III/ MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA
Vấn đề: Con người trị giá bao nhiêu:
các nhà khoa học cho biết cấu tạo hóa học của cơ thể con người bao gồm:
- Lượng nước đủ để giặt 1 chiếc áo sơ mi
- Lượng sắt đủ để chế tạo 1 chiếc đinh 5 phân
- Lượng đường đủ để làm chiếc bánh Gato
- Lượng vôi đủ để xây 1 chuồng gà nhỏ
- Lượng mỡ nấu được bánh xà phòng to
- Lượng phốt pho đủ để sản xuất 200 que diêm
- Lượng lưu huỳnh đủ để giết chết 1 con bọ chét
Với người nặng 55 kg, giá trị tất cả mấy thứ vừa kể trên cộng thêm vài nguyên tố vi lượng khác như: Mg, Cu, Zn, K …
thực ra đánh giá chứa 3 USD
Nhưng theo giáo sư G. Maravich ở đại học Yale (Mỹ) thì hóa chất trong con người đều ở dạng hợp chất và như vậy chỉ
riêng hemôlobin (khoảng 3 USD) và insulin (khoảng 4 USD) đã đủ làm con người có giá trị lắm rồi.
Còn cực đắt lại là các hôcmôn như:
- 1 gam foliculin giá tới 45.000 USD
- 1 gam frolactin giá tới 1.700.000 USD
Như thế để tổng hợp nên 1 cơ thể người phải có ít nhất 1 tỉ USD. Đúng thê, đó là tính theo con đường khoa học thuần
túy.
VẤN ĐỀ 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong ( ô tô, xe máy) có chứa các khí SO
2
, NO, NO
2
,…Các khí này
tác dụng với oxi O
2
và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại ( có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit
sunfuric H
2
SO
4
và axit nitric HNO
3
.
2SO
2
+ O
2
+ 2H
2
O → 2H
2
SO
4
2NO + O
2
→ 2NO
2
4NO
2
+ O
2
+ 2H
2
O → 4HNO
3
Axit H
2
SO
4
và HNO
3
tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa axit là H
2
SO
4
còn HNO
3
đóng vai trò thứ
hai.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.
Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (
các loại đá này thành phần chính là CaCO
3
):
CaCO
3
+ H
2
SO
4
→ CaSO
4
+ CO
2
↑ + H
2
O
CaCO
3
+ 2HNO
3
→ Ca(NO
3
)
2
+ CO
2
↑ + H
2
O
Áp dụng: Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở
những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú
trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của
nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời sau khi dạy xong phần Sản
xuất axit sunfuric trong bài “Axit sunfuric. Muối sunfat”(Tiết 55-56 lớp 10 CB) hoặc áp dụng trong bài“Axit nitric” (tiết 14-15 lớp
11CB).
VẤN ĐỀ 2: Vì sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống rượu?
Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu etylic. Đặc tính của rượu etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất
oxi hóa có thể tác dụng với rượu nhưng người chọn một chất oxi hóa là crom(VI)oxit CrO
3
. Đây là một chất oxi hóa rất mạnh, là
chất ở dạng kết tinh thành tinh thể màu vàng da cam. Bột oxit CrO
3
khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit Cr
2
O
3
là một hợp chất
có màu xanh đen.
Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có chứa CrO
3
. Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân
tích trên, nếu trong hơi thở có chứa hơi rượu thì hơi rượu sẽ tác dụng với CrO
3
và biến thành Cr
2
O
3
có màu xanh đen. Dựa vào sự
biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông báo cho cảnh sát biết được mức độ uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp nhằm
phát hiện các tài xế đã uống rượu khi tham gia giao để ngăn chặn những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Áp dụng: Tai nạn giao thông luôn là nổi ám ảnh của mọi người. Một trong những nguyên nhân chính xảy ra tai nạn giao
thông chính là rượu. Nhằm giúp cho học sinh thêm hiểu biết về cách nhận biết rượu trong cơ thể một cách nhanh và chính xác của
cảnh sát giao thông, giáo viên nên đưa nội dung này vào bài “Ancol” (tiết 56-57 lớp 11CB) hay “Rượu etylic”(tiết 3-4 lớp 12). Cụ
thể, sau khi dạy xong bài “ Ancol ” giáo viên có thể đặt câu hỏi như trên để cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi hướng giải quyết vấn đề.
VẤN ĐỀ 3: Vì sao trước khi thi đấu các VĐV thể thao cần xoa bột trắng vào lòng bàn tay? Loại bột màu trắng có tên
gọi là “Magiê cacbonat”(MgCO
3
) mà người ta vẫn hay gọi là “ bột magiê”. MgCO
3
là loại bột rắn mịn, nhẹ có tác dụng hút ẩm rất
tốt. Khi tiến hành thi đấu, bàn tay của các vận động viên thường có nhiều mồ hôi. Điều đó đối với các vận động viên thi đấu thể
thao hết sức bất lợi. Khi có nhiều mồ hôi ở lòng bàn tay sẽ làm giảm độ ma sát khiến các vận động viên sẽ không nắm chắc được
các dụng cụ khi thi đấu. Điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến thành tích mà còn gây nguy hiểm khi trình diễn. MgCO
3
có tác
dụng hấp thụ mồ hôi đồng thời tăng cường độ ma sát giữa bàn tay và các dụng cụ thể thao giúp vận động viên có thể nắm chắc dụng
cụ và thực hiện các động tác chuẩn xác hơn.
Ngoài ra với các vận động viên giàu kinh nghiệm, họ có thể lợi dụng khoảnh khắc “xoa bột” làm giảm bớt tâm lí căng
thẳng; sắp xếp lại trình tự thực hiện thao tác, ôn tập lại các yếu lĩnh, chuẩn bị tốt hơn tâm lí thi đấu để thực hiện các thao tác tốt.
Áp dụng: Đây là một trong những “mẹo nhỏ” trong thi đấu thể thao cũng như vấn đề an toàn trong thi đấu.Khi dạy phần
“Ứng dụng của muối cacbonat” (Tiết 24 lớp 11CB) giáo viên có thể kể cho học sinh nghe ứng dụng của muối magie cacbonat thông
qua câu chuyện trên.
VẤN ĐỀ 4: Vì sao đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch, còn khi đốt gỗ, than đá lại còn tro
Bởi vì so với gỗ và than đá thì xăng và cồn là những hợp chất hữu cơ có độ thuần khiết cao. Khi đốt xăng và cồn chúng sẽ
cháy hoàn toàn tạo thành CO
2
và hơi H
2
O, tất cả chúng đều bay vào không khí. Xăng tuy là hỗn hợp nhiều hiđrocacbon, nhưng
chúng là những chất dễ cháy. Vì vậy cho dù ở trạng thái hỗn hợp nhưng khi đốt đều cháy hết.
Với than đá và gỗ thì lại khác. Cả hai vật liệu đều có những thành phần rất phức tạp. Những thành phần của chúng như
xenlulozơ, bán xenlulozơ, gỗ, nhựa là những hợp chất hữu cơ dễ cháy và có thể “cháy hết”. Nhưng gỗ thường dùng cón có các
khoáng vật. Những khoáng vật này đều không cháy được.Vì vậy sau khi đốt cháy gỗ sẽ còn lại và tạo thành tro.
Than đá cũng vậy. Trong thành phần than đá ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ phức tạp còn có các khoáng là các muối
silicat. Nên so với gỗ khi đốt cháy than còn cho nhiều tro hơn.
Áp dụng: Đây là câu hỏi nhằm kích thích tư duy học sinh. Học sinh không lạ gì với hiện tượng trên nhưng để giải thích thì
không phải dễ. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên sau khi dạy xong mục “Dầu mỏ” (Tiết 53 lớp 11CB) hay cuối bài “Ancol
etylic”(Tiết 56-57 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 5: Vì sao sau những cơn giông, không khí trở nên trong lành, mát mẻ hơn
Sau những cơn mưa, nếu dạo bước trên đường phố, đồng ruộng, người ta cảm thấy không khí trong lành, sạch sẽ. Sở dĩ
như vậy là có hai nguyên nhân:
Nước mưa đã gột sạch bụi bẩn làm bầu không khí được trong sạch.
Trong cơn giông đã xảy ra phản ứng tạo thành ozon từ oxi:
tia
2 3
3O 2O
→
löûa ñieän
Ozon sinh ra là chất khí màu xanh nhạt, mùi nồng, có tính oxi hóa mạnh. Ozon có tác dụng tẩy trắng và diệt khuẩn mạnh.
Khi nồng độ ozon nhỏ, người ta cảm giác trong sạch, tươi mát.
Do vậy sau cơn mưa giông trong không khí có lẫn ít ozon làm cho không khí trong sạch, tươi mát.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh. Một số học sinh cho rằng đây là điều hiển nhiên vì “
sau cơn mưa trời lại sáng”. Tuy nhiên nhìn dưới góc độ hóa học thì ta có thể giải thích được rõ ràng vấn đề này. Giáo viên có thể
đề cập trong phần ứng dụng của ozon hay đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài giảng về “Ozon” ( Tiết 50 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 6: Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý đến việc thông gió ?
Chúng ta đều biết khi máy photocopy làm việc thường xảy ra hiện tượng phóng điện cao áp do đó có thể sinh ra khí ozon
theo phản ứng:
tia
2 3
3O 2O
→
löûa ñieän
Với một lượng ít ozon trong không khí thì có tác dụng diệt khuẩn, diệt vi trùng. Nhưng nếu lượng ozon lại vượt qua giới
hạn cho phép sẽ gây tổn hại cho đại não, phá hoại khả năng miễn dịch bệnh, gây mất trí nhớ, biến đổi nhiễm sắc thể, gây quái thai ở
phụ nữ mang thai, v.v Thậm chí ozon còn là chất gây ung thư nên tác hại của ozon không thể kể hết được.
Hiển nhiên là lượng ozon do máy photocopy sinh ra rất bé nên nếu ngẫu nhiên mà tiếp xúc với nó cũng chưa có thể gây
nguy hại cho cơ thể. Nhưng nếu tiếp xúc với ozon trong thời gian dài và nếu không chú ý làm thông gió căn phòng thì do ozon tập
hợp nhiều trong phòng đến mức vượt tiêu chuẩn an toàn thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Cho nên khi sử dụng máy photocopy cần chú ý đến việc thông gió cho phòng máy.
Áp dụng: Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên khi nói về tác hại của ozon trong bài giảng về “ Ozon” (Tiết 50 lớp 10 CB).
Sau bài học học sinh sẽ biết được sự nguy hiểm khi photocopy tài liệu và biết cách tránh được sự nguy hại này.
VẤN ĐỀ 7: Vì sao “chảo không dính” khi chiên ráng thức ăn lại không bị dính chảo?
Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo sẽ bị dính chảo. Nhưng nếu dùng chảo không dính
thì thức ăn sẽ không dính chảo.
Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao
phân tử. Đó là politetra floetylen được tôn vinh là “vua chất dẻo”
thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc. Khi cho teflon vào axit vô
cơ hay axit H
2
SO
4
đậm đặc, nước cường thủy( hỗn hợp HCl và HNO
3
đặc), vào dung dịch kiềm đun sôi thì teflon không hề biến
chất. Dùng teflon tráng lên đáy chảo khi đun với nước sôi không hề xảy ra bất kì tác dụng nào. Các loại dầu ăn, muối, dấm,… cũng
xảy ra hiện tượng gì. Cho dù không cho dầu mở mà trực tiếp rán cá, trứng trong chảo thì cũng không xảy ra hiện tượng gì.
Một điều chú ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt độ trên 250
o
C là bắt đầu phân hủy và thoát
ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
Áp dụng: “Chảo không dính” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng khá nhiều. Công dụng của chảo đã làm hài lòng tất cả
các đầu bếp khó tính. Nhưng ít ai hiểu được vì sao chảo không dính lại ưu việt đến vậy. Giáo viên có thể nêu vấn đề này khi dạy về
“Ứng dụng flo” (Tiết 43 lớp 10 CB) hoặc bài “Dẫn suất halogen” (Tiết 55 lớp 11CB) cũng như lưu ý học sinh về cách sử dụng chảo
không dính.
VẤN ĐỀ 8: Vì sao rượu lại làm mất mùi tanh của cá?
Cá tanh do trong cá có trimetylamin (CH
3
)
3
N và đimetylamin (CH
3
)
2
NH và metyl amin CH
3
NH
2
là những chất có mùi khó
ngửi.
Khi chiên cá ta cho thêm một ít rượu có thể phá hủy được mùi tanh cá. Vì trimetylamin thường “lẫn trốn” trong cá nên
người ta khó trục nó ra. Nhưng trong rượu có cồn, cồn có thể hòa tan trimetylamin nên có thể lôi được trimetylamin ra khỏi chổ ẩn.
Khi chiên cá ở nhiệt độ cao cả trimetylamin và cồn đều bay hơi hết, nên chỉ một lúc sau mùi tanh cá sẽ bay đi hết.
Ngoài ra trong rượu có một ít etylaxetat có mùi dễ chịu nên rượu có tác dụng thêm mùi thơm rất tốt.
Áp dụng: Đây là một kinh nghiệm thường thấy khi chế biến thức ăn liên quan đến cá. Giáo viên cần giải thích cho học sinh
biết được cơ sở hóa học của kinh nghiệm trên. Từ đó giúp các em thấy được những ứng dụng đời thường của hóa học nhằm tăng
CF
2
CF
2
n
thêm niềm yêu thích đối với môn hóa học. Giáo viên có thể đưa vào phần ứng dụng của ancol trong bài “Ancol” (Tiết 56-57 lớp
11CB) hoặc phần tính chất chung của amin trong bài “Amin” (Tiết 6 lớp 12).
VẤN ĐỀ 9: Các con số ghi trên chai bia như 12
o
, 14
o
có ý nghĩa như thế nào?
Trên thị trường có bày bán nhiều loại bia đóng chai. Trên chai có nhãn ghi 12
o
, 14
o
,…Có người hiểu đó là số biểu thị hàm
lượng rượu tinh khiết của bia. Thực ra hiểu như vậy là không đúng.
Số ghi trên chai bia không biểu thị lượng rượu tinh khiết ( độ rượu) mà biểu thị độ đường trong bia.
Nguyên liệu chủ yếu để nấu bia là đại mạch. Qua quá trình lên men, tinh bột đại mạch chuyển hóa thành đường mạch
nha( đó là Mantozơ - một đồng phân của đường saccarozơ). Bấy giờ đại mạch biến thành dịch men, sau đó lên men biến thành bia.
Khi đại mạch lên men sẽ cho lượng lớn đường mantozơ, chỉ có một phần mantozơ chuyển thành rượu, phần mantozơ còn
lại vẫn tồn tại trong bia. Vì vậy hàm lượng rượu trong bia khá thấp. Độ dinh dưỡng của bia cao hay thấp có liên quan đến lượng
đường.
Trong quá trình ủ bia, nếu trong 100ml dịch lên men có 12g đường người ta biểu diễn độ đường lên men là bia 12
o
. Do đó
bia có độ 14
o
có giá trị dinh dưỡng cao hơn bia 12
o
.
Áp dụng: Đây là vấn đề mà mọi người rất thường nhầm giữa độ rượu và độ đường về những con số ghi trên những chai
bia. Giáo viên đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài “Ancol” (Tiết 56-57 lớp 11CB) hoặc bài “Saccarozơ” (Tiết 23 lớp 12).
VẤN ĐỀ10: Giải thích hiện tượng: “Khi các cầu thủ đá banh bị đau nằm lăn lộn trên đất thì nhân viên y tế chỉ
cần dùng bình thuốc phun vào chỗ bị thương, sau đó cầu thủ bị thương đứng lên tiếp tục thi đấu”
Khi cầu thủ bị thương, chỗ bị thương sẽ rất đau đớn. Người cán bộ y tế dùng phương pháp làm lạnh cục bộ bằng cách phun
chất làm lạnh tức thời trên chỗ bị thương. Chất làm lạnh ở đây là etyl clorua C
2
H
5
Cl hay gọi là cloetan.
C
2
H
5
Cl là hợp chất hữu cơ có t
o
s
là 12,3
o
C. Ở nhiệt độ thường khi tăng áp suất sẽ biến thành chất lỏng. Khi phun C
2
H
5
Cl
lên chỗ bị thương, các giọt etyl clorua tiếp xúc với da, nhiệt độ cơ thể sẽ làm etyl clorua sôi lên và bốc hơi rất nhanh. Quá trình này
thu nhiệt mạnh làm cho da bị lạnh đông cục bộ và tê cứng. Vì vậy thần kinh cảm giác không truyền được đau lên đại não. Nhờ đó
cầu thủ không có cảm giác đau. Do sự đông cục bộ nên vết thương không bị chảy máu.
Chú ý là cloetan chỉ tạm thời không làm cho cầu thủ cảm giác đau mà không có tác dụng chữa trị vết thương.
Áp dụng: Đây là cảnh tượng thường thấy trong các trận đá banh. Mọi người cứ nghĩ đó là một loại “ thuốc tiên” nhưng xét
về phương diện hóa học đó chỉ là một chất có đặc tính “ thu nhiệt mạnh” ở điều kiện thường. Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe
về phần ứng dụng của dẫn xuất halogen trong bài “Dẫn suất halogen” (Tiết 55 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 11: Vì sao ở các công viên, khách sạn lớn thường xây dựng các giếng phun nước nhân tạo ?
Có lẽ ai cũng biết rằng xây dựng các giếng phun nước để làm đẹp cảnh quan và mát mẻ. Nhưng xét về phương diện hóa
học thì việc xây dựng các giếng phun nước nhân tạo nhằm mục đích là sinh ra ion âm.
