DANH MỤC
Một số hình ảnh về
DN
Y học & Dược phẩm
Bệnh Nội Tiết
Dinh dưỡng & sức
khỏe
Gương sáng ngành Y
Marketing
Cây thuốc quanh ta
Bệnh khó nói
Chuyện lạ
Thể thao Việt Nam
Thể thao quốc tế
QUẢNG CÁO
15/11/2009::. CÂY THU>C QUANH TA .::
Khế trừ cảm mạo trị phong độc
Ảnh minh họa
Khế còn có tên gọi là Ngũ liễm tử hay Ngũ lăng tử (trong Hán
tự), tên khoa học Averrhoa carambola L. thuộc họ chua me đất
hay Me đất Oxalidaceae. Khế có nguồn gốc tại Siri Lanka và
phát triển rộng rãi tại Đông Nam Á…
Giá trị dinh dưỡng của khế không cao; 100g khế chỉ cho
35,7calorie. Có vị chua là nhờ sự có mặt của các acide hữu cơ
chiếm khoảng từ 800 – 1.250mg/100g khế. Nước sắc lá khế
có tác dụng ức chế vi khuẩn Gram +, nhưng không có tác
dụng trên khuẩn Gram âm, nấm candida. Dạng dịch chiết qua
nước có tác dụng ức chế vi khuẩn mạnh nhất, song dịch chiết
qua cồn lại ức chế yếu nhất.
Ở Ấn Độ quả khế được ăn để cầm máu, chữa trĩ, nước ép
dùng làm thuốc hạ sốt… Tại Braxil dùng khế làm thuốc lợi
tiểu. Nước sắc cành lá mang quả trị lở ngứa do sơn ăn (tức
nhựa của cây sơn Rhus verniciflua dính vào da gây lở loét).
Hột khế giã nát sắc uống có tác dụng lợi sữa, điều kinh, giải
độc. Bột hột khế khô có tính an thần nhẹ.
Đông y cho rằng khế có vị chua ngọt, tính bình tươi hơi mát,
chín lại ôn sinh tân dịch chủ trị phong nhiệt (nóng sốt), sinh
tân dịch, chỉ khát, giải độc, lợi tiểu và còn có tài liệu ghi dùng
trị nhiều bệnh khác như chữa thận hư, tinh kém, chữa lỵ, kinh
giãn ở trẻ em
Để tham khảo và áp dụng, dưới đây xin giới thiệu những
phương tiêu biểu trị bệnh từ cây khế:
* Trị lở sơn: Lấy quả khế thái miếng hoặc lá vò xát trực tiếp
lên vùng bị lở sơn rồi đắp vào. Lá khế tươi giã vắt lấy nước
cốt uống, bã đắp vào nơi bị lở sơn.
* Rửa vết thương lở loét: Quả khế nấu lấy nước rửa ngày 1 –
2 lần.
* Trị chứng nước ăn chân: Dùng quả khế lùi trong tro nóng
rồi lấy ra áp vào chỗ chân bị nước ăn, ngày 2 lần.
* Trị bí đái: Lấy quả khế cùng củ tỏi cho vào giã nhuyễn đắp
lên rốn.
* Trị cảm nắng nóng, khát, nhức đầu: Lá khế tươi 100g, lá
chanh 40g, giã vắt lấy nước uống; hoặc dùng quả khế tươi
nướng qua vắt lấy nước uống.
* Trị cảm cúm (biểu hiện sốt, ho, hắt hơi sổ mũi, đau mình
mẩy): Dùng 3 quả khế nướng sau vắt lấy nước cốt hòa cùng
50ml rượu và uống.
* Trị viêm họng: Lấy lá khế 40g, cùng vài hạt muối giã vắt
lấy nước cốt ngậm ngày 2 lần.
* Chữa ho khan hoặc có đờm: Hoa khế sao qua tẩm nước
gừng cũng đã sao, cho thêm cam thảo nam 12g, sắc uống ngày
1 thang.
* Làm thanh nhiệt giải độc (trong ung thư đối với người đang
điều trị phóng xạ hay truyền hóa chất): Lấy vài quả khế rửa
sạch, vắt lấy nước cốt thêm nước đường vào nấu sôi, rồi lại
cho táo tây đã gọt vỏ thái miếng, chuối thái nhỏ, cam lấy múi
và nho vào nồi nấu sôi, cho chút bột để làm sánh. Múc ra bát
và ăn trong ngày.
* Sơ cứu ngộ độc mã tiền: Lấy quả khế ép lấy nước và cho
uống thật nhiều và đưa kịp thời tới trung tâm chống độc của
bệnh viện để cứu chữa.
* Trị phong nhiệt mẩn ngứa: Dùng vỏ cây khế cạo bỏ lớp vỏ
ngoài 40g, sắc lấy nước uống, ngoài lấy lá khế đã sao qua xoa
đắp vào vùng ngứa.
* Thúc sởi mọc ở trẻ: Lấy lá và vỏ cây khế sắc uống, sau khi
sởi bay hết để tiệt nọc không bị tái lại cần dùng vỏ và lá khế
nấu lấy nước tắm cho trẻ.
* Trị đái dắt, buốt, ra máu do viêm bàng quang, âm đạo: Lá
khế 100g, rễ cỏ tranh 40g, sắc uống ngày 1 thang.
BACSI.com (Theo NN)
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Cây thuốc quanh ta
Em mở mục này vì thấy có nhiều thứ hay trên các web mà em đã xem được,lại rất bổ ích
và dễ tìm,mong các mẹ ủng hộ,đóng góp thêm bài vở nhé !
Công dụng của lá tía tô
Thứ sáu, 07/03/2008
Tía tô là vị thuốc được y dược học đông phương xếp vào loại giải biểu (làm cho ra mồ hôi)
thuốc nhóm phát tán phong hàn (nhóm do lạnh gây bệnh) cần chữa bằng cách cho ra mồ
hôi, khỏi sốt.
Tía tô còn có các tên như é tía, tử tô, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Tên
La tinh là Perilla frutescens Britt. Họ hoa môi (Lamiaceae). Không nhầm với tía tô tử là
hạt của cây tử tô (thận trọng khi viết hai tên này là của 2 vị thuốc không hoàn toàn giống
nhau đều cùng lấy từ một cây).
Tía tô có tính ấm, vị cay, vào 3 kinh phế - tâm - tỳ, không độc. Lá dùng làm gia vị rất
phổ biến đồng thời là vị thuốc rất hay dùng để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc
hạ khí, cành làm thuốc an thai. Trường hợp không có thì dùng thay thế cho nhau cũng
được.
Chữa cảm mạo: giải cảm lạnh
Xông: Lấy lá tía tô cùng các lá thơm khác tạo thành nồi lá xông và lau rửa. Nếu lá được
rửa sạch kỹ thì có thể lấy ra một bát để uống trước hay sau khi xông. Xông xong lau khô
mồ hôi cả người đắp chăn nằm nghỉ.
