một
công trình kiến trúc hao tốn nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức lao
động.Chính vì những tốn kém trên đã đẩy cuộc sống của người dân đến cảnh lầm
than, khổ cực.
Trong các lăng tẩm thì lăng Khải Định vẫn có đặc thù rõ nét. Nếu như lăng
Minh Mạng, Tự Đức là những bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc đồ
sộ nằm trên hàng chục hecta đất theo lối kiến trúc cổ thì lăng Khải Định là công
trình kiến trúc đồ sộ nằm trên triền đồi với diện tích chỉ hơn nửa hecta, theo lối
kiến trúc kết hợp giữa Âu và Á. Những dạng vật liệu gỗ, đá, gạch Bát Tràng
thường dùng ở những lăng trước thì ở lăng Khải Định nó được thay thế bởi bê
tông cốt sắt, vôi vữa và gạch caro. Nghệ thuật chạm trổ hoa văn trên gỗ đá cũng
được thay bằng nghệ thuật đắp nổi hoa văn trên tường bằng các mảnh sành sứ
nhiều màu ghép lại, tạo cho lăng dáng vẻ như một tòa lâu đài tổng hợp các kiến
trúc Đông-Tây, kim -cổ. Mặt khác, với tượng đồng bia đá, với cung Thiên Định
giống như một viện bảo tàng. Lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hòa
của nhiều dòng văn hóa, nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, kiến trúc Việt Nam cổ điển
và hiện đại: những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu Tu-
pa của nhà Phật, nhà bia với hình bát giác và vòm cửa theo lối Romance biến
thể Tất cả phản ánh phong cách thích chưng diện của vua Khải Định lúc sinh
thời, và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền văn hóa Á-Âu của xã hội Việt
Nam hồi đầu thế kỉ XX.
Cũng như sự độc đáo của nghệ thuật trang trí trong toàn bộ khu lăng
24
tẩm, văn bia lăng Khải Định mang phong cách riêng với nhiều nét mới lạ. Trán
bia luôn là hình rồng mây nhưng rồng mây ở mặt sau không được chạm trổ tỉ mỉ
như mặt trước. Bia cao 3,89m (kể cả trán bia và chân bia). Thân bia ở mặt trước,
phần trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình hai con rồng
nhưng không phải hướng về mặt nguyệt như ở trên mà là hướng về đỉnh núi, hai
dọc bên thân mỗi bên được chạm hình 2 con rồng quay đầu xuống dưới ngoảnh
vào phía trong; mặt sau của thân bia thì phần trên và dưới đều là hình “lưỡng
long triều nguyệt” nhưng điều đặc biệt là rồng ở phần trên và dưới thân bia rất
dài, chạy dọc theo hai thân bia và kéo về hai đầu thân bia. Đây chính là điểm
khác biệt mà ở các văn bia khác không có. Phần tai và nách bia, cả mặt trước và
sau đều được chạm hình rồng. Nách bia dài 0,905m, chỗ dày nhất là 0,23m. Chân
bia dài 2,7m, dày 0,81m, cao 0,78m, cột chân cao 0,51m. Họa tiết ở chân bia
giống ở các bia khác, là sự phối hợp giữa họa tiết rồng ở chính giữa và cây lá ở
phân trên và dưới. Chân cũng theo kiểu sập chân quỳ, ở 4 phía góc chân là hình
đầu rồng lớn như ở các lăng khác. Lòng bia dài 1,1m khắc 22 dòng chính văn ở
mặt trước, còn mặt sau để trống hoàn toàn mặc dù vẫn được trang trí bằng các
họa tiết cầu kì. Bài văn bia được khắc trên đá là do vua Bảo Đại ngự chế. Nhà bia
làm theo kiểu 2 tầng, có 16 cột xung quanh với hình 16 con rồng ở trên các cột,
ngoài ra có thêm 4 cột lớn ở giữa nhưng không có trang trí. Nhà bia có 4 cửa lớn
và rộng. Cũng như toàn bộ khu lăng tẩm, nhà bia làm bằng vật liệu bê-tông là
chủ yếu. Nhìn từ phía trước, nhà bia có sự độc đáo bởi những nét mới lạ cả về
màu sắc, vật liệu và cách trang trí. Đây là tấm bia được dựng trên lăng cuối cùng
của triều đại phong kiến bởi vì mặc dù Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại
phong kiến nhưng ông vua này không xây dựng lăng tẩm nên cũng không có văn
bia.
CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT VĂN BIA LĂNG CÁC VUA NGUYỄN
2.1. Văn bia triều Nguyễn và văn bia lăng các vua Nguyễn
2.1.1. Văn bia triều Nguyễn
25