Người ta đã chứng minh, các ion âm sau khi được người hấp thụ có thể điều tiết công năng hệ thần kinh trung ương, tăng
sức miễn dịch, cảm giác dễ chịu, tinh lực sung mãn. Các thí nghiệm lâm sàng cũng đã chứng minh nồng độ ion âm trong không khí
có hiệu quả chửa bệnh viêm phế quản, hen, đau đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh,…
Vì sao ion âm trong không khí có lợi cho sức khỏe? Theo các chuyên gia y học thì các tế bào gây bệnh thường tích điện âm,
nếu tế bào trong cơ thể tích điện âm, thì do ion âm cùng tên đẩy nhau nên vi trùng gây bệnh khó có thể tấn công tế bào. Ngoài ra ion
âm thông qua con đường hô hấp và phổi có thể xuyên qua phế nang nên có tác dụng tổng hợp đối với cơ năng sinh lí bảo vệ sức
khỏe.
Trong phòng có điều hòa không khí, phòng sử dụng máy tính thì nồng độ ion âm trong không khí thì rất thấp, thậm chí gần
bằng không. Sống và làm việc trong điều kiện này trong một thời gian dài sẽ cảm thấy tức thở, tâm thần bất an, dễ sinh bệnh tật.
Áp dụng: Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe tác dụng của ion âm đối với sức khỏe con người sau khi dạy xong phần
“Ion âm” (Tiết 22 lớp 10 CB). Mục đích giúp học sinh hiểu được việc xây dựng các giếng nước phun có ý nghĩa như thế nào đến
cảnh quan cũng như bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Một vấn đề mà ít ai biết hay không chú ý.
VẤN ĐỀ 12: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lâu ngày thấy xuất hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp
cặn này như thế nào?
Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời - là nước có chứa Ca(HCO
3
)
2
và Mg(HCO
3
)
2
. Khi nấu nước lâu
ngày thì xảy ra phương trình hóa học:
Ca(HCO
3
)
2
→ CaCO
3
↓ + CO
2
↑ + H
2
O
Mg(HCO
3
)
2
→ MgCO
3
↓ + CO
2
↑ + H
2
O
Do CaCO
3
và MgCO
3
là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn.
Để tẩy lớp căn này thì dùng dung dịch CH
3
COOH 5% cho vào ấm đun sôi để nguội khoảng một đêm rồi rửa sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên rồi dẫn dắt cho học sinh vào bài bài giảng “Nước cứng” (Tiết 49 lớp 12) hoặc
đưa vào phần cũng cố toàn bài giảng để học sinh vận dụng kiến thức đẽ học để giải thích. Mục đích là cung cấp cho học sinh một số
vấn đề có trong đời sống từ đó có thể giải thích được bản chất vấn đề nhằm kích thích sự hưng phấn trong học tập. Đây là hiện
tượng mà học sinh có thể quan sát và thực hiện được dễ dàng.
VẤN ĐỀ 13: Vì sao phèn chua lại làm sạch nước ?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước 24 phân tử nước nên có công thức hóa học là
K
2
SO
4
.Al
2
(SO
4
)
3
.24H
2
O.
Phèn chua không độc, có vị chát chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan rất nhiều trong nước nóng. Khi cho phèn chua vào
nước sẽ phân li ra ion Al
3+
. Chính ion Al
3+
này bị thủy phân theo phương trình:
Al
3+
+ 3H
2
O → Al(OH)
3
↓ + 3H
+
Kết quả tạo ra Al(OH)
3
là chất kết tủa dạng keo nên khi khuấy phèn chua vào nước, nó kết dính các hạt đất nhỏ lơ lửng
trong nước đục thành hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống làm trong nước. Nên trong dân gian có câu:
“ Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước trong dùng cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và
sáng cho nên đông y còn gọi là minh phàn
( minh là trong trắng, phàn là phèn).
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi dạy phần ứng dụng của “Muối nhôm” (Tiết 51-52 lớp 12).Đây là một ứng
dụng thông dụng của phèn trong cuộc sống. Qua bài học học sinh biết được nguyên lí làm trong nước của phèn chua.
VẤN ĐỀ 14: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều
bọt khí thoát ra ?
Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí cacbonic CO
2
. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt,
người ta dùng áp lực lớn để ép CO
2
hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt.
Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO
2
lập tức bay vào không khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc
ta đun nước sôi.
Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề
hấp thụ khí CO
2
. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO
2
nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một
nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO
2
có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng
cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng: Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai bia thì chắc hẳn học sinh nào cũng biết.
Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và có công dụng ra sao thì không ít học sinh biết được. Giáo viên có thể nêu câu hỏi trên khi
dạy phần “Cacbon Đioxit” (tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 15: Vì sao không nên đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc mà
chỉ có thể đổ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Trong bất kì quuyển sách hóa học nào cũng ghi câu sau để cảnh tỉnh bạn đọc: “ Trong bất kì tình huống nào cũng không
được đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc, mà chỉ được đổ từ từ axit sunfuric đặc vào nước”. Vì sao vậy ?
Khi axit sunfuric gặp nước thì lập tức sẽ có phản ứng hóa học xảy ra, đồng thời sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric
đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Khi xảy ra phản ứng hóa học,
nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào
nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản ứng xảy ra, nhiệt lượng sinh ra
được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh.
Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải đổ từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong
các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm được đặt lên hàng đầu trong những tiết dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi
tiếp xúc với axit H
2
SO
4
đặc thì rất nguy hiểm. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng axit H
2
SO
4
khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc trong bài “Axit sunfuric” (Tiết 55-56 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 16: Vì sao axit nitric HNO
3
đặc lại phá thủng quần áo ?
Khi làm thí nghiệm hóa học, nếu quần áo bạn dính phải axit nitric HNO
3
đặc thường sẽ bị thủng một lỗ; khi dùng axit
không đặc, nhìn bên ngoài thì không thấy gì, nhưng sau khi phơi khô bạn sẽ thấy ngay lỗ thủng.
Quần áo chúng ta mặc thường ngày thường dệt bằng sợi bông, thành phần hóa học của sợi bông là xenlulozơ. Xenlulozơ
không tan trong nước và đa số các dung môi khác nhưng dễ tan trong axit HNO
3
đặc nên làm thủng quần áo.
Khi bị axit HNO
3
loãng dính vào quần áo, tuy quần áo không bị thủng ngay, nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit HNO
3
càng ngày càng đặc, cuối cùng sẽ làm thủng quần áo. Ngoài ra, axit HNO
3
loãng có thể có tác dụng hóa học với xenlulozơ.
Áp dụng: Giáo viên có thể nêu vấn đề trên khi nói về tính chất hóa học của axit nitric trong bài “Axit nitric”( Tiết 14-15 lớp
11CB) hoặc đặt câu hỏi sau khi dạy xong bài “Xenlulozơ” ( Tiết 25 lớp 12) để nhắc nhở học sinh thật cẩn thận khi tiếp xúc với axit
HNO
3
đặc.
VẤN ĐỀ 17: Chảo , môi, dao đều được làm từ sắt. Vì sao chảo lại giòn ?
môi lại dẻo ? còn dao lại sắc ?
Chảo xào rau, môi và dao đều làm từ sắt. Thế nhưng loại sắt để chế tạo chúng lại không giống nhau.
Sắt dùng để làm chảo là “gang”. Gang có tính chất là rất giòn. Trong công nghiệp, người ta nấu chảy lỏng gang để đổ vào
khuôn, gọi là “đúc gang”
Môi múc canh được chế tạo bằng “thép non”. Thép non không giòn như gang. Người ta thường dùng búa để rèn, biến thép
thành các đồ vật có hình dạng khác nhau.
Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà bằng “thép”. Thép vừa dẻo vừa dát mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.
Áp dụng: Vấn đề từ sắt có thể điều chế những vật dụng có chức năng khác nhau được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống.
Giải thích được điều này đòi hỏi học sinh phải biết được tính chất của sắt cũng như hợp kim của nó. Giáo viên có thể đề cập trong
bài “Hợp kim của sắt” ( Tiết 61-62-63 lớp 12).
VẤN ĐỀ 18: Giải thích hiện tượng: “ Một nồi nhôm mới mua về sáng lấp lánh bạc, chỉ cần dùng nấu nước sôi, bên
trong nồi nhôm, chổ có nước biến thành màu xám đen ?”
Mới xem thì có vẻ lạ vì nồi nhôm mới, ngoài nước ra thì không tiếp xúc với gì khác, chẳng lẽ nước lại làm cho nồi đen ?
Bình thường trông bên ngoài nước không có vấn đề gì, thực tế trong nước có hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các
muối canxi, magiê và sắt. Các nguồn nước có thể chứa lượng muối sắt ít nhiều khác nhau, loại nước chứa nhiều sắt “ là thủ phạm”
làm cho nồi nhôm có màu đen.
Vì nhôm có tính khử mạnh hơn sắt nên nhôm sẻ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và thay thế ion sắt, còn ion sắt bị khử sẽ bám
vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen:
Để hoàn thành được điều trên phải có 3 điều kiện:
Lượng muối sắt trong nước phải đủ lớn
Thời gian đun sôi phải đủ lâu
Nồi nhôm phải là nồi mới
Áp dụng: Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên để dẫn nhập vào bài giảng “Nhôm” ( Tiết 51 lớp 12). Sau đó học sinh dựa vào những
kiến thức đã học để giải thích hiện tượng nồi nhôm bị đen.
VẤN ĐỀ 19: Tại sao không dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF ?
Tuy dung dịch axit HF là một axit yếu nhưng nó có khả năng đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do thành phần chủ yếu của thủy
tinh là silic đioxit SiO
2
nên khi cho dung dịch HF và thì có phản ứng xảy ra:
SiO
2
+ 4HF → SiF
4
↑ + 2H
2
O
Áp dụng: Đây là phần kiến thức mà bất kì học sinh nào cũng phải biết được sau khi học bài Flo và hợp chất của nó. Học
sinh biết giải thích và vận dụng trong thực tiễn tránh việc dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF. Giáo viên có thể hỏi học sinh sau
khi dạy xong bài dạy “Flo” (Tiết 43 lớp 10 CB) hay “Hợp chất silic”(Tiết 25 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 20: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần
khắc nhờ lớp sáp mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chổ lớp sáp bị cào đi
SiO
2
+ 4HF → SiF
4
↑ + 2H
2
O
Nếu không có dung dịch HF thì thay bằng dung dịch H
2
SO
4
đặc và bột CaF
2
. Làm tương tự như trên nhưng ta cho bột CaF
2
vào chổ cần khắc,sau đó cho thêm H
2
SO
4
đặc vào và lấy tấm kính khác đặt trên chổ cần khắc. Sau một thời gian, thủy tinh cũng sẽ
bị ăn mòn ở những nơi cạo sáp.
CaF
2
+ 2H
2
SO
4
→ CaSO
4
+ 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
Sau đó SiO
2
+ 4HF → SiF
4
↑ + 2H
2
O
Áp dụng: Đây là một vấn đề rất thực tế khi mà nghề khắc thủy tinh đang phát triển ở nước ta. Sau bài học học sinh
không những biết được phương pháp khắc thủy tinh mà còn có thể giải thích được vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học
nghề, khơi gợi niềm đam mê học tập, học sinh có thể tự làm thí nghiệm này trong tiết thực hành. Giáo viên có thể lồng vào bài
“Flo”(Tiết 43 lớp 10 CB) khi dạy phần tính chất hóa học hoặc giáo viên nêu vấn đề trên để dẫn dắt vào bài giảng “Hợp chất
silic”(Tiết 25 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 21: Vì sao gạo nếp lại dẻo ?
Tinh bột là hỗn hợp của hai thành phần: amilozơ và amilopectin. Hai loại này thường không tách rời nhau được. Trong mỗi
hạt tinh bột, amilopectin là vỏ bọc nhân amilozơ. Amilozơ tan được trong nước còn amilopectin hầu như không tan, trong nước
nóng amilopectin trương lên tạo thành hồ. Tính chất này quyết định đến tính dẻo của hạt có tinh bột.
Trong mỗi hạt tinh bột, lượng amilopectin chiếm 80%, amilozơ chiếm khoảng 20% nên cơm gạo tẻ, ngô tẻ, bánh mì
thường có độ dẻo bình thường. Tinh bột trong gạo nếp, ngô nếp chứa lượng amilopectin rất cao, khoảng 90% làm cho cơm nếp, xôi
nếp,… rất dẻo, dẻo đến mức dính.
Áp dụng: Vấn đề trên là hiển nhiên trong đời sống mà bất kì ai cũng biết hiện tượng này. Vấn đề có thể đưa vào trong khi
dạy bài “Tinh bột”( Tiết 24 lớp 12) với mục đích giải thích tại sao gạo nếp lại dẻo. Giáo viên có thể trình bày vấn đề này trong vài
phút khi đặt câu hỏi: Vì sao nếp lại dẻo? rồi dẫn dắt vào bài mới hoặc giáo viên xen vào bài giảng khi trình bày phần cấu tạo phân
tử tinh bột.
VẤN ĐỀ 22: “Thuốc chuột” là chất gì mà có thể làm chuột chết ?
Tại sao những con chuột sau khi ăn thuốc chuột lại đi tìm nước uống. Vậy thuốc chuột là gì? Cái gì đã làm cho chuột chết?
Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nước uống thì chuột chết mau hay lâu hơn ?
Thành phần thuốc chuột là kẽm photphua Zn
3
P
2
. Sau khi ăn, Zn
3
P
2
bị thủy phân rất mạnh, hàm lượng nước trong cơ thể
chuột giảm, nó khát và đi tìm nước:
Zn
3
P
2
+ 6H
2
O → 3Zn(OH)
2
+ 2PH
3
↑
Chính PH
3
(photphin) đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH
3
thoát ra nhiều → chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước chuột sẽ chết
lâu hơn.
Áp dụng: Vấn đề diệt chuột đang được mọi người quan tâm vì chuột là con vật mang nhiều mầm bệnh truyền nhiễm cho
con người và hay phá hoại mùa màng. “Thuốc chuột” đang được dùng với mục đích trên. Nhưng đây là loại thuốc rất độc nên dể
ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vì vậy giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh biết cơ chế diệt chuột của thuốc chuột nhằm biết
cách sử dụng an toàn. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này trong phần nêu ứng dụng của photpho hoặc khi lấy ví dụ để chứng minh
tính oxi hóa của photpho thì giáo viên nên viết phương trình photpho tác dụng của với kẽm, sau đó nêu ứng dụng của sản phẩm
( Zn
3
P
2
) trong bài “Photpho” ( Tiết 16 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 23: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ?
Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm làm cho cơm đở mùi khê.
Áp dụng: Đây là mẹo vặt thường được dùng khi không may cơm bị khê. Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần
tính chất vật lí hoặc trong phần nêu ứng dụng của cacbon trong bài “Cacbon”( tiết 23 lớp 11CB)cho học sinh suy nghĩ rồi sau đó
giáo viên nhận xét và bổ sung.
Vì sao thức ăn nấu khê cháy dễ gây ung thư ?
Chất asparagin trong thực phẩm dưới nhiệt độ cao sẽ kết hợp với đường tự nhiên trong rau quả, hay các thực phẩm giàu
chất cacbohyđrat tạo thành acylamid, tác nhân chính gây ra bệnh ung thư
- Ăn nhiều thịt hun khói và các chất bảo quản thục phẩm chứa nitrosamin có trong rau ngâm, thịt hun khói làm gia tăng
ung thư miệng, thực quản, thanh quản, dạ dày. Ăn nhiều chất béo có liên quan đến ung thư vú, đại tràng, trực tràng,
niêm mạc tử cung
Thuốc trừ sâu nitrofen là chất gây ung thư và dị tật bào thai. Hóa chất độc hại ethinnylestradiol và bíphenol A có trong
túi nilon và hộp nhựa tái sinh dùng đựng thức ăn gây hại cho bào thai
VẤN ĐỀ 24: Vì sao ta không thể dập tắt đám cháy của các kim loại mạnh: K, Na, Mg,… bằng khí CO
2
Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí quyển CO
2
. Thí dụ :
2Mg + CO
2
→ 2MgO + C
Cacbon sinh ra lại tiếp tục cháy:
C + O
2
→ CO
2
Áp dụng: Để dập tắt các đám cháy thông thường người ta thường dùng khí CO
2
. Tuy nhiên một số đám cháy có các kim
loại mạnh thì CO
2
không những không dập tắt mà làm cho lửa cháy thêm gây thiệt hại nghiêm trọng. Đây là phần nội dung mà giáo
viên cần cung cấp cho học sinh biết khi đề cập đến khả năng không duy trì sự cháy của khí CO
2
ở phần “Cacbon đioxit” (Tiết 24 lớp
11CB) biết được để vận dụng trong cuộc sống.
VẤN ĐỀ 25:Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm ?
Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H
2
S tương đối cao. Chính lượng H
2
S sẽ làm cho cơ thể
mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H
2
S. Do đó, lượng H
2
S trong cơ thể giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng
Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:
4Ag + 2H
2
S + O
2
→ 2Ag
2
S↓ + 2H
2
O
(đen)
Áp dụng: Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm
này rất có cơ sở khoa học mà mọi người cần phải biết. Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần trạng thái tự nhiên của
hiđro sunfua ( Tiết 53 lớp 10 CB) cho học sinh biết cách chữa bệnh “dân gian” này.
VẤN ĐỀ 26: Vì sao “bánh bao” thường rất xốp và có mùi khai ?
Khi làm bánh bao người ta thường cho ít bột nở NH
4
HCO
3
vào bột mì. Khi nướng bánh, NH
4
HCO
3
phân hủy thành các
chất khí và hơi thoát ra nên làm cho bánh xốp và nở.
NH
4
HCO
3
(r)
o
t C
→
NH
3
↑ + CO
2
↑ + H
2
O↑
Do khí NH
3
sinh ra nên làm cho bánh bao có mùi khai.
Áp dụng: Hiện nay thông thường bánh bao vẫn còn trộn bột nở NH
4
HCO
3
nên dẫn đến có mùi khai mà không phải học
sinh nào cũng giải thích được. Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên khi trình bày tính chất kém bền nhiệt của muối amoni trong bài
“Muối amoni” ( Tiết 12-13 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 27: Vì sao trong một ngày hoa phù dung có thể đổi màu tới 3 lần ?