Nhớ nước sôi mới cho lá xông vào nồi - đậy vung kín và khi xông mở vung. Cần chú ý kẻo
bỏng và chỉ xông cho người lớn ngồi vững trong chăn. Rất thận trọng với người già gầy
yếu và trẻ em.
Cháo tía tô: Nấu cháo gạo tẻ cho ra bát, trộn lá tía tô non thái chỉ. Ăn nóng. Có thể thêm
hành lá tươi thái nhỏ. Có cho trứng vào hay không hiện nay còn 2 ý kiến trái ngược nhau
có và không. Xông xong nằm nghỉ một lúc dậy ăn bát cháo giải cảm này là phương pháp
giải cảm lạnh dân gian rất có hiệu nghiệm.
Bài thuốc sắc uống
Hương tô tán: Chữa cảm mạo phong hàn, sốt, gai rét, đau đầu, tức ngực. Lá tía tô 8g,
hương phụ 8g, trần bì 6g, cam thảo 4g. Gừng 2 lát, sắc nước uống. Có thể kết hợp "nồi
xông".
Có thai bị cảm mạo: Tía tô, kinh giới, mỗi thứ 1 nắm lá cho 2 bát nước sắc còn 1 bát
uống ấm. Tiếp đó cho ăn cháo nóng, đập vào bát 1 quả trứng gà tươi (có trứng gà đen
càng tốt).
Cảm mạo: Lá tía tô 1 nắm, vỏ quýt khô lâu năm 1 cái, gừng 3 lát. Đun nước sôi rồi cho 3
thứ vào, đun lại cho sôi, uống nóng. Nếu khó uống cho ít đường phèn. Bài này thích hợp
khi bệnh nhân có nôn mửa, đau bụng.
Chữa ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở
Tía tô bổ hư, giáng khí dùng cho trường hợp khó thở ở trẻ em, người già, người có thai
vừa hiệu quả, vừa an toàn.
Do ngoại cảm phong hàn: Có viêm đường hô hấp dùng bài Tam tử dưỡng thân thang: tổ
tử (hạt tía tô) 6-12g, la bạc tử (hạt cải củ) 8-12g, bạch giới tử 6-8g (hạt cải bẹ trắng).
Sắc uống ngày 1 thang.
Thương hàn ho suyễn: 1 nắm lá tía tô nấu nước uống dần là dứt cơn suyễn (Thiên kim
phương).
Người lớn tuổi hay thở suyễn, đuối hơi: Hạt tía tô 1 lạng, sao qua tán bột, đổ 2 bát nước
vào quấy đều, lọc bỏ bã. Nấu cháo ăn lúc đói (Nam dược thần hiệu).
Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái: Hạt tía tô 20g tán thành bột, hòa với nước đun sôi
để còn âm ấm, lọc bỏ bã cho uống. Cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước
sôi. Hoặc lấy bột này hòa vào cháo, hãm vào nước sôi hoặc hòa vào nước cơm cho trẻ
uống.
Ho tuổi già (lão khái) ho nhiều đờm đặc, khó thở (viêm phế quản mãn tính). Nếu không
phải do phong hàn và bệnh khác thì dùng thang "Tam tử phụng mẫu" gồm có tô tử, lai
phục tử, xuyên bối mẫu mỗi vị 8g và bạch giới tử 2g. Sắc uống nóng.
Ho suyễn do phế hư hoặc đàm trắng đục dính, nặng ngực: Dùng phương "Tử tô tử tửu" (Y
tiện): hạt tía tô 90g, rượu 1 lít. Hạt tía tô sao thơm, tán bột ngâm rượu gạo ngon trong
10 hôm chắt lấy nước trong bỏ bã. Uống mỗi lần 15-30ml. Ngày 3 lần sáng, trưa, tối (nếu
ho đờm vàng, cổ khô, miệng khát, môi đỏ không dùng).
Hóa đàm giáng khí: Dùng cháo tô tử (Thiên gia thực liệu diệu phương): tô tử hạt 20g xay
nhuyễn như hồ cho nước vào rồi ép lấy nước để nấu cháo, gạo tẻ 100g. Cháo được quấy
với đường phèn để ăn. Không dùng cho người có tiêu chảy.
Rối loạn tiêu hóa
Ngộ độc thức ăn: Đau bụng đi ngoài, nôn mửa do ăn các loại thức ăn như cua, cá.
Lá tía tô đủ dùng, giã lấy nước cốt để uống: Nếu có ngứa nổi mẩn (dị ứng) thì lấy bã đã
sắc hoặc lá tươi xoa sát. Hoặc tử tô giải độc thang: lá tía tô 10g, gừng tươi 8g, sinh cam
thảo 2g. Nước 600ml sắc còn 200ml chia 2-3 lần trong ngày, uống nóng.
Lời khuyên: Ăn các loại thủy hải sản tanh lạnh đều nên kèm rau thơm gia vị lá tía tô tươi.
Nhưng lưu ý có kinh nghiệm không ăn lá tía tô với cá chép vì có thể sinh nhọt.
Táo bón người già suy nhược: Hạt tía tô, hạt me lượng bằng nhau giã nhuyễn cho nước
lắng lấy nước nấu chín. Hoặc hạt tía tô, hạt vừng đều 10g, giã nhuyễn cho nước lấy nước
nấu cháo, bài này được dùng cả khi táo bón do ung thư ruột.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
Người dưới đây đã cám ơn EnCon về bài viết hữu ích:
bhkien (08-01-2008)
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#2
08-01-2008, 12:03 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Đinh lăng: cây cảnh, cây thuốc
Thứ năm, 28/02/2008
Lá đinh lăng (ảnh: B.T)
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá bởi vì bà con ta thường dùng lá đinh lăng (có vị chua,
chát, thơm, không độc) để làm gỏi cá. Tên khoa học là Polyscias Fruticosa Lour Harms.
Mọi người thường dùng làm hàng rào, cây cảnh, xanh tốt quanh năm, có mùi thơm dễ
chịu, không sâu bệnh. Bộ phận dùng làm thuốc gồm cả lá, thân và rễ.
Lá đinh lăng: ngoài việc dùng làm gỏi, bà con ta còn phơi khô, nấu lấy nước uống để
chống mất ngủ và kích thích tiêu hóa. Liều dùng: không hạn chế, mỗi ngày dùng từ 20 -
40g lá khô, nấu với 200 ml nước, đun sôi chừng 20 phút là dùng được, nên uống vào
buổi tối (khoảng 21 giờ) sẽ có tác dụng gây ngủ tốt hơn.