Hoa phù dung đổi màu 3 lần trong ngày. Buổi sáng màu trắng, buổi trưa màu phớt hồng, buổi chiều màu hồng đậm hơn.
Loài hoa, trước sau chỉ biến đổi thay nhau giữa các màu trắng, hồng, vàng, da cam, đỏ. Đó là sự thay đổi của chất caroten
có trong thực vật.
Caroten là một loại sắc tố thường thấy trong mọi đóa hoa. Trong sữa động vật, trong chất béo cũng có sắc tố này nhưng
nhiều hơn cả là trong của cà rốt ( chất màu vàng da cam). Caroten là một hiđrocacbon có công thức phân tử C
40
H
56
.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng thường gặp trong tự nhiên. Giáo viên đưa vấn đề này vào trong bài giảng “Tecpen” ( Tiết
57 lớp 11NC) để giới thiệu cho học sinh biết thêm về nguồn tecpen thiên nhiên nhằm kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học
sinh.
VẤN ĐỀ 28: Loại đá có thể… ăn
Khi bạn bị bệnh đau dạ dày cần phải chụp X quang. Trước khi chụp phim thì bác sỹ thường cho bạn ăn một thứ thức ăn ở
dạng hồ trắng. Thành phần chủ yếu của thức ăn là một loại đá BaSO
4
.
Nguyên do là thầy thuốc chẩn đoán bệnh đau dạ dày cho người bệnh thường phải chụp X quang. Chụp X quang đối với dạ
dày không dễ như với các bộ phận xương cốt, bởi vì tỷ trọng của xương lớn, tia X khó xuyên qua, trên phim chụp có thể lưu lại
những hình ảnh đậm còn tỷ trọng của dạ dày và các tổ chức xung quanh tương đối mềm nên ảnh chụp không rõ nét.
Khi bệnh nhân ăn xong, BaSO
4
đã vào tới dạ dày thì tiến hành chụp X quang bởi vì BaSO
4
ngăn cản tia X rất tốt. Từ đó
Thầy thuốc có thể chẩn đoán chính xác tình trạng dạ dày.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vào phần bài giảng “Muối sunfat” ( Tiết 55-56 lớp 10 CB) khi kể cho học sinh biết thêm
một số ứng dụng của muối sunfat.
VẤN ĐỀ 29: Vì sao có thể xác định tuổi thọ của một mảnh gỗ ?
Các nhà khảo cổ thường dùng “ đồng hồ cacbon” để xác định xem tuổi thọ của các mãnh gổ là bao nhiêu.
Hàm lượng
14
C
trong khí quyển luôn được cân bằng không đổi.
14
C
trong khí quyển kết hợp với oxi mà tồn tại dưới
dạng khí
14
2
CO
. Thông qua quá trình quang hợp, khí
14
2
CO
này bị thực vật hấp thụ tạo thành tinh bột, xenlulozơ. Sau khi động
vật ăn thực vật,
14
C
lại chuyển vào cơ thể động vật. Tỷ lệ giữa
14
C
( có tính phóng xạ) và
12
C
( một đồng vị ổn định) ở trong khí
quyển cũng như ở trong thực vật, động vật đều bằng nhau.Chỉ sau khi động thực vật chết đi, chúng mới đình chỉ sự chuyển đổi vật
chất với thế giới bên ngoài, sự cung ứng
14
C
cũng sẽ bị ngừng. Do đó
14
C
không ngừng phát ra tia xạ nên hàm lượng của
14
C
sẽ
giảm dần. Quy luật của sự giảm đó là: “Cứ qua quãng thời gian 5730 năm, thì lượng
14
C
sẽ giảm đi một nửa”. Điều này gọi là
“chu kì bán rã” của chất đồng vị phóng xạ.
Do vậy nếu muốn biết niên đại của miếng gỗ cổ thì chỉ cần đo hàm lượng
14
C
của mãnh gỗ đó là có thể tính toán ra.
Áp dụng: Đây là một trong những ứng dụng quan trọng của các đồng vị phóng xạ. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh
biết cách tính tuổi thọ cây cối dựa vào đồng vị
14
C
trong bài “Đồng vị” ( tiết 4-5 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 30: Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố lại có mùi khí clo ?
Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần
khí clo gây mùi và một phần tác dụng với nước:
2 2
Cl + H O HCl + HClO
→
¬
Axit hipoclorơ HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát khuẩn nước.
Áp dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay ở các nhà máy nước cung cấp nước cho các thành phố,
thị xã, thị trấn. Giải thích được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng dụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có
thể kiểm nghiệm thật dể dàng. Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong bài
“Clo”( Tiết 38 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 31: “Ma trơi” là gì? Ma trơi thường xuất hiện ở đâu ?
Trong xương của động vật luôn có chứa một hàm lượng photpho. Khi cơ thể động vật chết đi, nó sẽ phân hủy một phần
thành photphin PH
3
và lẩn một ít điphotphin P
2
H
4
.
Photphin không tự bốc cháy ở nhiệt độ thường. Khi đun nóng đến 150
o
C thì nó mới cháy được. Còn điphotphin P
2
H
4
thì tự
bốc cháy trong không khí và tỏa nhiệt. Chính lượng nhiệt tỏa ra trong quá trình này làm cho photphin bốc cháy:
2PH
3
+ 4O
2
→ P
2
O
5
+ 3H
2
O
Quá trình trên xảy ra cả ngày lẫn đêm nhưng do ban ngày có các tia sáng của mặt trời nên ta không quan sát rõ như vào ban
đêm.
Hiện tượng ma trơi chỉ là một quá trình hóa học xảy ra trong tự nhiên. Thường gặp ma trơi ở các nghĩa địa vào ban đêm.
Áp dụng: Vấn đề này có thể được đề cập ở trong bài “Photpho” (Tiết 16 lớp 11CB) để giải thích hiện tượng “ma trơi”. Đây
là một hiện tượng tự nhiên chứ không phải là một hiện tượng “ thần bí ” nào đó, tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống
thêm lành mạnh.
VẤN ĐỀ 32: Tại sao phải ăn muối iot ?
Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp trạng. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng
20-50mg.
Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng KI và KIO
3
.
Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng
bệnh khác.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi kết thúc bài giảng “Iot” (Tiết 44 lớp 10 CB) nhằm giúp cho học sinh hiểu
được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho cộng đồng.
VẤN ĐỀ 33: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt ?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ cơm trong nước
bọt sẽ xảy ra sự thủy phân một phần tinh bột thành mantozơ và glucozơ nên có vị ngọt:
Detrin Mantozô
Amilaza
β
−
→ → →
Amilaza
Tinh boät
Mantanza
Glucozô
Áp dụng: Giáo viên có thể đề cặp vấn đề trên ở phần nội dung phản ứng thủy phân của tinh bột trong bài “Tinh bột” (Tiết
24 lớp 12) nhằm cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hóa tinh bột trong khi ăn. Học sinh cũng có thể kiểm
nghiệm được trong khi ăn.
VẤN ĐỀ 34: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc CO hoặc khíthiên nhiên CH
4
không có oxi để tránh khi
xuống giếng bị chết ngạt ?
Trong các giếng sâu ở một số vùng đồng bằng thường có nhiều khí độc CO và CH
4
và thiếu oxi. Vì một lí do nào đó mà ta
xuống giếng thì rất nguy hiểm. Đã có rất nhiều trường hợp tử vong do trèo xuống giếng gặp nhiều khí độc và chết ngạt do thiếu oxi.
Điều tốt nhất là tránh phải xuống giếng, nếu có xuống thì nên mang theo bình thở oxi. Trước khi xuống giếng cần thử xem trong
giếng có nhiều khí độc hay không bằng cách cột một con vật như gà, vịt rồi thả xuống giếng. Nếu gà, vịt chết thì chứng tỏ dưới
giếng có nhiều khí độc.
Áp dụng: Đây là hiện tượng hay xảy ra vào mùa khô. Mọi người không hề biết được sự nguy hiểm khi xuống giếng sâu.
Thực tế là đã có nhiều cái chết thương tâm xảy ra mà báo đài đã nêu trong thời gian qua. Giáo viên cần đưa vào bài giảng để nhắc
nhở học sinh và mọi người. Vấn đề này có thể xen vào bài “Hợp chất của cacbon”(Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 35: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha - Kẽ Bàng với những hình
dạng phong phú đa dạng được hình thành như thế nào ?
Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO
3
. Khi trời mưa trong không khí có CO
2
tạo thành môi trường axit nên
làm tan được đá vôi. Những giọt mưa rơi xuống sẽ bào mòn đá thành những hình dạng đa dạng:
3 2 2 3 2
CaCO + CO + H O Ca(HCO )
↓
ˆ ˆ †
‡ ˆ ˆ
Theo thời gian tạo thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO
3
)
2
ở đá thay đổi về nhiệt độ và áp suất nên khi giọt
nước nhỏ từ từ có cân bằng:
3 2 3 2 2
Ca(HCO ) CaCO + CO + H O
↓
ˆ ˆ †
‡ ˆ ˆ
Như vậy lớp CaCO
3
dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những hình thù đa dạng.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá, cụ thể là Phong Nha Kẽ Bàng ( Quảng Bình).
Học sinh sẽ biết được quá trình hình thành các hang động với những hình dạng phong phú là do thiên nhiên kiến tạo dựa trên các
quá trình biến đổi hóa học. Dựa vào tính chất của Canxi cacbonat giáo viên có thể đề cập vấn đề trên ở bài “Hợp chất của
canxi”(tiết 48 lớp 12).
VẤN ĐỀ 36: Ca dao Việt Nam có câu:
“Lúa chim lấp ló ngoài bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Mang ý nghĩa hóa học gì ?
Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đồng mà có trận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất
cao. Vì sao vậy ?
Do trong không khí có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp( tia lửa điện) thì:
2 2
N + O 2NO
→
tia löûa ñieän
Sau đó: 2NO + O
2
→ 2NO
2
Khí NO
2
hòa tan trong nước: 4NO
2
+ O
2
+ H
2
O → 4HNO
3
HNO
3
→ H
+
+ NO
3
-
(Đạm)
Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đất được cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ.
Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đời sống. Đây quả là một kinh nghiệm được
ông cha ta rút ra qua những tháng năm canh tác nông nghiệp. Học sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thích được
một cách khoa học về vấn đề trên. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi trình bày phần chu trình của nitơ trong tự nhiên ở bài giảng
“Axit HNO
3
” (Tiết 14-15) hoặc đề cập trong bài “Phân đạm” (Tiết 18 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 37: Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì ?
Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Tetraetyl chì (C
2
H
5
)
4
Pb, có tác dụng làm tăng khả năng chịu nén
của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm khoảng 30% lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì oxit sinh ra sẽ bám vào các
ống xả, thành xilanh, nên thực tế còn trộn vào xăng chất 1,2 - đibrometan CH
2
Br – CH
2
Br để chì oxit chuyển thành muối PbBr
2
dể
bay hơi thoát ra khỏi xilanh, ống xả và thải vào không khí gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con
người.
Từ những điều gây hại trên mà hiện nay ở nước ta không còn dùng xăng pha chì nửa.
Áp dụng: Hiện nay nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sử dụng xăng pha chì. Để hiểu được vì
sao thì không ít người hiểu được vấn đề này. Thông qua nội dung “Dầu mỏ”( Tiết 53 lớp 11CB) giáo viên có thể đặt câu hỏi này cho
học sinh thảo luận rồi giải thích cho học sinh biết được tác hại của việc pha chì vào xăng nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
VẤN ĐỀ 38: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa hóa học gì?
Thành phần chủ yếu của đá là CaCO
3
. Trong không khí có khí CO
2
nên nước hòa tan một phần tạo thành axit H
2
CO
3
. Do
đó xảy ra phản ứng hóa học :
3 2 2 3 2
CaCO + CO + H O Ca(HCO )
ˆ ˆ †
‡ ˆ ˆ
(*)
Khi nước chảy cuốn theo Ca(HCO
3
)
2
, theo nguyên lí dịch chuyển cân bằng thì cân bằng (*) sẽ chuyển dịch theo phía phải.
Kết quả là sau một thời gian nước đã làm cho đá bị bào mòn dần.
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá có dòng nước chảy qua. Do hiện tượng xảy ra chậm nên phải thật
sự chú ý chúng ta mới nhận ra điều này. Hiểu được điều này giúp học sinh biết được dụng ý khoa học của câu tục ngữ có từ xa xưa
và làm cho hóa học trở nên rất gần gũi hơn trong cuộc sống đời thường. Giáo viên có thể nêu vấn đề này ở phần “Muối cacbonat
”(Tiết 24 lớp 11 CB) hoặc “Canxi cacbonat”
( Tiết 48 lớp 12).
VẤN ĐỀ 39: Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít muối ăn NaCl ?
Dưới áp suất khí quyển 1atm thì nước sôi ở 100
o
C. Nếu cho thêm một ít muối ăn vào nước thì nhiệt độ sôi cao hơn 100
o
C.
Khi đó luộc rau sẽ mau mềm, xanh và chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín nhanh nên ít bị mất vitamin.
Áp dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì học sinh sẽ không biết. Học sinh dễ dàng làm thí
nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ đó góp phần tạo nên kinh nghiệm nấu ăn cho học sinh, rất thiết thực trong cuộc sống. Giáo viên có thể
nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài “Clo” (Tiết 38 lớp 10CB) hoặc bài “Các hợp chất của natri” (Tiết 46 lớp 12).
VẤN ĐỀ 40: Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn ?
Cồn là dung dịch rượu etylic (C
2
H
5
OH) có khả năng thẩm thấu cao, có thể xuyên qua màng tế bào đi sâu vào bên trong gây
đông tụ protein làm cho tế bào chết. Thực tế là cồn 75
o
có khả năng sát trùng là cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75
o
thì nồng độ cồn quá
cao làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng nhanh hình thành lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thắm vào bên trong nên vi
khuẩn không chết. Nếu nồng độ nhỏ hơn 75
o
thì hiệu quả sát trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế việc dùng cồn để sát khuẩn trước khi tiêm và rửa vết thương trở nên thông dụng. Nhưng để giải thích
được vì sao cồn có khả năng sát khuẩn thì không phải ai cũng giải thích được. Trong bài giảng, nếu học sinh được giáo viên giải
thích thì sẽ rất hứng thú vì hóa học có những ứng dụng rất thực tế và sẽ thêm yêu hóa học. Giáo viên có thể đề cập ở phần ứng dụng
trong bài “Ancol” (Tiết 56-57 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 41: Sherlock Homes đã phát hiện cách lấy vân tay của tội phạm lưu trên đồ vật ở hiện trường như thế
nào chỉ sau ít phút thí nghiệm ?
Lấy một trang giấy sạch, ấn một đầu ngón tay lên trên mặt giấy rồi nhấc ra, sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt đối
diện với mặt ống nghiệm có chứa cồn iốt và dùng đèn cồn để đun nóng ở phần đáy ống nghiệm. Khi xuất hiện luồng khí màu tím
bốc ra từ ống nghiệm, bạn sẽ thấy trên phần giấy trắng( bình thường không nhận ra dấu vết gì) dần dần hiện lên dấu vân tay màu
nâu, rõ đến từng nét. Nếu bạn ấn đầu ngón tay lên một trang giấy trắng rồi cất đi, mấy tháng sau mới đem thực nghiệm như trên thì
dấu vân tay vẫn hiện ra rõ ràng.
Trên đầu ngón tay chúng ta có dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi. Khi ấn ngón tay lên mặt giấy thì những thứ đó sẽ lưu lại
trên mặt giấy, tuy mắt thường rất khó nhận ra.
Khi đem tờ giấy có vân tay đặt đối diện với mặt miệng ống nghiệm chứa cồn iôt thì do bị đun nóng iôt “thăng hoa” bốc lên
thành khí màu tím ( chú ý là khí iôt rất độc), mà dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi là các dung môi hữu cơ mà khí iôt dễ tan vào
chúng, tạo thành màu nâu trên các vân tay lưu lại. Thế là vân tay hiện ra.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của iot trong ngành điều tra tội phạm. Giáo viên có thể đề cập ở phần tính chất
vật lí trong bài “Iot” (Tiết 44 lớp 10 CB) hoặc bài “Lipit (chất béo)”( Tiết 18-19 lớp 12).
VẤN ĐỀ 42: Vì sao ở các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại Kẽm Zn ở phía sau đuôi tàu ?
Thân tàu biển được chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên
biển, thân tàu tiếp xúc thường xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây hư hỏng.
Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang thép của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển.
Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác động của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà phải gắn
tấm kẽm vào đuôi tàu.
Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa. Kẽm là kim loại hoạt động hơn sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát
gì.
Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kì. Việc này vừa đở tốn kém hơn nhiều so với sửa
chữa thân tàu.
Áp dụng: Sự ăn mòn kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa hàng năm gây tổn thất thật nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc
dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những phương pháp chống ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để bảo vệ vỏ tàu
biển như trên rất hiệu quả và được ứng dụng rất rộng rãi. Giáo viên có thể nêu vấn đề sau khi dạy xong bài “ Ăn mòn kim loại”( Tiết
39-40 lớp 12) để cho học sinh giải thích nhằm giúp cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng trong cuộc
sống.
VẤN ĐỀ 43: “Hiệu ứng nhà kính” là gì ?
Khí cacbonic CO
2
trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần những tia hồng ngoại ( tức là những bức xạ nhiệt) của Mặt Trời và
để cho những tia có bước sóng từ 50000 đến 100000 Å đi qua dễ dàng đến mặt đất. Nhưng những bức xạ nhiệt phát ra ngược lại từ
mặt đất có bước sóng trên 140000 Å bị khí CO
2
hấp thụ mạnh và phát trở lại Trái Đất làm cho Trái Đất ấm lên. Theo tính toán của
các nhà khoa học thì nếu hàm lượng CO
2
trong khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì nhiệt độ ở mặt đất tăng lên 4
o
C.
Về mặt hấp thụ bức xạ, lớp CO
2
ở trong khí quyển tương đương với lớp thủy tinh của các nhà kính dùng để trồng cây,
trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó hiện tượng làm cho Trái Đất ấm lên bởi khí CO
2
được gọi là hiệu ứng nhà kính.
Áp dụng: Ngày nay hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính” trở thành một vấn đề có ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Mục đích vấn
đề giúp học sinh biết được nguyên nhân và tác hại của hiệu ứng nhà kính nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Giáo viên có thể
đặt vấn đề này khi dạy phần Cacbon đioxit (Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 44: “Nước đá khô” là gì và có công dụng như thế nào ?
Nước đá khô (hay còn gọi là tuyết cacbonic) được điều chế từ khí CO
2
hoặc CO
2
hóa lỏng. Đây là các tác nhân lạnh ở thể
rắn cung cấp hơi lạnh bằng cách biến đổi trạng thái: đá khô thăng hoa thành hơi, không qua trạng thái lỏng.
CO
2
lỏng, đặc biệt là nước đá khô( không độc hại), được ứng dụng thích hợp để bảo quản những sản phẩm kỵ ẩm và dùng
làm lạnh đông thực phẩm. Dùng đá khô để làm lạnh và bảo quản gián tiếp các sản phẩm có bao gói nhưng có thể dùng làm lạnh và
bảo quản trực tiếp. Chính chất tác nhân làm lạnh này (CO
2
) đã làm ức chế sống của vi sinh vật, giữ được vị ngọt-màu sắc hoa quả.
Đồng thời hạn chế được tổn hao khối lượng tự nhiên của sản phẩm do sự bay hơi từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên men, phân
hủy.
Áp dụng: Bảo quản thực phẩm bằng cồn khô là cách rất tốt hiện nay. Giáo viên có thể hỏi học sinh về ứng dụng của CO
2
khi dạy phần tính chất vật lí của CO
2
(Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 45: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng,
người ta ngửi thấy mùi khai ?
Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ… thì lượng
urê trong các chất hữu cơ này sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy tiếp thành CO
2
và
amoniac NH
3
theo phản ứng:
(NH
2
)
2
CO + H
2
O → CO
2
+ 2NH
3
NH
3
sinh ra hòa tan trong nước sông, hồ dưới dạng một cân bằng động:
NH
3
+ H
2
O
→
¬
NH
4
+
+ OH
-
( pH < 7, nhiệt độ thấp)
NH
4
+
+ OH
-
→
¬
NH
3
+ H
2
O ( pH > 7, nhiệt độ cao)
Như vậy khi trời nắng ( nhiệt độ cao), NH
3
sinh ra do các phản ứng phân hủy urê chứa trong nước sẽ không hòa tan vào
nước mà bị tách ra bay vào không khí làm cho không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp quanh hồ, ao, nhất là vào mùa khô, nắng nóng. Giáo viên có thể nêu vấn đề trong
bài giảng “Amoniac”( Tiết 12-13 lớp 11CB) hay “phân urê” ( Tiết 18 lớp 11CB) nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên này.
VẤN ĐỀ 46: Vì sao chất Florua lại bảo vệ được răng ?
Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất Ca
5
(PO
4)3
OH và được tạo thành bằng
phản ứng:
5Ca
2+
+ 3PO
4
3-
+ OH
-
→
¬
Ca
5
(PO
4)3
OH (1)
Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu răng.
Sau các bửa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic
và axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong miệng tăng làm cho pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra:
H
+
+ OH
-
→ H
2
O
Khi nồng độ OH
-
giảm, theo nguyên lí Lơ-Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo
điều kiện cho sâu răng phát triển.
Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường và đánh răng sau khi ăn.
Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF
2
, vì ion F
-
tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra:
5Ca
2+
+ 3PO
4
3-
+ F
-
→ Ca
5
(PO
4
)
3
F
Hợp chất Ca
5
(PO
4
)
3
F là men răng thay thế một phần Ca
5
(PO
4)3
OH
Ở nước ta, một số người có thói quen ăn trầu, việc này rất tốt cho việc tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong trầu có vôi
tôi Ca(OH)
2
, chứa các ion Ca
2+
và OH
-
làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận.
Áp dụng: Vấn đề sâu răng và phòng ngừa sâu răng được mọi người quan tâm. Nhưng ít ai biết rằng vì sao răng bị sâu và cơ
chế phòng ngừa như thế nào. Học sinh sẽ rất tò mò về vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này trong bài giảng Khái niệm về
pH ( Tiết 5 lớp 11CB) hay ứng dụng của flo ( Tiết 43 lớp 10CB) nhằm giúp cho học sinh có thói quen bảo vệ răng bằng cách đánh
răng sau các bửa ăn.
VẤN ĐỀ 47: Vì sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay?
Ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được đánh răng. Tại sao? Chất chua (tức axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với
những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ và gây tổn thương cho lợi. bởi vậy người ta
phải đợi đến khi nước bọt trung hòa lượng axit trong trái cây: như táo, cam, nho, chanh
VẤN ĐỀ 48: Vì sao dùng đồ dùng bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ?
Khi bạc gặp nước có 1 lượng nhỏ đi vào nước thành ion. Ion bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ 1/5 tỷ gam bạc
trong 1 lít nước cũng đủ diệt các vi khuẩn. không có vi khuẩn phát triển nên thức ăn lâu bị ôi
VẤN ĐỀ 49: Vì sao dùng dao bằng thép cắt lê, táo thì bề mặt chỗ cắt sẽ bị đen?
Trong lê, táo và nhiều loại trái cây có chứa tanin. Tanin còn gọi là axit tanic, nó tác dụng với sắt tạo thành sắt (III) tanat
có màu đen. Tanin có vị chát, quả hồng có vị chát do có nhiều tanin. Tanin tinh khiết là chất bột màu vàng, dễ tan trong
nước. có khi không dùng dao bằng sắt để cắt mà 1 lát sau, chỗ cắt vẫn bị thâm đen là do kết quả của nhiều biến đổi hóa
học. trong phân tử tanin có chứa nhiều gốc phenol, các gốc này rất mẫn cảm với ánh sáng và rất dễ bị oxi hóa bởi oxi
của không khí biến thành các oxit có màu đen. Vì vậy tanin được bảo quản trong các bình thủy tinh sẫm màu. Trong CN
tanin dùng để thuộc da và chế mực màu đen
VẤN ĐỀ 50: Vì sao hơ con dao ướt lên ngọn lửa, con dao có màu xanh?
Đó là do ở nhiệt độ cao sắt tác dụng với nước tạo nên oxit sắt từ Fe
3
O
4
lấp lánh màu lam. Lớp áo màu lam này là tám
màng bảo vệ sắt, làm cho sắt không bị gỉ và không bị ăn mòn
ở các nhà máy người ta đem các chế phẩm bằng thép cho vào dd Natri nitrat hoặc hỗn hợp natri nitrat và natri hiđroxit ở
nhiệt độ 140
0
-150
0
C, sau 1 thời gian nhất định trên bề mặt sẽ sinh ra một lớp mỏng màu lam, sau đó lấy ra và nhanh
chóng cho vào nước lạnh, rồi lại đem xử lý bằng nước xà phòng, dầu nóng mấy phút. Người ta gọi biện pháp này là “tôi
muối”. Các chế phẩm qua tôi muối có tuổi thọ dàu hơn
VẤN ĐỀ 51: Vì sao thủy tinh có màu xanh ?
Do có chứa hợp chất của sắt. nếu chứa hợp chất sắt (II) thì có màu xanh còn chứa hợp chất sắt (III) thì có màu vàng nâu.
Nói chung thủy tinh chứa từ 1-2% sắt thì có màu xanh hoặc màu vàng nâu. Thủy tinh quang học không màu chỉ chứa
không quá 3 phần vạn sắt
VẤN ĐỀ 52: Vì sao thủy tinh lại có thể tự đổi màu?
Việc chế thủy tinh đổi màu cũng tương tự như chế tạo thủy tinh thường, chỉ khác là người ta thêm vào nguyên liệu chế
tạo thủy tinh 1 ít chất cảm quang như bạc clorua hay bạc bromua … và một ít chất tăng độ nhạy như đồng clorua. Chất
nhạy cam làm cho thủy tinh biến đổi nhạy hơn
VẤN ĐỀ 53: Vì sao nước mắt lại mặn?
Nước mắt mặn vì trong 1 lít nước mắt có tới 6 gam muối. nước mắt sinh ra từ tuyến lệ nằm ở phía trên mi ngoài của
nhãn cầu. nước mắt thu nhận được muối từ máu (trong một lít máu có 9 gam muối). Nước mắt có tác dụng bội trơn
nhãn cầu, làm cho nhãn cầu không bị khô, bị xước và vì có muối nên còn có tác dụng hạn chế bớt sự phát triển của vi
khuẩn trong mắt
VẤN ĐỀ 54: Làm mưa nhân tạo như thế nào?
Thông thường ở 0
0
C là nước đóng băng, nhưng trong những đám mây, dù ở -20
0
C các hạt nước nhỏ li ti vẫn ở thể lỏng.
chỉ khi nhiệt độ hạ xuống tới -40
0
C, nước trong đám mây mới kết tinh hoàn toàn. Số lượng tinh thể nước trong mây phụ
thuộc vào các “hạt nhân kết tinh” là các hạt băng cứa trong đó,còn gọi là mâm kết tinh
Các nhà khoa học phát hiện bạc iotua (AgI) có cấu tạo giống các hạt băng nên có thể dùng làm “mầm kết tinh” . chỉ với
1 gam AgI đã tạo ra được từ 10
12
-10
16
trung tâm kết tinh, làm ngưng tụ một lượng nước lớn ở dạng khí tạo ra mưa hoặc
tuyết/
Bạc iotua la một hóa chất rất đắt, vì vậy các nhà hóa học đã nghiên cứu tìm các chất thay thế rẻ tiền hơn đó là chì iotua
(PbI
2
); 1,5-đioxinaftalen; nước đá khô (CO
2
rắn) và nhiều hợp chất hữu cơ
Người ta dùng máy bay để rắc các chất trên vào mây
ờ phương pháp này người ta cứu 1 vụ gieo trồng bị han khi sắp thu hoạch, tăng độ ẩm khi mùa màng bị lâm nguy
có những kỳ olympic mùa đông, người ta đã dùng phương pháp nầy để tăng lượng tuyết lên 10 đến 15%. Nếu tính được
hướng gió và xác định đúng địa điểm rắc hóa chất, có thể làm mưa ở những điểm cháy rừng
Tăng cường tính tích cực phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình học tập là một yêu
cầu rất cần thiết, đòi hỏi người học tích cực, tự lực tham gia sáng tạo trong quá trình nhận thức. Bộ môn
Hoá học ở phổ thông có mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức
về cấu tạo chất, phân loại chất và tính chất của chúng. Việc nắm vững các kiến thức cơ bản góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt đông sản xuất và các
hoạt động sau này.
Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá tôi thấy môn hoá học là môn học rất mới mẻ, rất
khó nhất là với học sinh lớp 8 THCS.
Là năm đầu làm quen với môn học này,học sinh một số em rất lo lắng và còn đang băn khoăn trong
cách học tập môn hoá. Bên cạnh đó hầu hết các em HS thôn bản ý thức học tập kém , lười học buông
xuôi . Đa số HS trong đối tượng này là con gia đình nghèo, bố mẹ đi làm ăn xa, gia đình không quan tâm
đến vấn đề học tập của con em. Phó mặc cho thầy cô và nhà trường.
Các em đa số không có phương pháp học tập môn hoá, và không hiểu môn hoá có tính logic rất cao.
Đối tượng HS này không nắm được kiến thức cơ bản từ đầu năm lớp 8, nên khi tiếp thu kiến thức hiện tại
là rất khó khăn, nếu nắm được chỉ là máy móc.trong khi đó thời gian 1 tiết lên lớp của GV là hạn chế, khó
có thể kèm cặp được. đối tượng này không thể làm thay đổi trong ngày một ngày hai được
Qua những năm đầu như vậy nên khi bước sang năm học lớp 9, các em đã không còn hứng thú học tập với
bộ môn hóa học nữa. Điều đó đã được tôi kiểm chứng qua việc kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm tôi
thấy tỉ lệ HS yếu, kém còn rất cao.
Đặc điểm chung của đối tượng này là :
HS còn xem thường việc học, kiểm tra đánh giá - Do đó ý thức học tập vươn lên kém, luôn có tư tưởng ỷ
lại.
Hơn nữa do nhiều mặt của vấn đề trong nhà trường (có những trường phải yêu cầu giáo viên dạy học
sao cho kết quả cuối năm phải đạt trên 55% học sinh đạt kết quả trung bình nên suy ra giáo viên có những
lúc tự nâng điểm cho học sinh.
Từ những vấn đề trên, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy
học thích hợp với những điều kiện hiện có của học sinh, nhằm phát triển tư duy của học sinh THCS giúp
các em tự lực hoạt động tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển tư duy của
các em ở các cấp học cao hơn góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo của địa phương.
Để qua đó có thể giảm bớt gánh nặng cho những giáo viên bậc THPT như tôi. Vì thực sự là khi dạy
những học sinh mà kiến thức hóa học của cấp 2 không biết gì quả là quá khó đối với chúng tôi
Theo tôi học sinh muốn làm tốt hoạt động này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh
giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để chuẩn bị lên kế hoạch phụ đạo,
thết kế nội dụng tiết phụ đạo sao cho có hiệu qủa nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn cứ ,hiểu và kết
hợp giải quyết được các vấn đề sau:
+ Tìm hiểu tại sao học sinh sợ ,chán ,học yếu kém học môn hóa học và tìm cách giải tỏa tâm lí này ở
một số em.
+ Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự rèn luyện ý thức học tập.
+ Giáo Viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể cho đối tượng học sinh yếu
kém, để đề ra nội dung ,hình thức vàphương pháp dạy thích hợp nhất
Mặt khác giáo viên luôn có sự chuẩn bị chu đáo trước giờ lên lớp : soạn giáo án ,chuẩn bị nội dung
bảng phụ ,phiếu học tập và các thí nghiệm (nếu có) .
+ Giáo viên hướng dẫn kĩ hơn những phần kiến thức khó ,phức tạp ,dễ nhầm lẫn…
+ Giải đáp ngay những nghi vấn của học sinh giúp học sinh xác định chính xác kiến thức.
+ Hướng dẫn học sinh vận dụng vào các dạng bài tập
Chủ đề 5: Phương pháp semina ở trường ĐH-CĐ và phương pháp thảo luận nhóm ở trường THPT. Cách thức tổ chức cho có
hiệu quả. Chọn nội dung về PPDHHH ở trường ĐHSP,CĐSP và chọn một số nội dung thảo luận nhóm ở trường phổ thông
I. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP SEMINA (THẢO LUẬN NHÓM)
1. Khái niệm
Phương pháp semina (thảo luận nhóm) là một trong những phương pháp dạy học cơ bản ở trường đại học, trong đó các sinh viên
trình bày, thảo luận, tranh luận về những vấn đề khoa học nhất định dưới sự điều khiển trực tiếp của người giảng viên rất am hiểu
vấn đề này.
Phương pháp thảo luận nhóm được áp dụng ở trường phổ thông về cơ bản vẫn giống semina nhưng có một chút ít biến đổi để phù
hợp hơn với đặc điểm của học sinh phổ thông.
Semina được xem như một loại bài tập tự học bắt buộc, là khâu thực hành đầu tiên trong đó sinh viên tập dượt và tự nghiên cứu
khoa học. Đây cũng là một trong những hình thức dạy học phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh đang được áp dụng trong
các trường phổ thông, nhất là đối với những trường sử dụng sách giáo khoa mới.
Semina có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Phải có chủ đề khoa học nhất định để sinh viên căn cứ vào đó mà trình bày báo cáo, thảo luận, tranh luận.
- Phải có thầy hướng dẫn, điều khiển.
2. Tác dụng
Giúp sinh viên, học sinh:
a. Học cách suy nghĩ về những vấn đề của môn học.
b. Đánh giá tính logic và quan điểm của người khác và của chính mình.
c. Tạo cơ hội cho sinh viên đưa ra những áp dụng cụ thể cho những nguyên tắc đã học.
d. Nhận thức và phát biểu vấn đề, sử dụng thông tin từ các bài học.
e. Tạo động cơ học tập
f. Đưa ra phản hồi nhanh về sự hiểu hoặc hiểu sai của sinh viên.
Semina là “phòng thí nghiệp sáng tạo”, là vườn ươm của các nhà khoa học trẻ tuổi.
3. Chức năng cơ bản
- Chức năng nhận thức: semina giúp SV-HS mở rộng, đào sâu tri thức, biết cách giải quyết thắc mắc khoa học có liên quan.
- Chức năng giáo dục: SV-HS tự bồi dưỡng cho mình niềm tin khoa học, thói quen làm việc khoa học, khắc phục hạn chế cá nhân.
- Chức năng kiểm tra, tự kiểm tra: Qua semina GV là người trực tiếp điều khiển sẽ có điều kiện để thu được những thông tin ngược
về tình trạng nắm bắt tri thức của SV-HS từ đó uốn nắn điều chỉnh kịp thời, đồng thời tự điểu chỉnh hoạt động giảng dạy của bản
thân cho phù hợp.
4. Tiến hành
a. Chuẩn bị
i. Đối với người dạy: Lập kế semina về nội dung và tổ chức.
ii. Đối với người học
- Lựa chọn và đăng ký đề tài
- Sưu tầm tài liệu tham khảo, trang thiết bị cần thiết
- Dự kiến thời gian đọc tài liệu, viết báo cáo, làm thí nghiệm.
- Những sinh viên sẽ không báo cáo ở semina cũng phải đọc tài liệu tham khảo và chuẩn bị đề cương phát biểu ý kiến và nêu câu
hỏi về vấn đề cần tìm hiểu hoặc bình luận về tài liệu tham khảo.