Vỏ thân cây và rễ cây (có người còn gọi là củ đinh lăng): có tác dụng an thần, tăng sức
dẻo dai của cơ thể như nhân sâm (vì thế còn gọi là sâm đinh lăng), lợi tiểu tiện, chống
đau nhức xương, chống mệt mỏi. Cách dùng: Bóc lấy vỏ, thân và rễ cây, thái nhỏ, phơi
khô, sao vàng hạ thổ và sử dụng theo 2 cách: Ngâm rượu (không hạn chế) tùy theo độ
đậm đặc của rượu, mỗi ngày dùng từ 30 - 50 ml vào buổi tối, liên tục trong khoảng 20
đến 30 ngày sẽ thấy tác dụng (đỡ mệt mỏi, hết đau nhức xương, khớp, sức khỏe
tăng ). Sắc uống: mỗi ngày dùng 30 -50g vỏ thân hay rễ đinh lăng (đã sấy khô) nấu
với khoảng 200 ml nước, còn 100 ml, chia làm 2 - 3 lần trong ngày, có tác dụng cũng
như ngâm rượu.
Cách nuôi trồng và thu hái: Nuôi trồng bằng cách giâm cành, rất đơn giản: chỉ cần chặt
cành đinh lăng ra từng đoạn (dài khoảng 20 - 30 cm), cắm xuống đất ẩm, tưới nước
hằng ngày cho đến khi cây bén rễ và trổ lá mầm. Có thể trồng ở bất kỳ đâu và có thể
trồng làm hàng rào, trong chậu làm cây cảnh Thu hái: cây càng lâu năm càng tốt (vì
có nhiều hoạt chất), thường từ 6 năm tuổi trở lên (nhân sâm tốt cũng có tuổi từ 6 năm
trở lên, nếu ai có dịp qua Triều Tiên - Đại Hàn đều thấy những người bán sâm ghi sâm 6
năm tuổi là vì vậy). Là một loại cây quý, dễ trồng, có nhiều tác dụng trị bệnh, đinh lăng
vừa được bà con ta trồng để làm cảnh, vừa làm thuốc, rất tiện dụng
from:như trên
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#3
08-01-2008, 12:04 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Tác dụng chữa bệnh của bí đỏ
Thứ năm, 10/04/2008
Bí đỏ là nhà vô địch về hàm lượng sắt, giàu vitamin, muối khoáng cũng như các axít hữu
cơ
Trong số các loại quả, bí đỏ là nhà vô địch về hàm lượng sắt, giàu vitamin, muối khoáng
cũng như các axít hữu cơ. Axit ascorbin có trong bí đỏ giúp tránh cảm, vitamin nhóm B
giúp đấu tranh với mệt mỏi, cáu giận và mất ngủ, củng cố tóc và móng chân, tay.
Nguồn vitamin dồi dào
Vitamin A trong bí đỏ giúp cải thiện thị giác. Ruột và hạt bí đỏ có chứa nhiều vitamin E -
một loại antioxidant tự nhiên giúp củng cố hệ miễm nhiễm, ngăn ngừa sự xuất hiện những
nếp nhăn sớm, bảo vệ da khỏi lão hóa và cải thiện chức năng hệ tim mạch.
Còn 2 loại vitamin khác trong bí đỏ là vitamin K và T. Đây là những loại vitamin hiếm, có
rất ít trong các thực phẩm. Vitamin K cần thiết để tổng hợp protit của máu và mô xương.
Vitamin T giúp làm đông máu và tạo các tế bào máu. Nhờ đó vitamin T rất quan trọng
trong việc ngăn ngừa một số dạng thiếu máu.
Vitamin T cũng giúp cho quá trình tăng trao đổi chất trong cơ thể. Nhờ hàm lượng cao loại
vitamin T hiếm hoi này trong bí đỏ nên nó được coi là chất độn tốt nhất cho các món ăn từ
thịt bò, heo và các món có nhiều mỡ khác, bởi vì vitamin T giúp tiêu hoá các thức ăn khó
tiêu và ngăn ngừa béo phì. Chính do tính chất này nên những người muốn giảm cân rất
thích bí đỏ.
Tủ thuốc gia đình
Bí đỏ có nhiều tính năng chữa bệnh. Khi bị bệnh về gan, nên ăn càng nhiều cùi bí đỏ sống
càng tốt. Còn nếu bạn cảm thấy bí đỏ sống không ngon, có thể ăn cháo bí đỏ nấu với gạo.
Khi bị mất ngủ, buổi tối bạn nên dùng nước ép bí đỏ hoặc nước nấu bí đỏ với mật ong.
Nước ép bí đỏ cũng rất tốt đối với người bị bệnh tiểu đường và những rối loạn khác nhau
về trao đổi chất. Người ta dùng cùi bí đỏ tươi giã nát để đắp vào những vùng bị ezema,
bỏng, nổi ban, mụn trứng cá và những nơi bị viêm khác trên da.
Những người phải đứng lâu trong ngày cũng có thể dùng cùi bí đỏ tươi giã nát để loại bỏ
cơn đau dưới chân. Dầu ép từ hạt bí đỏ được coi là một sản phẩm dinh dưỡng phòng chữa
bệnh. Dầu bí đỏ có ảnh hưởng tốt tới gan, giúp cho những người bệnh tuyến tiền liệt, ngăn
ngừa béo phì, cải thiện thành phần máu, loại bỏ cho-lesteron. Y học dân tộc khuyên nên
thường xuyên sử dụng hạt bí đỏ khô.
Nhờ thành phần muối khoáng tuyệt vời trong cùi bí đỏ, có thể dùng loại quả này làm mỹ
phẩm rất tốt. Mặt nạ từ cùi bí đỏ giã nát hoặc tẩm bông bôi nước ép lên mặt có tác dụng
bổ dưỡng và làm tươi mới đối với da nhờn. Mặt nạ từ hạt bí đỏ nấu và xay nhỏ giúp làm
trắng da, loại bỏ tàn nhang và cải thiện da mặt.
Theo Khoa Học & Đời Sống
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#4
08-01-2008, 12:06 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Lá lốt chữa bệnh đau nhức
Thứ sáu, 29/02/2008
Lá lốt có tên khoa học là Piper Lolot, mọc hoang và được nhân dân ta trồng ở khắp mọi
miền để làm gia vị. Lá, thân của lá lốt có tác dụng khu phong, tán hàn, tiêu thực cho nên
được nhân dân ta sử dụng rất rộng rãi để chữa chứng đau nhức xương, khớp
Lá của cây lá lốt: làm gia vị: Chả thịt bò lá lốt (lá lốt gói thịt bò rồi nướng hay rán), nấu
lươn, hoặc thái nhỏ để nấu canh với thịt nạc có tác dụng tiêu thực "nhẹ mình", rất dễ chịu.