- Trước khi dự semina, tất cả sinh viên của tổ (nhóm) phải có bản đề cương phát biểu ý kiến, không phải chỉ riêng những sinh viên
có tham luận. Giảng viên có thể kiểm tra hoặc thu các bản đề cương đó.
b. Trình tự một buổi học semina
Nói chung, nên tiến hành semina theo 7 bước sau(1), tuy trình tự có thể thay đổi tuỳ theo đặc điểm đối tượng người học và tuỳ loại
semina.
B
ước
1 2 3 4 5 6 7
người điều khiển người điều
khiển
người điều
khiển
ngư
ời điều
khiển
GV người
điều khiển
GV
C
ông
việc
-kiểm tra sự
chuẩn bị -nhắc
lại mục đích,
định hướng
- công bố
tiến trình, danh
sách, thứ tự các
báo cáo
-Chỉ định
người báo cáo
và người nhận
xét
Thả
o luận-
tranh
luận
-hỗ trợ cho
người điều khiển
(nêu câu hỏi, làm
trọng tài…)
-tóm
tắt báo cáo
và tranh
luận
- Nhận xét,
đánh giá - Nêu 1
số vấn đề mới
cần suy nghĩ
II. CÁCH THỨC TỔ CHỨC CHO CÓ HIỆU QUẢ
1. Các yêu cầu
a. Đối với người dạy
- Phải có đủ trình độ lý thuyết và thực tiễn trong lĩnh vực khoa học của mình
- Phải chuẩn bị chu đáo: lập kế hoạch về nội dung và tổ chức. Nội dung bản kế hoạch bao gồm các mục: tên đề tài, mục đích
semina, thời gian, phân công người điều khiển và thứ ký.
b. Yêu cầu đối với hoạt động của người học
i. Đối với người báo cáo:
- Trình bày trong khoảng 5 – 10 phút.
- Nội dung báo cáo cần thể hiện được 3 yêu cầu: có lý luận, có thực tiễn, có đề xuất được ý kiến mới.
- Trình bày rõ ràng, mạch lạc, ngắn gọn, có minh hoạ
- Trình bày vấn đề bằng cách nêu các câu hỏi rồi sau đó tự giải đáp, chú ý lật ngược vấn đề để nhìn thấy nhiều khía cạnh.
- Nêu ra trước tập thể những điều chưa hiểu rõ hoặc chưa hiểu.
- Đối với những thắc mắc của người nghe, cố gắng suy nghĩ nhanh và sâu để có thể giải đáp hoặc phải ghi nhận sẽ tìm hiểu thêm để
giải đáp.
ii. Đối với người tham gia phát biểu ý kiến
- Chú ý lắng nghe người báo cáo, ghi lại những điểm cơ bản mình đồng ý, không đồng ý hay còn thắc mắc.
- Phát biểu ý kiến ngắn gọn, súc tích, tránh lặp lại nhiều lần, dài dòng.
- Muốn vậy, phải chuẩn bị từ trước, phải có sự chín muồi trong suy nghĩ và đòi hỏi mỗi người phải có quan điểm riêng.
- Khi tranh luận, phải biết bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình, phải tự tin, dũng cảm, nhưng cũng phải bình tĩnh, không được nóng
nảy, phải biết sửa chữa sai sót.
2. Một số chú ý để tăng hiệu suất semina
a. Một số trở ngại thường gặp trong semina và thảo luận
i. Đối với SV-HS
- Có thói quen bị động
- Không hiểu được giá trị của thảo luận
- Sợ chỉ trích và sợ người khác cho là ngu dốt
- Cố gắng làm cho người khác đồng ý trước khi giải quyết các quan điểm cần được đưa ra xem xét.
- Cảm thấy rằng nhiệm vụ là tìm câu trả lời mà giảng viên mong muốn quan trọng hơn việc khảo sát và đánh giá các khả năng xảy
ra.
ii. Đối với GV
- Có xu hướng nói cho sinh viên biết câu trả lời trước khi sinh viên tự mình trình bày câu trả lời và giải thích ý nghĩa.
- Một số giảng viên thường tìm sự nhất trí của sinh viên trong nhóm mà quên rằng sự nhất trí không phải là mục đích của các buổi
thảo luận mang tính chất giáo dục. nhiều tới nội dung các quan điểm khác.
- Áp đảo SV bằng những lời chỉ trích khi có ý kiến đối lập
b. Biện pháp khắc phục
i. Đối với SV-HS
Đối với những SV không tham gia phát biểu
- GV cần cố gắng tạo ra những điều họ có thể mong đợi trong các buổi thảo luận.
- Yêu cầu sinh viên chuẩn bị câu trả lời đầu tiên trong vòng 2 phút. Khi đó những sinh viên nhút nhát sẽ trả lời ngay khi được hỏi
“Em đã viết được gì?”
- Tạo cảm giác thân thiện thoải mái cho những người thỉnh thoảng mới đóng góp ý kiến.
- GV biết tìm hiểu thông tin liên quan về những sinh viên không tham gia vào cuộc thảo luận.
- GV dùng kĩ thuật khơi gợi những kiến thức của sinh viên, từ đó giúp SV vượt qua những trở ngại khi thảo luận ở lớp, như là sợ nói
sai.
- GV có thể đặt sinh viên vào một vị trí thích hợp để không có câu trả lời sai thay vì đặt những câu hỏi chung chung.
- GV đặt một câu hỏi cho lớp trước khi thảo luận và yêu cầu sinh viên viết câu trả lời gồm có một ví dụ về kinh nghiệm bản thân
hoặc có thể yêu cầu sinh viên chuẩn bị một câu hỏi để thảo luận ở lớp.
Đối với sinh viên không đọc bài tập được giao
- Cho sinh viên các câu hỏi vào cuối buổi học trước, yêu cầu sinh viên nắm bắt được thông tin về các câu hỏi trước khi đến buổi học
sau. Có thể giao cho các nhóm sinh viên các nhiệm vụ khác nhau.
- Yêu cầu sinh viên nộp một hoặc nhiều câu hỏi về bài tập trước khi bắt đầu buổi học tới.
- GV hoặc SV tóm tắt những điểm cần thiết hoặc GV cho SV ít phút để đọc qua tài liệu trước khi thảo luận.
ii. Đối với GV
- Nhận thức khả năng phát sinh triệu chứng thất vọng vì những điều SV-HS không nắm chắc đó là vấn đề gì.
- Có nhận thức nhanh nhu cầu của nhóm và cá nhân
- Đưa ra chứng cứ rõ ràng trong khi kết luận buổi semina - Có sự nhiệt tình, thân thiện và quan tâm tới môn học để làm gương cho
SV-HS. Không áp đảo sinh viên bằng những lời chỉ trích khi SV-HS có ý kiến đối lập
iii. Đối với trường hợp có xuất hiện mâu thuẫn
Khi xuất hiện mâu thuẫn, có thể:
- Tham khảo giáo trình hoặc các tài liệu khác
- Sử dụng mâu thuẫn làm cơ sở cho các bài tập của lớp học.
- Nếu có câu trả lời được xác định lại bằng thí nghiệm thì có cơ hội tốt để xem xét lại phương pháp xác định câu trả lời.
- So sánh những chứng cứ của cả 2 quan điểm khi SV tranh luận ý kiến hoặc quan điểm của giảng viên.
- Sử dụng phương pháp hai cột: Khi đặt vấn đề trước khi tranh luận, tất cả các lý lẽ của bên tán thành, không tán thành đều được
viết lên bảng. Hai cột bao gồm tất cả ý kiến mà các thành viên cho là thích hợp và được sử dụng cho việc đánh giá. Khi các lý lẽ
này đã bàn hết các khía cạnh, buổi thảo luận chuyển sang bước tiếp theo trong giải quyết vấn đề.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG SEMINA, THẢO LUẬN NHÓM Ở TRƯỜNG ĐHSP,CĐSP, THPT
Học phần " Phương pháp dạy học hoá học" ở khoa Sư phạm trường Đại Học Đà Lạt được phân bổ 60 tiết. Số lượng sinh viên trong
lớp tương đối ít, khoảng 20-24 người nên việc áp dụng phương pháp semina và thảo luận nhóm rất hiệu quả. Hầu hết nội dung trong
giáo trình dều được áp dụng phương pháp thảo luận nhóm. Riêng phương pháp semina, nội dung “Phương pháp dạy học Hoá học”
và “Bài tập hóa học” đã được áp dụng.
Đối với nội dung “Phương pháp dạy học Hoá học”:
- Ban đầu GV giới thiệu về khái niệm PPDH, PPDH HH. Sau đó SV thảo luận để xây dựng hệ thống tên các PPDH nếu xét theo mặt
bên trong và mặt bên ngoài của phương pháp
- GV chia lớp thành 3 nhóm, phân công chuẩn bị semina theo các chủ điểm:
o Các PPDHHH khi dạy bài mới
o Các PPDHHH khi dạy bài mới
o Các PPDHHH khi bài mới
Mỗi chủ điểm SV được GV hướng dẫn cách khai thác, tài liệu tham khảo. Ví dụ đối với chủ điểm 1 có thể khai triển theo các
hướng:
- Có những PPDHHH nào thường được áp dụng?
- Hình thức áp dụng mỗi PPDHHH đó?
- Ưu, nhược điểm, yêu cầu của từng PPDHHH?
- Khó khăn và biện pháp khắc phục khi thực hiện từng PPDH ở trường THPT hiện nay tại Việt Nam, tại địa phương
- Ví dụ minh hoạ về một nội dung nhỏ trong sách giáo khoa ở chương trình THPT…
Các nhóm SV được chuẩn bị trong 7-10 ngày. Trước buổi báo cáo 2 ngày, mỗi nhóm SV nộp lại bài báo cáo cho GV, đồng thời chụp
bài báo cáo cho các thành viên trong lớp đê đọc, tham khảo, đồng thời chuẩn bị câu hỏi thảo luận cho buổi semina.
Trong buổi semina, trưởng nhóm là người điều khiển, các thành viên trong nhóm lần lượt báo cáo các nội dung trong chủ điểm
trong khoảng thời gian giới hạn. Sau đó cả lớp thảo luận, tranh luận về vấn đề vừa báo cáo. GV chỉ theo dõi, hỗ trợ khi cần thiết,
đồng thời nêu nhận xét đánh giá cuối buổi semina.
GV đánh giá mức độ tham gia (chuẩn bị semina, báo cáo, tranh luận) của mỗi SV sau các buổi semina và sử dụng làm một phần căn
cứ để tính điểm cuối học phần.
Kết quả: Sau 2 đợt semina ở 2 nội dung trên, hầu hết SV đều tích cực tham gia. SV phần nào đã có thói quen hợp tác nhóm, tự
nghiên cứu, rèn luyện kỹ năhng phát hiện và giải quyết vấn đề. Khả năng diễn đạt trước đám đông cũng được cải thiện.
Học viên thực hiện: Thái Hoài Minh
Lớp LLDH-PPGDHH
PHƯƠNG PHÁP HỢP TÁC THEO NHÓM:
I . Đặt vấn đề
Với cách dạy học truyền thống (bài giải mẫu – bài tập trên lớp – bài tập về nhà –sửa bài và rút kinh nghiệm) của giáo viên từ trước
đến nay chỉ áp đặt học sinh mà chưa phát huy hết được tư duy của học sinh bởi học sinh thường chỉ làm theo các khuôn mẫu .
Vậy để phát huy được khả năng tư duy của học sinh cũng như phát huy đựơc nhiều kĩ năng của học sinh (giao tiếp, trình bày một
vấn đề, phát triển kĩ năng nghe, nói, thảo luận, đọc viết …) thì phải đặt học sinh vào trong tình huống , môi trường, taị đó chính học
sinh là người chủ động nêu ra những ý kiến của mình. Và qua đó các em có cơ hội để bộc lộ những khả năng, kiến thức và học hỏi
không chỉ ở thầy, cô mà còn ở bạn bè. Trong phương pháp “Hợp tác theo nhóm” dưới đây sẽ giúp các em bộc lộ được những khả
năng đó.
II. Các bước tiến hành
Nhóm là phương tiện để học sinh làm việc với nhau qua đó giáo viên có thể đánh giá học tập của cả nhóm .
Dạy hợp tác theo nhóm dựa trên sự hoạt động của các nhóm gồm 4-5 học sinh với trình độ khác nhau nhưng cùng phải hoàn thành
các nhiệm vụ cụ thể, để thực hiện mục đích học tập trung. Điều quan trọng là với phương pháp này các học
sinh sẽ cùng nhau khám phá kiến thức mới dưới sự chỉ đạo của giáo viên .
Các bước tiến hành như sau
1. Hoạt động của giáo viên
B1: thành lập nhóm học sinh một cách ngẫu nhiên và nhóm này gọi là nhóm gốc.
B2: phát cho mỗi thành viên trong nhóm một phần của nội dung bài dạy.
Thông báo thời gian dành cho học sinh tự làm, tư tìm hiểu.
B3: Thành lập nhóm có cùng nội dung của bài dạy để cung nhau thảo luận .Lần lượt theo dõi sự thảo luận trong các nhóm để có
những gợi ý, định hướng trọng tâm kiến thức cho các nhóm mới này.
B4: Tái thành lập nhóm gốc giúp học sinh thảo luận với thời gian cho phép.
B5: Phát cho mỗi học sinh một bài kiểm tra về kiến thức của bài học. Đảm bảo tính nghiêm túc trong kiểm tra.
B6: Tính điểm của từng học sinh và điểm của từng nhóm.
2. Hoạt động của học sinh
Với phương pháp dạy như vậy thì học sinh phải làm là.
+ Tham gia vào các nhóm.
+ Tự nghiên cứu nội dung bài được phát.
+ Thành viên từ các nhóm khác nhau có chung chủ đề gặp nhau để thảo luận trong nhóm mới. Sau khi thảo luận, các thành viên tập
luyện cách trình bày những kiến thức vừa nghiên cứu cho nhóm gốc mình.
+ Các thành viên trở về nhóm gốc của mình và lần lượt trình bày lại những nội dung kiến thức mà mình tiếp thu được qua tự nghiên
cứu và thảo luận trong nhóm mới.
+ Làm bài kiểm tra nghiêm túc.
3. Cách chấm điểm
Để thực sự kích thích được hoạt động học tập của học sinh thì việc kiểm tra và chấm điêm đánh giá là không thể thiếu.
Cách chấm điểm được thực hiện như sau:
Cách tính điểm của cả nhóm dựa trên thang điểm mười. Trước hết theo kết quả học sinh đạt được qua bài kiểm tra cá nhân, giáo
viên tình điểm tiến bộ của học sinh dựa trên điểm trung bình hoặc điểm của bài kiểm tra gần nhất gọi là điểm nền như sau.
Điểm bài kiểm tra Điểm tiến bộ
Thấp hơn điểm nền từ 3 điểm trở lên 0
Thấp hơn điểm nền từ 1 đến 2 điểm 1
Hoặc trên điểm nền từ 1 đến 2 điểm 2
Cao hơn điểm nền từ 3 điểm trở nên 3
Điềm tuyệt đối không tính đến điểm nền 3
Trung bình cộng của các cá nhân trong nhóm sẽ là điểm của cả nhóm . Điểm của cả nhóm là cơ sở cho việc động viên nhóm
hoạt động tích cực hơn trong các hoạt động sau
Ưu điểm:
+ Dễ sử dụng với các kiến thức lý thuyết phức tạp, đây là cách tốt nhất giúp giáo viên giảm thiểu thuyết trình mà lại đưa người học
vào thế chủ động tìm tòi kiền thức, sử dụng được với tất cả các cấp học, bậc học khác nhau, phát huy được tính tích cực của học
sinh, phát huy được nhiều kĩ năng của người học (giao tiếp, trình bày một vấn đề, lãnh đạo nhóm, phát triển kĩ năng nghe, nói, thảo
luận, đọc, viết … )
+ Phát huy thái độ tích cực trách nhiệm cao trong giúp đỡ bạn học vì một nhóm học tập đoàn kết.
Học sinh sẽ nhận biềt được kết quả học tập của mình theo tưng chương từng phần để chỉnh đốn cách học kịp thời.
+ Kết quả công băng, khách quan định lương tốt.
+ Với mỗi bài kiểm tra đánh giá như vậy nhằm phản hồi cho học sinh học tập của các em động viên tinh thần thái độ học tập. Đánh
giá còn phản hồi cho giào viên biết tình hình học tập để kịp thời điều chỉnh bài giảng.
+ Tuy nhiên : giáo viên cần lưu ý các điểm sau :
+ Lựa chọn các nội dung phù hợp với phương pháp (dễ chia các kiến thức tương đương để đọc, trao đổi).
+ Thiết kế phiếu tương đương phù hợp.
+ Có thể giữ nguyên như tài liệu nguồn (sách giáo khoa, tài liệu tham khảo) hoặc tóm tắt các ý chính, thiết kế một bài kiểm tra phù
hợp.
Với phương pháp này có thể tiến hành trong một tiết học hoặc một số tiết.
III. Vận dụng
Trong một tiết học.
Tóm tắt tiến trình bài giảng
+ Mở đầu: Đặt vấn đề về cái sẽ nghiên cứu
+ Thân bài: (B1, B2) giáo viên dựa vào sĩ số của lớp để chia lớp thành các nhóm sao cho phù hợp. Giả sử có thể chia lớp thành năm
nhó, mỗi nhóm năm học sinh. Phát mỗi thành viên một phiếu các câu hỏi (các câu hỏi phù hợp với nội dung của bài học ví dụ P1:
câu hỏi lựa chọn, P2: câu hỏi đúng sai, P3: câu hỏi ghép nối, P4: câu hỏi điền vào chỗ trống, P5: câu hỏi viết luận ).B3 :tách các
nhóm gốc để tạo thành các nhóm mới (gồm năm nhóm về câu hỏi đã nêu mỗi nhóm năm học sinh, các thành viên thảo luận và
chuẩn bị cách trình bày kiến thức cho nhóm gốc và sự trợ giúp của giáo viên. B4: Tái thành lập nhóm gốc để học sinh trong nhóm
chia sẻ kiến thức. Kết thúc (B5) kiểm tra kiến thức các học sinh bằng bài viết ngắn, (B6) :tính điểm cá nhân và điểm toàn bộ của
nhóm.