Chữa đau nhức xương, phong thấp, ra mồ hôi tay chân: dùng lá lốt tươi, sao nóng, đắp lên
vùng đau và băng lại hoặc đắp lá lốt lên vùng đau rồi lấy muối (khoảng 1- 2 kg) rang nóng
già, cho vào túi vải, đặt lên. Mỗi ngày 1 lần đến 2 lần, liên tục từ 7 đến 10 ngày sẽ cho kết
quả. Hoặc lấy cả cành, lá khoảng 40 - 50 gr (1 nẹm tay), sắc với 200 ml, còn 100 ml, chia
làm 2-3 lần, uống trong ngày. Nếu ra nhiều mồ hôi tay, chân: Lấy khoảng 100 gr (cả lá,
thân, rễ) thái nhỏ cho khoảng 200 gr muối hột nấu 500 ml nước, đun sôi chừng 5-10 phút,
để khi nước còn nóng già thì ngâm chân hay tay, mỗi lần ngâm khoảng 20-30 phút, làm
hằng ngày sẽ giảm chứng ra mồ hôi, hết "mùi" và càng đỡ đau nhức xương.
Ngâm làm cồn xoa bóp: lấy thân và rễ cây chặt nhỏ, ngâm trong rượu mạnh (trên 400)
dùng làm cần xoa bóp khi bị đau nhức hay chấn thương.
Lá lốt là một cây rất dễ trồng (lấy từng đoạn thân "bánh tẻ" vùi xuống đất ẩm) vừa có tác
dụng làm gia vị lại vừa có tác dụng chữa bệnh, mọi người nên trồng mỗi nhà một khóm để
dùng
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#5
08-01-2008, 12:09 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Hẹ - Rau ăn vị thuốc
Thứ tư, 27/02/2008
Rau hẹ
Hẹ - một loại rau ăn lá, dễ trồng. Có thể trồng trong chậu, có rau ăn quanh năm. Đặc biệt,
hẹ chế biến được nhiều thứ, làm gia vị, ăn như rau và cả làm bánh.
Cái hay của rau hẹ là có thể dùng làm gia vị thay thế hành lá hay tỏi, vừa là một loại rau
dùng trong các món chiên, xào, nấu canh Hay hơn, xưa nay hẹ có tên tuổi với nhiều
công dụng chữa bệnh.
Thảo dược tính
Hẹ có tên chữ Hán là cửu thái, tên khoa học là Allium odorum L; họ hành. Theo quan niệm
đông y, hẹ vừa là thức ăn vừa là vị thuốc. Về công dụng chữa bệnh của hẹ, có thể tìm thấy
trong nhiều tài liệu y học cổ truyền, bài thuốc, cây thuốc Chữa trị từ các bệnh thông
thường như ho, cảm, táo bón, đau răng cho đến các chứng mãn tính, phức tạp như
suyễn, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, đau thận
Theo nghiên cứu tây y, trong 1kg hẹ có 5 – 10g chất đạm, 5 – 30g đường, 20mg vitamin
A, 89g vitamin C, 263mg canxi, 212mg phốt pho và nhiều chất xơ. Chất xơ trong hẹ có tác
dụng làm giảm đường huyết, giảm mỡ trong máu, ngừa xơ vữa động mạch, bảo vệ tuyến
tuỵ. Ngoài ra trong hẹ còn có chất odorin – một kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi
khuẩn khác.
Hẹ ăn sống
Như các loại rau sống thông thường khác, hẹ chủ yếu có mặt trong các món cuốn. Ngoài
việc trộn chung với các loại rau sống, hẹ còn có mặt trong món dưa giá. Trong món này đu
đủ, củ đậu và giá đóng vai trò chính, nhưng thiếu hẹ khó có thể thành dưa giá được. Bởi
cái vị hăng hăng của hẹ làm cho dưa giá ngon hơn, ăn với món cá nấu ngọt hay cá kho có
thể khử mùi tanh, tạo vị chua và thơm ngon hơn.
Hẹ ăn chín
Với mì hoành thánh, hẹ thay thế hành lá làm rau nêm. Nếu hành xắt nhỏ, thì hẹ lại xắt
khúc ngắn, ăn hơi dai dai, có vị riêng, khác với nêm hành lá. Ngoài ra, hẹ còn làm gia vị
nêm nếm trong các món canh cá, nhất là canh cá nấu măng chua.
Thông dụng hơn, hẹ thái nhỏ, xào với dầu (mỡ) thành món mỡ hẹ, thoa trên mặt dĩa bánh
hỏi, bánh ướt… Bởi nhiều người không thích mỡ hành vì hăng, cay, nồng hơn hẹ.
Canh hẹ nấu với đậu hũ
Phổ biến trong các bữa cơm gia đình có lẽ là canh hẹ nấu với đậu hũ. Có nhiều cách nấu,
người băm nhuyễn thịt nạc rồi trộn đều với đậu hũ đã bóp nát, vê viên nấu với hẹ; người
thích ăn canh chỉ có đậu hũ và hẹ; cũng có người lại nấu canh vừa có thịt nạc băm
nhuyễn, đậu hũ cắt miếng cùng với hẹ cắt đoạn ngắn…
Ở các vùng quê miền Trung phổ biến có món xác đậu xào hẹ. Xác đậu là phần xơ còn lại
khi làm đậu hũ. Xác đậu xào với dầu rồi cho hẹ vào đảo chín, nêm nếm vừa ăn. Món này
ăn xúc với bánh tráng nướng.
Bánh hẹ
Bên ngoài áo gạo nếp bên trong là hẹ
Đặc biệt hơn, xây dựng “thương hiệu” cho rau hẹ có lẽ là món bánh hẹ mà có người cho
rằng có xuất xứ từ người Tiều mang qua Việt Nam. Cũng có người cho rằng món bánh hẹ
của người xứ Quảng. Quan niệm nào cũng có lý khi mà bánh hẹ của người Tiều làm từ bột
há cảo, còn bánh hẹ người Quảng làm từ bột gạo trộn với bột năng.
Bánh hẹ là một loại bánh có đường kính to bằng khoảng cái chén, dày khoảng 15mm bên
ngoài bọc bột há cảo và bên trong phần nhân chỉ có hẹ. Cho nước sôi vào bột há cảo (hay
bột gạo và bột năng) trộn đều rồi nhồi cho đến khi bột mịn.
Hẹ rửa sạch, phơi thật khô (nếu còn nước sẽ làm bột bị nhão). Xào tôm thịt, lạp xưởng
chín rồi trộn vào hẹ, nêm nếm vừa ăn. Lấy cục bột cán dẹp cho nhân vào. Cái khéo là tạo
dáng cho cái bánh tròn sắc cạnh, đẹp. Xong đem hấp. Có người ăn hấp, có người hấp xong
rồi chiên.