Trong khi chỉ đạo học tập theo nhóm cần lưu ý.
+ Cần tập dượt cho học sinh cách thực làm việc tập thể có giao lưu ý kiến, có phân công phân nhiệm. Cần gây động cơ cho học sinh
đối với cách làm việc này bằng cách cho học sinh thấy rõ đây cũng là cách thức làm việc thường diễn ra trong thực tế
+ Cần thay đổi vai trò của học sinh, thay đổi phân công phân nhiệm để tập cho một học sinh có thể thực hiện nhiều chức năng khác
nhau, co thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau.
+ Cần gây cho mọi thành viên trong nhóm có ý thức và thói quen tự kiểm tra va rút kinh nghiệm trong hoat động .
////////////////////////////
Học bằng phương pháp “tĩnh tâm”
Theo Vietimes
Khi chuông reo vào lớp, tất cả những học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Piedmont Avenue ngồi vào chỗ, nhắm mắt, đan 2 tay
vào nhau, dần dần thả lỏng người, cố gắng điều hoà nhịp thở của mình và cố gắng tưởng tượng ra mình đang ở trong một sân
chơi thể thao.
“Tớ chơi bóng chày rất kém, hầu như lúc nào cũng thua”, Alex Menton, 11 tuổi đã nói với các bạn cùng lớp của mình như vậy
và cậu bé kết luận “chơi thể thao trong tưởng tượng thật là lý thú”.
Khi mùa hè đến, học sinh ở hầu hết các trường học trên đất nước này cố gắng học thật sự như trong năm học. Và phương pháp
học giống với cách “ngồi thiền” hay còn gọi là học bằng phương pháp “tĩnh tâm” được kế thừa phương pháp ngồi thiền của đạo
Phật đã rất được ưa chuộng.
Phương pháp ngồi thiền hay tĩnh tâm rất phổ biến đối với những bệnh nhân trong bệnh viện, hay các nhà thi đấu thể thao,
nhưng đó lại là một phương pháp mới đối với giáo dục trẻ em. Một số ít trường học ở Oakland và Lancaster đã dạy cho học
sinh tập yoga từ 5 năm trước và đang dần dần áp dụng phương pháp “ngồi thiền” vào quá trình dạy và học. Một số khoa như
khoa tâm lý thuộc trường Đại học Standford và trung tâm nghiên cứu quá trình dạy học bằng phương pháp “tĩnh tâm” thuộc
trường Đại học California, Los Angeles cũng đang cố gắng áp dụng phương pháp này.
Trong 5 tuần thí điểm tại trường tiểu học Piedmont Avenue, cô Megan, người hướng dẫn học sinh cách học theo phương pháp
tĩnh tâm đã đến mỗi lớp hai lần một tuần, mỗi lần 15 phút để chỉ cho các em cách điều hoà nhịp thở và giữ nguyên thân người
một cách ngay ngắn mà không bị mỏi mệt.
Để thực hiện được phương pháp học này thì học sinh phải chú ý nhiều nhất đến việc điều hoà nhịp thở của mình, sau đó thả
lỏng người và sau đó bắt đầu nghĩ đến một việc gì đó. Phương pháp này bắt nguồn từ ông Jon Kabat-Zinn, một nhà nghiên cứu
sinh học và cũng là người đầu tiên áp dụng nó tại trường Đại học Massachusetts năm 1979. Mục đích của ông khi nghiên cứu
phương pháp “tĩnh tâm” là để giúp các bệnh nhân đối phó với các căn bệnh kinh niên, hay giúp mọi người thoát khỏi sự lo lắng
và sự chán nản. Bà Susan Kaiser Greenland, người sáng lập nên tổ chức nghiên cứu về “sự phát triển của tâm hồn trẻ thơ” đã
dạy cho các học sinh và giáo viên ở Los Angeles phương pháp dạy và học gọi là “phương pháp tĩnh tâm hướng tới sự cân bằng
trong cuộc sống”.
Ở Đại học Stanford, khoa Tâm lý học đang tiến hành rất thành công việc dạy cho các gia đình cách thực hiện phương pháp
“tĩnh tâm”. “Các bậc phụ huynh và giáo viên phải nhắc nhở trẻ 100 lần một ngày về một việc gì đó để trẻ biết cách lưu tâm,
nhưng tuyệt đối không được chỉ cho chúng phải làm như thế nào”, ông Phillippe R. Goldin, một người nghiên cứu về phương
pháp này đã phát biểu.
Thực nghiệm được tiến hành tại trường tiểu học Piedmont, nơi có 65% tổng số học sinh là người da đen, 18% người Châu Mỹ
Latinh, còn lại là một số lượng lớn học sinh là người nhập cư. Cuộc thí nghiệm này được tiến hành dưới sự tài trợ của trường
Park Day, một trường tư thục. Một giáo viên đã đã reo lên thích thú: “Đây sẽ là một việc làm khá hấp dẫn góp phần mang đến
một phương pháp dạy và học lý thú hơn cho các trường trong thành phố”.
Bà Angela Haick, hiệu trưởng trường tiểu học Piedmont Avenua nói rằng bà đã cố gắng cho giáo viên và học sinh làm quen với
phương pháp dạy và học này sau khi đã quan sát một lớp học của một trường ngoại ô áp dụng nó”.
“Nếu chúng ta cho rằng phương pháp này có thể giúp các em học sinh tránh được căng thẳng và suy nghĩ tích cực hơn thì chính
bản thân chúng phải là người biết rõ câu trả lời hơn ai hết”, bà Haick phát biểu.
Cách học này không phải lúc nào cũng gây được hứng thú. Các học sinh lớp 5 do cô Graham làm chủ nhiệm đã cố gắng hết sức
để chú tâm vào việc điều hoà nhịp thở và giữ mình ở tư thế thả lỏng trong vòng 20 giây. Sau đó người huấn luyện viên sẽ yêu
cầu chúng chuyên tâm nghĩ đến lòng thương đối với con người bằng cách nghĩ đến sự thay đổi tình cảm của chính bản thân
mình khi mắng mỏ ai đó. Thật là khó!
Tyran Williams, một học sinh của trường đã xác định “phương pháp tĩnh tâm suy nghĩ không phải là phương pháp gây tổn
thương người khác bằng lời nói”.
“Nó không biết làm gì để khiến não làm việc, nhưng một ngày sau khi trở về từ trường nó đã nói với tôi “mẹ ơi con đã có thể
bắt não làm việc theo ý con được rồi”. Nếu trẻ em thực sự suy nghĩ về những gì đang diễn ra xung quanh thì chứng tỏ phải có
cái gì đấy đã tác động vào chúng”, bà Towana Thomas mẹ của Tyran Williams nói.
Khi yêu cầu học sinh nghĩ về tiếng vỡ của một cái bát, Yvette Solito, một học sinh lớp 3 đã viết về những gì mà cô bé cảm thấy
“nó giống một tiếng gì đó phát ra từ chiếc đàn piano”, còn bạn cùng lớp cô bé là Corey Jackson viết rằng “nó giống như tiếng
đập cánh của một con chim khi chui ra khỏi tổ”. Thật kì lạ!
Giáo sư vật lý ở Palo Alto thuộc bang California, ông Amy Saltzman đã bắt đầu nghiên cứu hoạt động “ học bằng phương pháp
tĩnh tâm” từ 3 năm trước và ông nghĩ nó như là phương pháp “yoga biết nói”
Ông Saltzman cũng là người đứng đầu công trình nghiên cứu về phương pháp “học bằng tĩnh tâm” của trường Đại học Stanford
và những nghiên cứu đầu tiên của ông cho thấy cách học này có khả năng điều chỉnh suy nghĩ của trẻ và giảm đi những suy
nghĩ tiêu cực trong tâm hồn chúng.
Bà Susan L. Smalley, một giáo sư tâm lý thuộc trường Đại học California và là giám đốc trung tâm nghiên cứu về phương pháp
“tĩnh tâm” khu vực này cũng đồng ý với quan điểm trong công trình nghiên cứu của ông Saltzman mang lại. Bà kể, có một cô
bé 4 tuổi (đã được làm quen với phương pháp học này) khi thấy mẹ mình tỏ ra rất giận giữ với việc bị mắc kẹt giữa một rừng
người vì ách tắc giao thông đã nói với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy thở thật sâu và hát một bài, mẹ sẽ thấy đỡ hơn đấy!”. Thật đáng
ngạc nhiên và thú vị đấy chứ!.
Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây của ông Kaiser Permannente ở bang California lại cho thấy việc trầm ngâm suy nghĩ làm
cho các em học sinh trở nên rối trí, suy nhược hoặc có thể mắc các chứng bệnh biếng ăn hay cuồng ăn.
“Thỉnh thoảng rất nhiều học sinh bình thường cũng có những lúc “vô tình” học bằng phương pháp “tĩnh tâm” mà họ không biết,
thực ra đây không phải là cái gì đó … kì diệu”, bà Diana Winston, giám đốc trung tâm giáo dục bằng phương pháp tĩnh tâm
trường Đại học California đã phát biểu. Tuy nhiên bà cũng nhấn mạnh thêm rằng phương pháp này thực sự chưa được khả thi
lắm. Nó không cho chúng ta thấy một cách rõ ràng là nó có ảnh hưởng tốt như thế nào đến trẻ em và những tổn thương mà các
em có thể gặp phải. “Nếu chỉ là cách học mà học sinh sau khi nghe chuông reo vào lớp, ngồi vào bàn và thực hiện phương pháp
này thì chưa chắc đã làm cho tâm hồn chúng phát triển tích cực”, bà nói.
Glenn Heuser, giáo viên dạy lớp 4 và lớp 5 trường tiểu học Piedmont kể, có một học sinh khóc oà lên trong lớp vì nghe tin bà
nội mất và một học sinh khác cũng khóc theo vì thương bạn. “Đây cũng là một cách để chia sẻ, cách để thể hiện lòng yêu
thương con người của các học sinh”.
Mặc dù phương pháp này còn gặp nhiều tranh cãi nhưng các trường học thuộc các bang miền Tây nước Mỹ đã áp dụng cho
việc dạy và học ở 25 lớp của 8 trường. Hầu hết các trường học này đều thuộc các bang có nền kinh tế kém phát triển với 75%
học sinh khó khăn lắm mới có thể đến trường và thường được trợ cấp bữa ăn trưa.
Cô Midge Kinder, một giáo viên dạy Yoga và chồng cô ấy, Rick cho biết họ đã sử dụng phương pháp “tĩnh tâm” vào việc dạy
Yoga từ 6 năm trước tại trường tiểu học George Ross và con gái của họ cũng được học theo phương pháp này.
Bà Camille Hopkins, hiệu trưởng trường thì rất hoài nghi hiệu quả của việc này. Sinh ra và lớn lên ở phía bắc Philadenphia, “tôi
chưa bao giờ được dạy là phải điều hoà nhịp thở của mình một cách đều đặn là tốt”, bà Hopkins khẳng định.
Tuy nhiên, bà thừa nhận là ngày nay học sinh phải chịu rất nhiều sức ép đặc biệt là nỗi lo sợ về tình hình bạo lực trong xã hội.
“Hàng loạt các vấn đề chúng ta xem trên ti vi là một phần trong cuộc sống của chúng ta. Nếu ai đó có chuyện gì đó thật quan
trọng thì họ phải đau đầu cả tuần”, bà nói.
Khi quan sát hành vi đối xử của trẻ đối với các biện pháp xử phạt được áp dụng một cách máy móc ở trường bà Hopkins đã tỏ
ra nghi ngờ: “Liệu bạn có thực sự thay đổi thái độ theo hướng tích cực nếu chỉ ngồi yên một chỗ?”.
Yolanda Steel, giáo viên dạy lớp 2 trường Piedmont bày tỏ cô thật sự mong muốn phương pháp này sẽ giúp cho các thế hệ trẻ
có được sự tập trung cao, điều khiển suy nghĩ theo hướng tích cực vì theo cô “trẻ em Mỹ suy nghĩ quá nhiều”.
Tuy nhiên cô cũng lưu ý rằng không phải lúc nào và bất cứ ở đâu cũng áp dụng được phương pháp này một cách tốt nhất. Có
nhiều học sinh khi trống báo vào lớp thì thực hiện một cách nghiêm túc các động tác của phương pháp này nhưng một số khác
lại lấy bút chì gõ liên tục lên bàn thay vì phải nhắm mắt và suy nghĩ. Thật là khó để quản lý được suy nghĩ của các em, thậm chí
cả phương pháp này cũng chưa làm được điều đó
//////////////////////
XI MĂNG VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Posted on January 4, 2008 by camthach
1. Xi măng ống thép và xi măng cốt thép
• Do chịu chấn động tốt nên bê tông ống thép được sử dụng cho các công trình xây dựng ở vùng hay xảy ra động
đất.
• Ngày nay, bê tông cốt thép đã dần thay thế các kết cấu thép đơn huyền. Bê tông cốt thép có thể chịu được sóng
gió, thủy triều, hải lưu, chịu được nhiệt độ thấp, không bị nước biển ăn mòn. Vì vậy người ta thường dùng bê tông cốt
thép cho các công trình xây dựng dưới biển
• Con người còn có ý định dùng bê tông cốt thép để chinh phục không trung.Nhật Bản đã dùng dây thép tạo thành
khung hình cầu , sau đó trát xi măng lên, rồi bơm đầy khí heli. Nếu như nối liền 8 quả cầu đó lại với nhau, nó có thể cẩu
được một vật nặng 100 tấn.
2.Xi măng sinh học - vật liệu tái tạo xương mặt rẻ và an toàn
• Những bệnh nhân bị biến dạng gương mặt do mất xương sau tai nạn có thể phục hồi dung nhan của mình nhờ một
vật liệu tạo hình mới: endurance bone cement. So với những vật liệu khác, nó ít gây biến chứng, lại rẻ và an toàn hơn.
• Từ năm 2003, Bệnh viện Chợ Rẫy bắt đầu sử dụng endurance bone cement (EBN)
.• Đến nay, đã hơn 30 bệnh nhân có di chứng vỡ sụp khối mũi trán, hốc mắt, xương hàm trên… được điều trị bằng
vật liệu.
• Chi phí dùng EBN thấp hơn nhiều so với các vật liệu khác như titanium, cobalt chromium alloy… Hơn nữa, phần
bột và dung môi của nó có thể dễ dàng chia nhỏ, sử dụng được cho những ca tạo hình thể tích nhỏ nên đỡ lãng phí và
tốn kém.
3.Chữa bệnh đau lưng bằng xi măng
• Các nhà khoa học Singapore đã tìm ra một biện pháp hữu hiệu làm lành các vết rạn nứt trên đốt sống bằng xi
măng sinh học. Dụng cụ cần cho cuộc phẫu thuật là một xi lanh, một kim tiêm, một lượng nhỏ xi măng sinh học, một
lượng thuốc gây mê và giảm đau vừa đủ cho 3 ngày. Mỗi ca phẫu thuật chỉ kéo dài 1 giờ. Khi bệnh nhân tỉnh lại cũng là
lúc xi măng đã gắn cố định vào vết rạn.
• Xương của những người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ, ngày một mỏng hơn do chứng loãng xương. Một số
trường hợp xương trở nên quá giòn, dễ gãy đến nỗi khi hoạt động mạnh, 1-2 đốt xương sống sẽ bị rạn nứt. Cho đến nay,
giải pháp duy nhất đối với các trường hợp rạn đốt sống là dùng thuốc giảm đau và nghỉ ngơi. Nếu có tiến hành phẫu
thuật thì tỷ lệ rủi ro cũng rất cao. Lý do là các vết nứt thường xuất hiện ở mặt trước xương sống, phía trong khoang
bụng. Nếu mổ từ phía lưng, các bác sĩ phải làm gãy một số xương và đẩy các bộ phận trong khoang bụng sang một bên
để tạo khoảng trống cho hoạt động giải phẫu.
• Phương pháp điều trị bằng xi măng sinh học khắc phục được hoàn toàn những nhược điểm này. Nhờ công nghệ
X-quang hiện đại, các chuyên gia giải phẫu có thể xem xét toàn bộ phần trong của cơ thể. Sau khi xác định vết nứt mà
không làm ảnh hưởng đến các dây thần kinh dọc xương sống cũng như các bộ phận trong khoang bụng, họ tiêm một
lượng nhỏ xi măng để gắn vết rạn. Sau khi gắn kết, xi măng sẽ là phần đệm đỡ phần xương bị nứt. Thành công của
phương pháp này có thể giúp cho hàng trăm người già thoát khỏi sự hành hạ của bệnh đau lưng mỗi năm.
• Đã có 36 ca phẫu thuật theo hướng này được thực hiện thành công ở Singapore. Gần đây nhất là cụ bà Tim
Woon Yee 91 tuổi, được 2 bác sĩ Goh và Tsou phẫu thuật. Bác sĩ Tsou cho biết nếu không tiến hành phẫu thuật, vết nứt
sẽ lớn dần, gây cong xương, khiến cho bệnh nhân bị gù và vẹo xương. Ngoài ra nó còn gây khó thở và tổn thương hệ hô
hấp.
14/59/2006 Uran tự nhiên có 3 đồng vị: U-238, U-235, U-234. Các đồng vị uran là nguyên tố phóng xạ. Hạt nhân của
nguyên tố phóng xạ là không bền, có nghĩa là chúng biến đổi thành nguyên tố khác
- hạt nhân Pc-234. Hạt nhân Pc-234 lại phân rã beta để trở thành hạt nhân U-234. Quá trình phân rã sẽ tiếp tục thông qua các
phân rã anpha, beta và cuối cùng kết thúc ở đồng vị bền chì (Pb-206)
- Tính chất quan trong của nó là chế tạo vũ khí hạt nhân và phát triển điện hạt nhân là ở khả năng phân chia thành các mảnh nhẹ
hơn của nó hay bị bắn phá bởi các nơtron và kèm theo là việc giải phóng năng lượng
Các lò phản ứng hạt nhân sử dụng uran dưới dạng đioxit uran (UO
2
) hoặc dưới dạng uran kim loại. vũ khí hạt nhân sử dụng
uran kim loại. phần lớn các lò phản ứng dân và trong quân sự sử dụng uran có độ giàu đồng vị U-235 cao hơn so với uran tự nhiên.