Bánh hẹ ăn với mắm ớt tỏi và đồ chua. Có mùi vị vừa giống bánh xèo, vừa có vị ngọt,
thơm của hẹ
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#6
08-01-2008, 12:12 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Hành ta - Thuốc kháng sinh tự nhiên
Thứ sáu, 22/02/2008
Chất alicine trong hành ta diệt khuẩn rất mạnh nhưng lại dễ mất tác dụng khi nấu. Vì vậy,
chỉ nên cho vào món ăn khi chuẩn bị tắt bếp.
Hành ta có lá dài, củ nhỏ, thường được sử dụng trong nấu ăn như một gia vị quen thuộc.
Thế nhưng cây hành ta nhỏ bé còn chứa đựng trong nó nhiều bí mật mà không phải bà nội
trợ nào cũng biết.
Hành chứa một lượng đáng kể can xi, phốt pho và kali, carotene và chất sắt, rất tốt cho cơ
thể. Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng không phải điều quý nhất của nó.
Hành chứa rất nhiều thành phần hóa học có tác dụng phòng chữa bệnh như acid malic,
phytin và alylsulfit, tinh dầu, đặc biệt là chất kháng sinh alicine hòa tan trong nước. Alicine
giúp diệt khuẩn rất mạnh đối với một số bệnh như thương hàn, lỵ, vi trùng tả, trực khuẩn,
bệnh bạch hầu. Tuy nhiên, nó lại dễ mất tác dụng bởi nhiệt, kiềm. Vì vậy, trong khi nấu
ăn, hành là gia vị cho vào cuối cùng để tránh mất chất alicine.
Hành cũng chứa chất kháng khuẩn fitoncidi. Khi có dịch bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp,
nên ăn hành sống để dự phòng.
Do chứa nhiều chất kháng sinh nên tinh dầu hành có tác dụng sát khuẩn mạnh, dùng thoa
bên ngoài chữa mụn nhọt mưng mủ. Vì hành có thể kích thích được tuyến mồ hôi nên còn
được sử dụng như một thức ăn giải độc. Người ta vẫn nấu cháo hành để chữa cảm mạo,
phong hàn, nhức đầu. Ăn cháo hành nóng cũng chữa đau lưng, kiết lỵ.
Ngoài ra, hành còn có tác dụng hạ thấp mỡ trong máu, có hiệu quả trị liệu nhất định đối
với bệnh tim mạch. Nước ép hành rất tốt cho việc điều trị bệnh thiếu máu. Hợp chất lưu
huỳnh có trong gia vị này giúp ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư.
Một số bài thuốc chữa bệnh từ cây hành ta
- Hành giã nát ngâm trong nước sôi, xông hoặc nhỏ mũi chữa ngạt mũi cấp tính và mãn
tính, viêm niêm mạc mũi.
- Cảm cúm, nhức đầu: Lấy hành ta 6 - 8 củ, gừng sống 10g, xắt mỏng, đổ vào 1 cốc nước
sôi, xông miệng mũi mỗi ngày 2 - 3 lần. Đồng thời, nên sắc nước gừng và hành để uống (1
ly giữa bữa ăn và 1 ly trước khi đi ngủ).
- Động thai: Hành ta tươi 60g, sắc uống dần đến khi yên thai thì thôi.
- Tăng huyết áp: Hành tây 2 - 3 củ xắt lát, trộn đường ăn, hoặc nấu nước uống thường
xuyên. Uống 4 - 5 lần, huyết áp sẽ hạ.
- Tắc ruột do giun đũa: Lá hành tươi 30g giã nát, trộn với 30g dầu vừng (dầu mè). Uống
ngày 2 - 3 lần.
- Nghiền nát hành sống đắp lên trên trán có thể làm giảm đau đầu.
- Các củ hành nhỏ có thể được sử dụng như thuốc long đờm. Nghiền nát rồi trộn với đường
phèn, để một lúc cho nước chảy ra. Dùng khoảng 3-4 thìa cà phê nước ép này để làm dịu
đi chứng ho và đau họng.
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#7
08-01-2008, 12:14 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Dâu ta - "Quả thánh trong dân gian"
Thứ tư, 20/02/2008
Tên khoa học là Fructus Mori Albae hay còn gọi là tang thực, tang táo, tang quả, ô thầm,
bắc thầm là tên gọi dân dã của quả dâu, một thứ trái cây hết sức phổ biến và rẻ tiền mà
lại có nhiều công dụng, người ta còn gọi dâu là "quả thánh trong dân gian".
Quả dâu chứa nhiều protein hoạt tính, vitamin và nhiều khoáng chất khác. Y học tôn vinh
dâu là "loại bảo vệ sức khỏe tốt nhất của thế kỷ 21". Vào khoảng thời gian chuyển từ mùa
xuân sang mùa hạ, quả dâu được bày bán rộng rãi. Quả dâu thường dùng để ăn sống,
ngâm với đường kính chế biến nước giải khát dùng cho cả mùa nóng. Ngoài ra quả dâu còn
có cách chế biến rất đơn giản mà hiệu quả, đó là sử dụng dưới dạng trà, cổ nhân gọi là trà
tang thầm.
Công dụng
Quả dâu theo Đông y có vị chua ngọt, tính lạnh, có công dụng tư âm dưỡng huyết, bổ can
ích thận, sinh tân nhuận tràng, ô phát (làm đen dâu tóc) và trừ phong thấp, thường được
dùng để chữa các chứng bệnh do can thận bất túc gây nên như đầu choáng mắt hoa, lưng
đau gối mỏi, tai ù điếc, râu tóc bạc sớm, mất ngủ hay mê, tiêu khát (đái đường), táo bón,
các khớp vận động khó khăn
Quả dâu còn có tác dụng tăng cường công năng miễn dịch, thúc đẩy cơ năng tạo huyết,
làm giảm hoạt tính lên men của Na, K ở màng hồng cầu giúp cân bằng quá trình sản nhiệt
của cơ thể.
Giảm mỡ máu, phòng xơ cứng động mạch: axit béo trong dâu có tác dụng phân giải mỡ,
giảm thiểu mỡ máu, phòng trừ xơ cứng động mạch.
Tốt cho tóc, dưỡng da, chống lão hóa: quả dâu có tác dụng cải thiện da, (bao gồm cả da
đầu), cung ứng máu, dinh dưỡng cho da, khiến cho da luôn được cải thiện, kéo dài sự tươi
trẻ cho làn da.
Tốt cho mắt: thường xuyên ăn quả dâu giúp mắt luôn khỏe mạnh, giảm chứng mỏi mắt khi
làm việc lâu.
Thúc đẩy tiêu hóa: quả dâu có tác dụng bổ sung dịch vị thiếu, tăng cường sức tiêu hóa co
dạ dày. Khi vào đường ruột nó kích thích niêm mạc, tăng cường công năng nhu động ruột.
Một số món ăn bài thuốc từ quả dâu
Dâu ta là một loại quả món ăn vị thuốc
60gr quả dâu tươi, 30gr long nhãn, hầm nhừ ngày ăn hai lần, trị bệnh thiếu máu.
50gr quả dâu, 15gr mỗi thứ nhục thung dung, vừng đen, 10gr chỉ thực (vị đông y), sắc
nước uống, ngày 1 thang, trị bệnh nóng trong, táo bón.
10gr quả dâu, 10gr ngũ vị tử, sắc nước uống, ngày 2 lần, trị bệnh ra mồ hôi, mồ hôi trộm.
60gr quả dâu tươi, sắc nước uống. Hoặc quả dâu tươi đun cho đặc sánh lại mỗi ngày 10-
15gr, uống với nước nóng và một chút rượu gạo. Trị bệnh đau bụng huyết hư, đau dây
thần kinh.
Nước ép quả dâu, mỗi lần 15gr, liên tục trong vài ngày trị được táo bón.
15gr quả dâu sắc nước uống thường xuyên, trị bệnh mất ngủ.
Cao mật ong quả dâu: nước ép quả dâu, đun nhỏ lửa cho đến khi sánh lại, thêm lượng mật
ong vừa phải vào quấy đều, chưng tiếp cho đến khi thành cao, để nguội cho vào bình
phong kín. Sáng tối ăn 1-2 thìa canh, dùng với nước ấm, trị bệnh bạc tóc sớm, khí huyết
hư tổn.
15gr quả dâu, 15gr cát căn, 8gr hoàng cầm, 8gr cúc hoa, 8gr tiểu kế, hãm uống như trà
để chữa cao huyết áp.
10gr quả dâu, 6gr bạch truật, hãm uống để chữa chứng chậm tiêu.
15gr quả dâu, 15gr kỷ tử, 15gr đại táo, hãm uống để chữa chứng đầu choáng mắt hoa.
15gr quả dâu, 15gr long nhãn hay 15gr quả dâu, 12gr thỏ ty tử, 12gr nữ trinh tử, 12 gr kỷ
tử, 8gr thục địa, 8gr tiên linh tỳ, 8gr phá cố chỉ. Tất cả cho vào phích hãm uống để chữa
thiếu máu.
15gr quả dâu, 15gr hà thủ ô, 15gr nữ trinh tử và 10gr cỏ nhọ nồi. Hãm uống chống râu tóc
bạc sớm.
15gr quả dâu, 15gr nhục dung, 15gr vừng đen và 8gr chỉ xác sao. Hãm uống để chữa táo
bón.
15gr quả dâu, 3gr hồng hoa, 12gr kê huyết đằng. Hãm uống để trị chứng bế kinh.
30gr quả dâu, 15gr địa cốt bì và 15gr đường phèn. Hãm uống để trị chứng ho khan ít đờm
về lao phổi.
Một số lưu ý trong cách dùng
Không được ăn quả dâu cùng với trứng vịt.
Người bị bệnh tiểu đường, người phế hư, đi ngoài không được ăn. Không nên ăn quả dâu
xanh. Trẻ em không nên dùng nhiều.
Thích hợp đối với người bệnh gan thận, âm huyết, người đau lưng, hoa mắt chóng mặt, ù
tai, suy nhược thần kinh, mất ngủ, người trẻ bạc tóc sớm. Thich hợp với sản phụ huyết hư,
bí tiện, người sau khi bị ốm cơ thể suy nhược, người già nóng trong, bí tiện
Khi dùng cao dâu cấm không được dùng thìa sắt, khi dùng nên chọn đồ sứ.
Vì quả dâu tính lạnh và có tác dụng nhuận tràng nên những người hay bị rối loạn tiêu hóa,
đi lỏng do tỳ vị hư yếu và những người bị cảm mạo, ho nhiều do phong hàn không nên
dùng trà tang thầm. Khi pha trà này tuyệt đối không dùng ấm bằng kim loại.
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#8
08-01-2008, 12:15 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Nấm hương - Hoàng hậu thực vật
Thứ ba, 19/02/2008
Nấm hương được mệnh danh là "hoàng hậu thực vật", là "vua của các loại rau" (can thái
chi vương) vì nấm hương là loại thực vật giàu protein nhất (12 - 14g protein/100g nấm
hương khô, nhiều hơn bất cứ loại rau nào và có thể so sánh với lượng protein trong thịt).
Gọi là nấm hương vì loại nấm này có mùi hương rất hấp dẫn. Ngoài ra nấm hương còn
được gọi là nấm đông cô, hương cô, hương tím, hương tẩm
Nấm hương và tác dụng chữa bệnh
Sách Đông y viết về nấm hương vị ngọt tính bình, có công dụng bổ tỳ, ích khí, dưỡng
huyết, hòa huyết, tiêu đờm. Công dụng chữa bệnh của nấm hương đã được biết đến ở
Trung Quốc từ thời Xuân thu. Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định: nấm hương có
tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm
cholesterol máu, phòng ngừa sỏi thận và sỏi tiết niệu, trợ giúp tiêu hoá Vì vậy đây được
coi là thực phẩm cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối
loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng
Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể
Các polysaccharide trong nấm hương có khả năng hoạt hoá miễn dịch tế bào, thúc đẩy quá
trình sinh trưởng và phát triển của tế bào lympho, kích hoạt tế bào lympho T và lympho B
- những tế bào đóng vai trò chính trong việc bảo vệ cơ thể.
Nấm hương được coi là thực phẩm cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết
áp, tiểu đường, trẻ em suy dinh dưỡng
Kháng khuẩn và vi rút
Các nhà khoa học Mỹ và Nhật Bản đã chứng minh chất lenti-nan trong nấm hương có khả
năng kháng khuẩn, kháng vi rút, kháng nấm bệnh và ký sinh trùng. Đặc biệt lenti-nan làm
giảm mạnh sự suy sụp khi trị liệu hoá chất cho chuột gây lao phổi thực nghiệm, chống lại
sự xâm nhiễm của vi rút viêm não VSV, vi rút Abelson, Schistosoma man - soni và
S.japonicum, chống bội nhiễm khuẩn ở các bệnh nhân AIDS.
Chống ung thư
Các công ty của Nhật như Công ty Ajinomoto, Yamanouchi đã từ sợi nấm hương bào chế ra
lentinan như là một dược phẩm chống ung thư, đặc biệt trong điều trị ung thu dạ dày cho
hiệu quả cao.
Đặc biệt lentinan đã được kiểm tra kỹ về hoạt tính chống ung thư cho kết quả là chất này
hầu như không có tác dụng phụ, do đó được áp dụng như một trị liệu pháp có hiệu quả cao
cho các bệnh nhân ung thư. Ngay cả trong những trường hợp ung thư đường dạ dày - ruột
đến giai đoạn 3, kết quả vẫn rất khả quan.