Quá trình làm tăng lượng U-235 một cách tương đối so với U-238 được gọi là quá trình làm giàu. Lượng thải sinh ratừ quá trình làm
giàu chính là các Uran nghèo. Người ta gọi là uran nghèo bởi vì chúng bị lấy đi phần lớn U-235
- Tính chất của Uran nghèo: có độ phóng xạ bằng 40% so với uran tự nhiên. Uran nghèo là là vật liệu có giá thành thấp và sẵn
có, nhờ mật độ cao (19,05 g/cm
3
, lớn hơn 1,7 lần mật độ của chì là 11,35 g/cm
3
)và số nguyên tử cao (Z = 92) nên uran nghèo có thể
làm vật liệu che chắn bức xạ rất tốt, mật độ cao giá thành thấp nên trở thành vật liệu trong chế tạo máy bay (Boeing 747 cần khoảng
1500 kg uran nghèohoặc Volfram), hay là vật liệu để chế tạo vỏ xe bọc thép quân sự và đầu đạn chống xe bọc thép. Đầu năm 1970
quân đội Mỹ bắt đầu nghiên cứu sử dụng uran nghèo kim loại làm đầu đạn đâm sâu vào vỏ xe tăng. Bề mặt của đầu đạn đâm sâu
bằng uran nghèo sẽ nóng chảy khi va chạm (đặc biệt với thép), khi xuyên qua có thể làm cho xe cháy, và nó cũng được dùng để tăng
cường bảo vệ vỏ bọc thép của xe tăng. Khi sử dụng người ta đưa uran nghèo giữa hai lớp vỏ bọc thép của xe và sau đó hàn kín lại vì
vậy mà nó đã được lựa chọn vì có sẵn và dễ cháy nên đầu đạn của nó cọi như rất sắc bén
Ảnh hưởng sức khỏe: Uran nghèo thoát ra từ vũ khí bị cháy dưới dạng hạt nhỏ, hạt bụi mà con người hít phải hay ăn phải hoặ
chúng tồn tại trong môi trường và phát ra bức xạ … gây hại cho sức khỏe nhất là bệnh máu trắng và các dạng ung thư khác
Trà: 16/59/2006
Thành phần dinh dưỡng của trà hàm lượng vitamin C và một số chất khoáng khác (protein, axit béo, chất khoáng vì vậy khi
uống nhay luôn bả trà thì tốt hơn
Gần đây người ta còn phát hiện nước trà xanh có khả năng tiêu hủy tế bào ung thư. Allan Conney, viện đại học New Jersey
(Mỹ) cho biết: trong số chuột đã được cạo sạch lông, tiếp xúc với tia tử ngoại (UV) với liều lượng cao gấp 20 lần. Sau đó, được xoa
lên mọt dd trà xanh có chứa cafeine và gallate d’épigallocathecine (GEGC), thì so với lô chuột đối chứng chỉ có 30% bị ưng thư
Còn có thể bảo vệ thị lực: vì chất tím võng mạc trong mắt là do vitamin A hợp thành. Khi nhìn lâu, xem tivi chất này bị tổn hao,
nếu không bổ sung kịp thời bằng 1 lượng vitamin A thì sẽ làm giảm thị lực. Ngoài ra có tác dụng trừ những chất phóng xạ trong con
người
Các loại trà:
Trà xanh: là loại trà không qua quá trình lên men. Búp chè hái xong được sao nhanh qua lửa, khi pha trà có màu xanh nên gọi là
trà xanh
Trà đen: búp chè được ủ lên men, nước có màu hung đỏ, vị thơm dịu
Trà lipton: Búp sau khi sao, tiếp theo cho lên men đầy đủ trong 1 thời gian. Có 4 laọi trà lipton: táo, nho, cam, phật thủ
Ôlong: chỉ qua 1 nữa công đoạn lên men, được phân làm ba loại trà có mức lên cao thấp hay vừa
- Là ché, ngoài tính có hương, chất kích thích (cafein) còn chứa lượng đáng kể tanin (từ 6-12% có khi lên 20%) chất qua chế
biến có vị chát
Chè đắng: là loại cây cổ thụ mộc hoang dã trên núi cao ở Cao Bằng, cây tới 33 m, đường kính thân to từ 60-120 cm. ngoài ý
nghĩa thảo dược quý hiếm, với hương thơm đặc biệt, vị đắng sau ngọt mãi … trong là có tới 16 axit amin chiếm 55,92% thành phần
của lá. Với 5 nhóm chất: saponintritecpen, flavonoi, axit hữu cơ, polyssa charid, carotenoid có trong lá có tác dụng sinh học: tăng
cường miễn dịch, giảm mỡ, giảm cholesterol, điều hòa huyết áp, an thần, giải rượu, ngủ tốt …
ĐỐ VUI VỀ AXIT
Posted on January 16, 2008 by camthach
ĐỐ VUI HÓA HỌC
1. Axit gì nhận biết
Bằng quì tím đổi màu
Thêm vào bạc nitrat
Tạo kết tủa trăng phau?
2. Axit gì cùng sắt
Tạo muối sắt hai, ba
Tùy điều kiện dung dịch
Còn làm sắt trơ ra?
3. Axit gì làm tan
Cả kim loại bạc đồng…
Phi kim photpho than
Dù dung dịch đậm nhạt?
4. Axit gì đứng đầu
Trong dãy chất đồng đẳng
Có trong kiến vàng nâu
Đốt đau ran buốt nóng?
5. Axit gì bạn ơi
Lên men từ rượu nhạt
Thiếu nó xin đừng mời
Những món ngon: nem, chả?
6. Axit gì em nhỏ
Ba anh lớn cùng chị
Thân mang Clo nguyên tử
Hơn kém một oxi?
7. Axit gì tinh thể
Đun nóng lại chuyển mình
Loại dần phân tử nước
Đổi sang dạng thủy tinh?
8. Axit gì không bền
Có tên không thấy mặt.
Điều chế muối cho kiềm
Cùng oxit tương tác?
9. Axit gi tan nhiều
Tính axit tình khử
Cả hai cùng mạnh đều
So những chất cùng họ?
10. Axit gì gốc no
Phân tử hai nhóm chức
Ứng dụng điều chế tơ
Trùng ngưng cùng chất khác?
1.Axit gì nhận biết
Bằng quỳ tím đổi màu
Thêm vào bạc nitrat
Tạo kết tủa trắng phau.
2. Axit gì cùng sắt
Tạo muối sắt hai, ba
Tùy điều kiện dung dịch
Còn làm sắt trơ ra.
3. Axit gì làm tan
Cả kim loại bạc, đồng
Phi kim photpho, than
Dù dung dịch đậm nhạt.
4. Axit gì không bền
Có tên, không thấy mặt
Điều chế muối cho kiềm
Cùng oxit tương tác.
5. Axit gì có tên
Thông thường thì không gọi
Tính chất bạn đừng quên
Là axit rất yếu!
6. Axit gì mà béo
Không no nữa mới hay
Thủy phân dầu vừng, lạc
Thu được axit này.
7. Axit gì em nhỏ
Ba anh lớn cùng chị
Thân mang clo nguyên tử
Hơn, kém một oxi?
8. Axit gì tan nhiều
Tính axit, tính khử
Cả hai cùng mạnh đều
So những chất cùng họ?
9. Axit gì thuốc nổ
Lại còn điều lạ hơn:
Có thể điều chế nó
Từ hợp chất tính thơm.
10. Axit gì hai lần
Tan trong nước một ít
Điện li chỉ một phần
Lại là chất khí độc.
11. Axit gì đa chức
Có trong nước quả chanh
Vắt ra thêm đường ngọt
Uống giải khát ngon lành.
12. Axit gì tinh thể
Đun nóng lại chuyển mình
Loại dần phân tử nước
Đổi sang dạng thủy tinh.
13. Axit gì gốc no
Phân tử hai nhóm chức
Ứng dụng điều chế tơ
Trùng ngưng cùng chất khác.
14. Axit gì đứng đầu
Trong dãy chất đồng đẳng
Có trong kiến vàng nâu
Đốt đau ran buốt nóng.
15. Axit gì đầu bảng
Phân hủy dần lúc khan
Nên cần được bảo quản
Bỏ vào nước cho tan.
Đáp lời anh hỏi
Cám ơn anh hỏi về axit
Em trả lời xem biết đến đâu.
1. Clohiđric kể đầu
Nó làm quỳ tím chuyển màu, đó anh
Bạc nitrat kết tủa nhanh
Trắng phau, bột trắng, hiền lành thế thôi.
2. Sunfuaric khi mà nguội, đặc
Sắt cho vào cũng mặc, trơ ra
Lúc đặc, nóng tạo sắt ba (III)
Còn khi pha loãng lại là sắt hai (II).
3. Tiếp theo nitric thật tài
Khi dùng cẩn thận kẻo "ai" bị phiền
Đồng thả vào bị tan liền
Lưu huỳnh, than cũng chẳng yên chút
nào.
4. Cacbonic lại không bền
Ấy là axit có tên, không hình
Muốn điều chế muối lấy kiềm
Hấp thụ oxit sẽ liền thành công.
5. Axit có tên ít dùng
Vì chúng rất yếu nên không tủi buồn
Thông thường vẫn gọi phenol
Axit phenic "tên cúng cơm" xưa rồi.
6. Oleic béo không no
Dầu vừng, dầu lạc sẽ cho chất này
Thủy phân phản ứng kiềm đây
Rồi proton hóa muối ngay, mới thành.
7. Oxi axit thưa anh
Bốn chàng một dãy thuộc ngành clo
Em út tiền tố hipo
Cùng tên anh kế clorơ đi kèm.
(HClO, HClO2, HClO3, HClO4)
11. Axit xitric dễ tìm
Ba chức axit lại thêm rượu cùng
Nước đường thêm chút giọt chanh
Mùa hè giải khát ngon lành lắm thay.
12. Octophotphoric đây
Tinh thể trong suốt có ngày nước đi
Chuyển piro dạng khử nhì
Meta dạng cuối khác gì thủy tinh. 13.
Ađipic mang trong bình
Gốc no, hai chức để dành chế tơ
Điamin vẫn đợi chờ
Đồng trùng ngưng đấy, nên thơ muôn đời.
14. Khoảng ba thế kỉ nay rồi
Đã biết fomic trong loài kiến nâu
(Trong dãy đồng đẳng đứng đầu)
Kiến đốt nọc ngấm buốt đau ran người.
15. Pecloric hỡi anh ơi
Axit mạnh nhất em thời chưa quên
Bảo quản trong nước cho tan
Đặc nóng dễ nổ, khi khan hủy dần.
16. Men giấm thoáng rộng ra quân
Chế axetic từ phần rượu non
Làm cho men, chả thơm ngon
Vị chua hấp dẫn mùi thơm chào
mời.
Tình yêu dành cho em
Mạnh hơn cả axit
Thắng cả lực bazơ
Để đến tận bây giờ
Vẫn trung hòa ko kịp
Hóa học là gì?
Là hoá học nghĩa là chai với lọ
Là bình to bình nhỏ đủ thứ bình
Là ống dài , ống ngắn xếp linh tinh
Là ống nghiệm , bình cầu xếp bên nhau
như hình với bóng
Là Hoá học nghĩa là làm phản ứng
cho bay hơi , ngưng tụ , thăng hoa
Nào là đun , gạn, lọc , trung hoà
Ôxi hóa , chuẩn độ , kết tủa
Nhà Hoá học là chấp nhận "đau khổ"
Đứng run chân , tay mỏi lắc , mắt mờ
Nhưng tìm ra được triệu chất bất ngờ
Khiến cuộc đời nghiêng mình bên Hoá
học.
Hoá yêu
Nếu em là axit
Anh xin làm bazơ
Để yêu đến bất ngờ
Đến trung hoà không kịp!
Em thích làm axit
Có vị chát vị chua
Như dư vị tình yêu
Không ngọt ngào đường mật.
Tính khí em đặc biệt
Đâu chỉ có protôn
Anh nào biết trong em
Chứa bao nhiêu H+
Tình yêu dành cho em
Mạnh hơn lực axit,
Thắng cả lực bazơ
Để đến tận bây giờ
Vẫn trung hoà không kịp
Thơ Tình Của Một Kẻ Ấm Đầu
* Do Học Hóa Học *
Ta lạc vào một mê cung
Người ta gọi là TÌNH YÊU thì phải
Ta nhìn nó bằng một mắt
Lim dim
…Hình bóng ai bất chợt hiện lên
Nàng quá đẹp khiến mắt ta không chớp
Ôi đôi mắt trong xanh thăm thẳm
(Đến sunfat đồng cũng chẳng thể xanh hơn)
Rồi khi nàng cất tiếng oanh vàng
Ta nghĩ đến H20 tinh khiết
Nước da nàng đấy, hay là tuyết?
(À đúng rồi, ta có thể tạo ra
Cho a xít benzoic bay hơi là được)
Nàng bước tới, dịu dàng hết sức
Mùi phenol
Một lần đi chơi em bảo
-Có mùi phenol trên áo của anh
Nghề hoá chẳng tốt lành,
độc hại , mau già , chóng chết
-Em nói thế nhưng em có biết
Hiện tượng tương lai là của hoá học đó em
ơi
Chiếc áo mưa che mưa lúc trời mưa rơi,
Sợi tổng hợp dệt nhiều vải đẹp
Những vật liệu nhẹ , bền , cứng như sắt
thép
cũng từ hoá học mà ra
Những hạt lúa quê ta
cũng thấm giọt mồ hôi đọng mùi hoá chất
(chất bạc màu rồi lại thêm cho đất
Cảm xúc trong ta bất chợt thăng hoa
Rất tự nhiên, ta cất tiếng ngợi ca
HÌnh như nói những điều ta vừa nghĩ
Rồi chờ đợi một lời thủ thỉ
"Em thấy chàng thật quá dễ thương!"
Ôi!
Ta mong cháy lòng được cùng nàng sóng
đôi
Còn hơn cả oleum háo nước
Cứ nghĩ vẩn vơ một điều kỳ quặc
Làm sao nàng có thể hiện ra
À khi cho H20 tinh khiết
Cộng sunfat đồng và axit benzoic
Thêm một chút oleum háo nước đem đun
Điều chế xong nàng, ôi, quá dễ!
Ta buột miệng hét lên như thế
Nàng đến bên điện thoại cười cười
"Bệnh viện tâm thần? Mang đến cho tôi
Một xe nhé! Có kẻ điên rất nặng!"
Ta giật mình mở luôn hai mắt
HÌnh ảnh nàng lập tức bay hơi
Trước mắt ta chỉ toàn chai lọ thôi
Và đây là mê cung ĐÁNG GHÉT
Ta lẩm bẩm: ôi thôi, đã hết
Và bay lên khỏi những ảo tưởng hâm hâm
Này, có ai nhìn thấy ta không?
đạm , lân , kali để đất nuôi người)
Những màu hồng , màu xanh rất tươi
của những lớp sơn còn ươn ướt
khoác cho cầu áo mới
xoá đi dấu vết chiến tranh.
Đất nước ta , đất nước của màu xanh
sẽ là nơi dồi dào nguyên liệu
Từ vụn gỗ , vỏ bao ta làm ra rượu
và nứa tre thành giấy trắng em ơi
-Xin anh đừng nhiều lời
tự em , em sẽ hiểu ra tất cả.
Ừ hôm nay vất vả
cho tốt lành cuộc sống mai sau.
Mấy hôm rồi, nay mới lại gặp nhau
Mỉm cười em bảo:
Nhớ anh, nhớ cả mùi phenol trên áo
bà con thấy thế nào
thích thở nữa ko? hic hic, em gét thơ
văn lắm. những thấy chủ đề này hay hay nên
sưu tầm mấy bài
Hiđrô Cacbon no tuổi 22 nhớ nhé
Vừa có nối đơn vừa đủ Hiđrô
( H
H - C - H )
H
Không tham gia phản ứng cộng bao giờ
Chỉ có cháy và Clo thay thế :
( CH4 + 2O2 →to CO2 + 2H2O )
( CH4 + Cl2 → CH3Cl + HCl )
Nhiệt độ cao chúng phân thành 2 vế :
(CH4 →to C + 2CH2 ↑ )
Đứng trước kiềm, axit chúng làm ngơ
Không làm nước Brôm, thuốc tím phai mờ
Bởi no đủ nên không hay hoạt động
Êtilen đứa em cùng dòng giống
Kém chị vừa 2 tuổi một nối đôi ( CH2 =
CH2 )
Nhưng tính tình đanh đá lôi thôi
Làm thuốc tím mất màu Brôm phai sắc :
( CH2 = CH2 + Br2 → Br - CH2 - CH2 - Br
)
Rất thích cộng và cũng hay trùng hợp
Bởi chưa no nên hoạt động hơi nhiều
Axêtilen tuổi 18 đương yêu
Bắt cá 3 tay nên không bền vững ( CH ≡ CH
)
Lửa yêu thương trên 3000 độ nóng
Vừa đủ Ôxi nên bị nổ tan tành :
( 2C2H2 + 5O2 →to 4CO2 + 2H2O +
2.1320 KJ )
Làm Brôm thuốc tím mất màu nhanh:
( CH ≡ CH + Br - Br → Br - CH = CH - Br )
Gặp chàng Hiđrô em quay về tính chị :
(C2H2 + H2 → C2H4 )
Nhựa P.V.C khó gì đâu em nhỉ
Clorua vinyl trùng hợp mà nên
Duyệt qua bảng Hệ thống tuần
hoàn các nguyên tố Hóa học:
Ghi nhớ chữ cái đầu nha :
1. Phân Nhóm chính nhóm II :
- Bệnh Mà Còn Sung Bạo
- Bé Mất Ca Sợ Ba Rầy
- Bình Minh Chim Sẻ Bay Ra
2. Phân Nhóm chính nhóm VII :
- Fiền Con Bé Ít Ăn
3. Phân Nhóm chính nhóm I :
- Lâu Nay Không Rảnh Coi Phim
4. Phân Nhóm chính nhóm VII :
- Hình Nàng Anh Không Xé Rách
5. Phân Nhóm chính nhóm VI :
- wên dzồi
6. Chu kỳ I
- Làng Bé Bự Có Nhà Ông Flo
7. Chu kỳ II :
- Nàng Mà Anh Si Phải Sắp Chết
8. Chu Kỳ III :
- Không Cầm Súng Ta Vào Cầm Mảnh Sắt
- Khi Cần Sữa Thú Vật, Cứ Mang Súng
Thêm 1 bài về khối lượng nguyên tử
nhé,về phần câu đố tớ sẽ post sau:
Hidro là 1
12 cột Các bon
Nito 14 tròn
Oxi trăng 16
Natri hay láu táu
Nhảy tót lên 23
Khiến Magie gần nhà
Ngậm ngùi nhận 24
27 Nhôm la lớn
Lưu huỳnh giành 32
Khác người thật là tài
Clo ba nhăm rưỡi(35,5)
Kali thích 39
Canxi tiếp 40
Năm nhăm Mangan cười
Sắt đây rùi:56
64 đồng nổi cáu
Bởi kém kẽm (Zn) 65
80 Brom nằm
Xa Bạc (Ag) 108
Bải buồn chán ngán
(137) Một ba bẩy ích chi
kém người ta còn gì!