Giảm Cholesterol
Các nhà khoa học đã chứng minh nấm hương có khả năng làm giảm mức cholesterol và
các lipid trung tính trong máu. Chính vì vậy, nấm hương được sử dụng để điều trị các bệnh
về tim mạch.
Nấm hương có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ lượng cholesterol, triglycerid
và beta-lipoprotein trong huyết thanh, vì vậy có tác dụng điều tiết công năng tim mạch,
làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxy tiêu thụ và cải thiện tình trạng
thiếu máu cơ tim.
Giải độc và bảo vệ tế bào gan
Kết quả nghiên cứu cho thấy nấm hương có khả năng làm giảm thiểu tác hại của các chất
như carbon tetrachlorid, thioacetamide và prednisone đối với tế bào gan, làm tăng hàm
lượng glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm hương có tác dụng giải độc và bảo vệ
tế bào gan rất tốt.
Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hoá
Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hoá tế bào. Nấm hương có tác
dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm
chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ.
Một số món ăn cũng là bài thuốc dân gian chữa bệnh từ nấm hương
- Canh nấm hương: Nấu nấm hương với mộc nhĩ và thịt thành canh với lượng bằng nhau,
mỗi vị 10g là vừa Có tác dụng giảm mỡ máu, điều hòa lipid trong máu.
- Rau cần xào nấm hương: 400g rau cần, 50g nấm hương, 50ml dầu mè, một ít bột năng,
cùng gia vị. Rửa sạch rau cần, xắt thành từng đoạn dài 2cm, dùng muối trộn đều rồi rửa
sạch lại, để ráo nước. Nấm hương xắt lát. Bột năng hòa với 50ml nước và ít muối trộn đều.
Cho dầu mè vào chảo nóng, cho rau cần vào xào 2 - 3 phút, cho tiếp nấm hương vào. Sau
cùng cho nước bột năng vào, nấu sền sệt cho ra đĩa. Rất tốt cho người mỡ máu cao, người
bệnh mạch vành, đồng thời có tác dụng thanh nhiệt bình can.
- Gà hầm nấm: Nấm hương 250g, mộc nhĩ đen 100g, thịt gà mái 500g. Nấm hương và
mộc nhĩ ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch, thái chỉ. Thịt gà rửa sạch, chặt
miếng. Tất cả cho vào nồi, đổ một lượng nước vừa đủ, hầm nhừ bằng lửa nhỏ, chế thêm
gia vị, ăn nóng.
Công dụng: Kiện tỳ, bổ thận, ích khí, dưỡng huyết, dùng để chữa các chứng bệnh có biểu
hiện khí huyết suy nhược, mệt mỏi nhiều, mắt mờ, đầu choáng, mất ngủ, hay quên.
- Nấm nấu đậu: Nấm hương 200g, đậu tương 50g, dầu gừng và tỏi lượng vừa đủ. Nấm
hương ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch. Đậu tương ngâm nước rồi đãi bỏ
vỏ. Tất cả cho vào nồi, đổ nước vừa đủ rồi hầm nhừ, chế thêm dầu vừng, tỏi đập giập và
gia vị vừa đủ, ăn nóng. Rất tốt cho trẻ em bị còi xương, người già bị loãng xương và chứng
phù thũng.
- Bầu dục xào nấm: Nấm hương 100g, bầu dục lợn 2 đôi, gia vị vừa đủ. Nấm hương ngâm
nước cho nở hết rồi rửa sạch, cắt chân. Bầu dục lợn bổ đôi, ngâm nước lạnh 2 giờ, lọc bỏ
gân trắng rồi thái miếng. Xào nấm và bầu dục lợn riêng rẽ, khi chín thì trộn cả hai vào
nhau, chế thêm gia vị là được.
Công dụng: Bổ thận, tráng dương, kích thích tiêu hóa, thích hợp cho những người yếu sinh
lý, hay đau lưng, mỏi gối, ăn uống không ngon miệng.
- Hải sâm xào nấm: Nấm hương 15g, mộc nhĩ đen 15g, hải sâm 100g, gừng, tỏi và gia vị
vừa đủ. Nấm hương và mộc nhĩ ngâm nước cho nở hết rồi rửa sạch, cắt chân, thái chỉ. Hải
sâm ngâm nước lạnh vài giờ rồi làm sạch, thái miếng. Xào qua hải sâm rồi cho nấm hương
và mộc nhĩ vào, cho thêm tỏi giã nát, gừng tươi thái chỉ, gia vị, đun thêm vài phút là được.
Công dụng: Ích khí, bổ âm, cầm máu, tiêu viêm và phòng chống ung thư, đặc biệt là ung
thư dạ dày.
- Chân giò hầm nấm: Nấm hương 150g, chân giò lợn 1 cái, gia vị vừa đủ. Chân giò lợn làm
sạch, chặt miếng rồi đem hầm nhừ, cho nấm vào đun chín rồi chế thêm gia vị, ăn nóng.
Công dụng: bồi bổ âm dương, dưỡng huyết, kích thích sự thèm ăn, tăng số lượng và chất
lượng sữa ở phụ nữ nuôi con bú
Nguồn :tintuc.timnhanh.com
EnCon
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới EnCon
Tìm bài gởi bởi EnCon
#9
08-01-2008, 12:17 AM
EnCon
Super Leader Member
Tham gia ngày: Aug 2007
Bài gởi: 1,966
Cám ơn: 399
Được cám ơn 369 lần trong 297 bài
Đánh giá: (3)
Linh dược từ ngải cứu
Thứ hai, 18/02/2008
Ngải cứu là một loại rau dân dã được trồng ở khắp nước ta và các nước Âu, Á. Do ngải cứu
rất giàu dược tính nên nó chữa được nhiều bệnh nhất là các bệnh của phụ nữ.
Canh từ ngải cứu
Canh suông lá ngải cứu tươi non: Chữa đau tức ngực, ho do khí trời lạnh giá.
Canh bổ dưỡng cho phụ nữ sau sinh 15 -20 ngày: Lá ngải cứu tươi 100g rửa sạch. Gà giò 1
con đủ 1 bữa. Chọn được gà ác càng tốt. (lông trắng da thịt đen) mổ moi bỏ lòng, nhồi
ngải cứu vào bụng gà, hấp cách thuỷ. Cách ngày 1 con, cả liệu trình 7- 9 con.
Canh trứng gà ngải cứu, chữa đau bụng kinh do lạnh: Lá ngải cứu 30g, trứng gà 2 quả.
Nấu chín trứng với ngải cứu. Láy trứng ra bóc vỏ, rồi bỏ lại vào, nấu lại với ngải cứu 10
phút. Ăn trứng hàng ngày trong 7 ngày. Nếu thêm ít hồi hương có tác dụng sẽ mạnh.
Công thức này cũng được chỉ định bồi bổ sức khoẻ cho trường hợp ung thư tử cung (cổ và
thân).
Canh trứng gà Ngải cứu, gừng, chữa bế kinh, chậm kinh, thống kinh: Lá ngải cứu 9g,
trứng 2 quả, gừng 15g. Nấu như bài trên. Dùng 7 ngày trước khi có kinh.
Canh ngải cứu chữa sẩy thai liên tiếp: lá ngải cứu lâu năm 6g. Trứng gà 2 quả. Vò nát lá
ngải cứu cho vào túi nấu lấy nước bỏ túi bã, lấy nước đạp trứng vào đánh đều nấu chín. Ăn
cả cái và nước. Liên tục 3 lần. Hoặc lá ngải cứu 40g, trứng gà 1 quả nấu chung cho đến khi
trứng chín. Ăn trứng, uống nước. Ngày 1 thang, liên tục 7 ngày. Về sau cứ 1 tháng ăn 1
lần, mỗi lần 2 quả, liên tục cho đến khi sinh.
Cháo ngải cứu
Chữa động thai: lá ngải cứu tươi 50g, gạo tẻ 100g, đường đỏ vừa đủ. Thái nhỏ lá ngải cứu,
nấu lấy nước để nấu cháo. Khi ăn cho đường vừa phải, ăn nóng. Chia 2 lần ăn sáng, trưa.
Ăn liên tục 3 - 5 ngày.
Cháo ngải cứu chữa thấp khớp: lá ngải cứu 100g, lá lốt 200g, gạo xay 200g, rửa sạch hai
loại lá xay lấy nước 300ml hoà vào gạo. Đun lửa nhỏ, quay đều không để vón. Ăn nóng lúc
đói. Bã lá xào dấm nóng, đắp chườm chỗ sưng đau.
Cháo ngải hoa cúc: lá ngải cứu 100g, hoa cúc 50g, gạo tẻ 200g. Cách làm như trên.
Chào ngải cứu bìm bịp chữa đau liên sườn, đau khớp: lá ngải cứu 50g, bìm bịp 1 con, gạo
nếp 200g. Gia vị vừa đủ. Bìm bịp bóp chết, bọc đất bên ngoài dùng củi đốt cho đến khi đất
đỏ. Bóc đất, gỡ thịt ướp gia vị, còn (xương, đầu, cánh, chân ) thì giã nát lọc lấy 40ml
nước. Nấu chào nhừ rồi cho thịt, nước xương chim, lá ngải cứu đã thái chỉ vào cháo quấy
đều. Cháo sôi lại là được. Ăn nóng ngày 1 lần, liền 3 ngày (kinh nghiệm cho thấy hiệu quả
cao).
Làm thức uống
Blocked AdTrà: Các tiệm trà ở Nhật Bản bán lá ngải cứu khô để hãm uống bồi bổ sức khoẻ
(dùng cho cả sản phụ cho con bú). Để điều kinh cũng dùng cách này uống 6g – 12g chia 3
lần/ngày.
Sách Tây y hướng dẫn dùng lá ngải cứu chống mỡ máu, xơ cứng thành mạch, hạ huyết áp
cao. Lá ngải cứu hái trước 10 giờ sáng rửa sạch cho vào máy xay sinh tố, dùng cốc sứ để
uống. Nếu khó uống cho thêm một chút mật ong. Có thể hái sẵn cho vào túi nylon để
trong tủ lạnh.
Ngày khoảng 100g ngải cứu chia 3 lần uống trước bữa ăn chính.
Nước uống: Cho người động thai đau bụng 4 -8g lá tươi giã vắt lấy nước cốt hoà vào chén
mật ong đun sôi uống.
Nước ngải cứu tươi: Chữa đau bụng kinh – 1 nắm lá ngải cứu tươi vắt lấy nước uống.
Nước sắc ngải cứu: chữa kinh nguyệt kéo dài, ra nhiều máu, mệt mỏi suy nhược. Lá ngải
cứu khô 10g thêm 200ml sắc còn 100ml uống 1 lần, cho ít đường cho dễ uống.
Nước uống cho người cao huyết áp: ngải cứu khô 10g. Nấu trong đồ sứ (không dùng kim
loại). Nấu ngày nào uống ngày đó (không để qua đêm).
Nước sắc ngải cứu chữa chứng thương hàn (của Đông y) thời khí ôn dịch gây sốt cao, đầu
nhức, mạch hồng thực. Dùng lá ngải cứu khô 3 lạng (120g), uống nóng cho ra được mồ hôi
là khỏi (trửu hậu phương). Khi sắc thuốc ngải cứu có sách dặn “không để ngoài gió”
Rượu ngải diệp (Thánh tể tổng lục) để ôn kinh, chỉ thống, lá ngải cứu khô 30g, men rượu
vừa dùng. Nấu ngải cứu lấy nước đặc cho vào 2kg cơm nếp và men rượu gầy. Sau khi
ngâm xong, lọc bỏ bã, cất vào chai. Ngày uống vài lần.
Thuốc ngải cứu
Uống trong: Đã được một số công ty bào chế thành thuocó chữa điều kinh có công thức:
ích mẫu, hương phụ, ngải cứu với hàm lượng khác nhau, ở các dạng hoàn, cao lỏng, cao
đặc, viên nang.
Sách Đông y có nhiều cổ phương có ngải cứu, chủ yếu để chữa bệnh phụ nữ do rối loạn
kinh nguyệt (sớm, muộn, bế kinh, thống kinh ) về thai sản (động thai, sẩy thai) bồi
dưỡng sau sinh thiên về thể hàn, khí trệ.
Dùng ngoài: ngã tức ngực ngất xỉu. Lấy ngay ngải cứu tươi giã nhuyễn lấy nước hoà cùng
một lít rượu để uống, bã xoa đắp ngoài.
Trẻ em bị sốt cao cũng làm như trên nhưng chỉ để xoa khắp mình, trừ đầu mặt không xoa,
không uống.
Đau lưng lấy lá ngải cứu xào dấm đặt lên giường, lót lá chuối hoặc nilon nằm ngửa đặt
lưng lên ngải cứu. Hoặc nằm sấp, đắp chườm ngải cứu lên vùng thắt lưng.
Trị mụn ở mặt: Dùng lá non làm mặt nạ 20 phút sau đó rửa sạch. Dùng toàn thân thì sắc
lấy nước cho vào bồn tắm, chữa rôm sảy, mẩn ngứa, mỏi mệt.
Đau họng: giã ngải cứu lấy nước cốt uống từ từ, ít một, bã với ít dấm đắp bên ngoài cổ,
phía trước.
Cấm kỵ
Không nên dùng dài ngày. Người nhiệt âm hư không dùng, người cao huyết áp do âm hư
hoả vượng, không có hàn thấp, thai sản bình thường không dùng
Nguồn :tintuc.timnhanh.com