Thủy ngân (Hg) hai linh mốt(201)
Còn tôi,đi sau rốt
Cô gái Nito
Em là cô gái Nito
Tên thật Azot anh ngờ làm chi
Không màu cũng chẳng vị gì
Sự cháy,sống ko tồn tại trong em.
Cho dù không giống Oxygen
Thế nhưng em vẫn dịu hiền như ai
Nhà em ở chu kì 2
Có 5 electron ngoài bao che
Mùa đông cho đến mùa hè
Nhớ ô thứ 7 nhớ về thăm em
Bình thuờng em ít người quen
Người ta vẫn bảo sao trầm thế cô
Cứ như dòng họ khí trơ!
Ai mà ngỏ ý làm ngơ sao đành
Tuổi em mười bốn xuân xanh
Vội chi tính chuyện yến anh làm gì.
Thế rồi năm tháng trôi đi
Có anh bạn trẻ oxi gân nhà
Bình thường anh chẳng lân la
Nhưng khi giông tố tới nhà tìm em
Gần lâu rùi cũng nên quen
Nito oxit (NO) sinh liền ra ngay
Không bền nên chất khí này
Bị oxi hoa liền ngay tức thì
Thêm 1 nguyên tử oxi (NO2)
Thêm màu nâu đậm,chất nào đậm hơn?
Bơ vơ cuộc sống cô đơn
Thủy tề thấy vậy bắt luôn về nhà
Gọi ngay hoàng tử nước ra
Ghép luôn chồng vợ thật là ác thay
(2NO
2
+H
2
O → HNO
3
+HNO
2
)
Hờn đau bốc khói lên đầy
Nên tim em chịu chua cay một bề
Đêm giông tố rét đêm về
Oxi chẳng được gần kề bên em!
Vì cùng dòng họ phi kim
Cho nên cô bác hai bên bực mình
Oxi từ đó buồn tình
Bỏ em đơn độc một mình bơ vơ
(2NO → N
2
+O
2
)
Em là cô gái Nito
Lâu nay em vẫn mong chờ tình yêu
Natri
Để anh kể em nghe
Chuyện 1 kim loại kiềm
Đã làm nên muối biển
Biển mặn mòi
Natri đã thành tên
23 là khối lượng
Mềm,trắng,nhẹ hơn nước
Phổ biến trong tự nhiên.
Là 1 kim loại kiềm
Nên hoạt động mãnh liệt
Em ơi,khó tìm kiếm
Na đơn chất đâu
Lần sau post mấy câu đố lên nhé! Có được
ko?
Xút ăn da không màu
Oxi trắng dễ tạo
Halogen chẳng khác
Phi kim tác dụng ngay
{Và nhớ nhé điều này
Trừ khí trơ ra đấy}
Natri thật dễ tính
Tạo các muối đều tan
Hợp chất nhiều vô vàn
Quan trọng trong cuộc sống!
Câu chuyện thứ nhất: Thí
nghiệm về trang thái say Nitơ
NITƠ CÓ GÂY CHẾT NGƯỜI
KHÔNG?
Trong tính chất vật lý của Nitơ là một chất
khí không mầu không mùi, không độc
nhưng không duy trì sự sống và sự cháy.
Thực tế có như vậy không?
chúng ta hãy làm thử thí nghiệm sau:
Câu chuyện thứ 2: Mẩu
chuyện về oxi
OXI VÀ KIỀU
Trong thơ trữ tình hay như thơ Phạm Tiến
Duật với bài “Lửa đèn”
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả ớt chín đỏ hoe
Trỏ lối sang mùa hè
Trước hết điều chế N2 bằng cách nhiệt phân
Nitơrat amoxi rồi chứa nitơ vào 1 chiếc lọ,
nút kín. Sau đó ra bãi cỏ tìm bắt những con
châu chấu to khoẻ (loại bỏ những con nhỏ
và yếu) rồi thả vào trong lọ Nitơ. Có hiện
tượng gì sẽ xẩy ra nào?
Những anh chàng châu chấu trong lọ cũng
hung hăng nhảy thêm được 2-3 cái rồi từ từ
rơi xuống, chân cẳng duỗi dần ra độ 5
phút,10 phút,12 phút chúng nằm im bất
động, chúng chết rồi chăng? Con người to
khoẻ mạnh là thế mà chỉ cần 5 phút không
thở thôi đã đủ để đưa ta sang thế giới bên
kia rồi. Tôi hỏi các bạn trong nhóm liệu
những chú châu chấu kia có làm sao không?
Hãy chờ em, khi mở nắp lọ ra chỉ sau 30
giây những chiếc râu bắt đầu đung đưa, rồi
cái chân bắt đầu co lại dần, chừng 1 phút sau
chúng lại nhảy múa như thường. Vậy chúng
ta tự kết luận cho tính chất vật lý của Nitơ.
Câu chuyện này làm chúng ta liên tưởng tới
bô phim “Cô gái và đại dương”. Người đóng
vai bà mẹ cũng đã đóng vai trạng thái say
nitơ. Hiện tượng này thường xảy ra với
người thợ lặn, do vậy ta hiểu tại sao thợ lặn
xuống biển phải deo dây bảo hiểm.
Quả cà chua như chiếc đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông thắp sáng đêm thâu
Quả ớt như ngọn đèn dầu
Chạm đầu lưỡi như chạm vào sức nóng
Đến những câu thơ mạnh hơn lửa thép của
Tố Hữu
“Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
Ấy vậy mà lại chẳng nổi tiếng bằng thơ
Kiều của Nguyễn Du, nổi tiếng khắp thế
giới tại sao thế nhỉ? Vì thơ Kiều “Nẩy
được Kiều” . Giáo viên nẩy hai câu:
“Trăm …Năm …Trăm cõi người ta…
Chữ tài…chữ mệnh khéo mà ghét nhau”
Thế mà trong hoá của ta cũng có Kiều mới
lạ chứ - “nẩy kiều hoá”
“Trăm năm trăm cõi người ta
Cuộc đời chỉ có thở ra và hít vào”
Để nắm vững vai trò của ôxi với sự sống,
hôm nay thầy trò ta nghiên cứu về ôxi
Liên kết dấu yêu NaCl:
34/9(81)/2008
Nhớ ngày ngồi bênh cạnh :
Tôi là Na
+
Bạn là Cl
-
Ta hình thành liên kết NaCl
Là liên kết ion không bao giờ xa
cách
Nhưng một ngày sóng gió đến đôi ta
Thầy giáo điện cực trơ
Dưa chúng mình xa mãi
Tôi Natri đơn độc trôi về phía trời
âm
Bạn thành khí clo xuôi theo dòng
anot
Vậy là xa từ đó
Clo giờ nơi đâu ?
Dể Natri buồn nhớ
Dêm ngày vẫn chờ mong
Nhìn về phía âm cực sang bên ấy trời
âm
Lòng Natri quặn thất
Biết clo quên minh
Thôi kiếp nầy đành vậy
Hẹn người đến kiếp sau
Ta sẽ không rời nữa
Dược không nào Clo ?
hãy giải thích thử các hiện tượng sau đây coi ?
1/Mọi vật đều tuân theo nguyên tắc "Nóng thì nở ra,lạnh thì co lại" vậy tại sao nước ở thể rắn(nước đá) thì lại ngược lại?
2/Tại sao khi nấu canh cá người ta lại cho các chất chua vào?
3/Có hai sợi dây đồng nhỏ và một củ khoai . Làm sao để biết được cực dương và cực âm của một ắc quy.
4/Chúng ta chắc hẳn ai cũng một lần bị kiến , ong đốt rất ngứa fải không ạ. Theo kinh nghiệm của các cụ truyền lại thì lấy vôi bôi
vào chỗ bị đốt . Rất có hiệu quả đó. Dưới quan điểm của hoá học các bạn thử giải thích xem.
5/Chỉ số xà phòng hoá là số mg đủ để thuỷ phân 1g chất béo ,tại sao không fải là NaOH mà cứ fải là KOH.
6/tại sao ở các bệnh viện người ta lại thich trồng thông hơn là các cây khác?
7/Tại sao khi cho một sợi dây đã cạo sạch vào bình cắm hoa thì hoa sẽ tươi lâu hơn?
8/Lan đun dung dịch trong một cốc thuỷ tinh để bốc hơi nước đi . Dần dần em thấy xuất hiện một loại tinh thể . Nó có thể
hoà tan trong nước . Thử bằng giấy chỉ thị thì thấy nó có tính kiềm . Lan nghĩ rằng bằng các này em có thể tạo ra tinh thể của
. BẠn thử nghĩ xem : ý kiến của Lan đúng hay sai?
9/Tại sao khi luộc rau thì cho thêm một ít muối và mở vung thì rau xanh và giòn hơn ?
10/Vì sao khi nói đến thịt mỡ thì người ta thường nhắc đến dưa hành ?
11/Vì sao khi ăn phải bả , chuột thường chết ở nơi gần nguồn nước ?
12/ Tại sao sau cơn mưa người ta thường cảm thấy không khí trong lành hơn ?
13/Tại sao phèn chua lại có khả năng làm trong nước?
14/Tại sao máu màu đỏ, còn cỏ thì lại có màu xanh?
15/Một người cầm một con dao chặt đứt đôi thanh củi rồi đưa con dao đó cắt vào tay mình lập tức máu chảy ròng ròng. Nhưng ô kìa
tay vẫn không sao!!!!! Tại sao lại lạ vây?
16/Nguyên tố nào mà trong cơ thể người,nó tồn tại nhiều nhất trong vỏ não?
17/Tại sao khí , khi đưa về -11 độ C thì ko có màu, mà đưa lên khoảng 140 độ thì lại có màu nâu rất đậm. Làm ơn các bác
giải thích tại sao có màu nhé, ko giải thích lưng chừng!
18/Một nguyên tố có quan hệ khá gần gũi với Kali,được phát hiện gần như đồng thời với kali bằng cùng một phương pháp điện
phân và cùng do nhà Hoá Học Humphy Devi(H.Davy) phát hiện ra?
19/Giải thích t/ch thuận từ của . Tại sao O2 có tính thuận từ còn thì lại ko?
20/Tại sao người ta lại thường đựng các dung dịch,hoá chất vào các bình thuỷ tinh mỏng vậy.Sao không đựng vào các lọ dầy có tốt
hơn không?
21/Đố mọi người biết thuỷ tinh hoà tan là gì và nó được ứng dụng ở đâu?
22/Muốn có được ngọn lửa nhiệt độ cao để hàn cắt kim loại người ta dùng chứ ko fải là mặc dù nhiệt đốt cháy các
khí này tương ứng bằng 1320kj/mol và 1562 kj/mol.
23/Tại sao các đường ống dẫn nước và động cơ ôtô có nguy cơ hỏng khi thời tiết lạnh dưới ?
24/Các nguyên tắc vận tải bằng đường xe lửa axit sunfuric đậm đặc đựng trong các toa thùng yêu cầu một cách nghiêm ngặt phải
đóng kín ngay tức khắc vòi thoát sau khi tháo axit ra khỏi toa thùng.Tại sao sau khi tháo axit rồi mà khoá chặt ngay vòi lại thì toa
thùng không bị hư hỏng,còn nếu cứ để mở thì sẽ không dùng được toa thùng nữa?
25/Một người chưa bao giờ được lên mỏ than,nhưng trong tưởng tượng của người đó,mỏ than là nơi có những núi than khổng lồ,cao
hàng chục mét,đen sì
Người đó tưởng tượng có đúng không?Tại sao?
26/Tại sao trên các thùng đựng ét xăng của các xe hơi lại thường có ghi:"Ét xăng etyl hoá!Nguy hiểm"?
27/Tại sao trước khi dùng bình cứu hoả thì trước hết ta phải dốc ngược bình (lắc vài cái) rồi mới mở vòi ? Bình cứu hoả hoạt động
như thế nào vậy ? Có phải bình đó dùng được trong mọi vụ cháy không?
28/Khi cho chất khí phổ biến A vào bình thủy tinh chứa khí B có cùng tỷ trọng với A thì thấy trong bình còn lại cát ẩm . Bạn hãy
cho biết tên hai khí này?
29/Một trong những phương pháp điều chế nước ngọt trrên tàu biển là nén propan ở nhiệt độ thấp vào nưóc biển.Sau khi lọc tách
chất rắn sẽ thu được nước ngọt.
30/Đố mọi người biết tên của những chất được viết tắt ở dưới đây nhé:
?
31/Có một dung dịch không màu mất nhãn cho vào dung dịch này một kim loại màu vàng đậm quấy đều không có hiện tượng gì
xảy ra đun nóng bình đựng dung dịch này (có cả Kim loại trên ) đến một nhiệt độ cao thì thấy có thoát một hỗn hợp khí trong đó có
khí màu nâu hỏi dung dịch là dung dịch gì và kim loại là kim loại gi ?
32/Tại sao tóc ướt lại dài hơn tóc khô?
33/Như ta đã biết,nhôm oxit ( là một oxit lưỡng tính tan được cả trong dd axit và dd bazo kiềm,nhưng khi nung đến
1000 độ C,Al2O3 trở nên trơ đối với cả dd axit và kiềm?
34/Có mấy chất sau trong các ống nghiệm riêng biệt :
Hãy chỉ ra trong mỗi ống nghiệm có chất nào .Các chất sử dụng để nhận biết tuỳ ý
35/Hãy xác định thành phần C va H của 1 hydrocarbon
điêu kiện là bạn nghĩ mình đang sống o thé kỷ 18( chưa có phương pháp vật lý hiện đại)
36/Vì sao khi hoà tan các phân đạm thì nuớc lại lạnh đi .
37/oxi có ba đồng vị 16 17 18 vậy tại sao trong bảng tuần hoàn khối lượng của nó lại là 15,99?
38/Tại sao Si và C có cấu tạo AO ngoài cùng như nhau nhưng C có thể tạo thành vô số hợp chất hữu cơ nhung Si thì không?
39/Tại sao đồng phân trans bền hơn đồng phân cis
40/ Tại sao khi làm thí nghiệm dòng điện qua dung dịnh với 2 cực là Cu thì Cu ở cục dương lại tan ?
41/trong phản ứng của natri thiosunfat với Iot trong môi trường hoàn toàn trung tính có thêm phản ứng tạo sau đó td với
để tạo ra và phân huỷ thành S và SO2 không
42/Tại sao ko thể điều chế trực tiếp từ và dược ?
43/Một cây nến đang cháy ,bạn thổi tắt nó đi . khi đó sẽ xuất
hiện một "dòng " khói đục bay lên . Nếu bạn đưa một ngọn lửa
đang cháy lại gần ( cách từ 2 đến 3 cm ) thì ngọn lửa lại bùng cháy . Bạn hãy giải thích .
44/Tại sao đom đóm lại có thể phát sáng được?
45/tại sao sau khi tắm dù bằng nước nóng hay nước lạnh thì ta đều cảm thấy mát?
46/Tại sao tuyet lai co mau trang trong khi no duoc cau tao boi cac tinh the nuoc trong suot?
47/nguyên tố nào tên gọi bắt nguồn từ tiếng Hi lạp có nghĩa là Mặt trăng, ở hàm lượng nhỏ thì rất cần thiết cho cơ thể nhưng chỉ cần
cao hơn mức đó 5-10 lần là đã trở nên độc hại với cơ thể?
48/tại sao Selen lại là nguyên tố thiết yếu đối với cơ thể ?
49/Tại sao chì chỉ tương tác trên bề mặt với dd loãng hoặc dd dưới 80% nhưng lại tan tốt trong dd đậm đặc của
các axit đó?Và khác với chì thì thiếc lại có thể tan tốt trong các dd noi trên ở những nồng độ khác nhau?
50/Tại sao Phospho bền ở Số oxh +5 và ko có tính oxh trong khi Nitơ thì ko bền ở +5 và là chất oxh cực mạnh?
51/làm thế nào để tách được hỗn hợp n- và iso-pentan
52/trong 2 loại ion +2 và +3 của Fe cái nào bền hơn?Vì sao?
53/vì sao ăn "cháy cơm" có vị ngọt hơn cơm bình thường?
54/Co 12 lo dung cac dung dich khong mau sau:
Khong dung bat cu hoa chat nao, hay nhan biet cac dung dich tren.
55/trong phản ứng halogen hoá ankan,nguyên tử halogen (Cl và Br) ưu tiên cắt đứt liên kết ,điều đó có gì mâu thuẫn khi
năng lượng liên kết C-H là 355-481kJ/mol còn năng lượng liên kết C-C chỉ là 335kJ/mol?
56/tại sao ankin tham gia phản ứng cộng electrophin khó hơn anken?