Khởi nghĩa
Hương Khê
Thứ ba, 14 Tháng 9 2010 04:53
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)
Phan Đình Phùng, thủ lĩnh Khởi nghĩa Hương Khê.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương,
và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu sự kết thúc sứ mạng lãnh
đạo chống thực dân Pháp của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam. Lãnh
đạo chính của khởi nghĩa là Đình nguyên tiến sĩ Phan Đình Phùng (1847-
1895), và một cộng sự đắc lực của ông là Quản cơ Cao Thắng (1864-
1893).
1. Tập hợp lực lượng:
Sau khi vua Hàm Nghi ban dụ Cần Vương (tháng 7 năm 1885), ở Hà Tĩnh
và Nghệ An đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang. Cuộc đầu tiên
là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung, Đức Thọ), sau đó là lần lượt các
cuộc:
-Khởi nghĩa của Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ (Hương Sơn, Hà
Tĩnh).
-Khởi nghĩa của Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc (Hà Tĩnh).
-Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân (Hà Tĩnh).
-Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà (Hà Tĩnh).
-Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An, v.v
Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, sau khi được vua Hàm Nghi và đại tướng
Tôn Thất Thuyết giao trọng trách tổ chức phong trào kháng Pháp ở Hà Tĩnh
(tháng 10 năm 1885), Phan Đình Phùng đã tiến hành tập hợp, phát triển
thành một phong trào có quy mô rộng lớn, dưới sự chỉ đạo thống nhất là
ông.
2. Địa bàn hoạt động:
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại
suốt 10 năm liên tục.
Ở bốn tỉnh này, Phan Đình Phùng đã chia địa bàn thành 15 quân thứ, đồng
thời dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu, ông cho xây dựng lực lượng và cơ
sở chiến đấu chính nằm ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê (Hà Tĩnh).
Theo sử liệu thì Phan Đình Phùng đã cho xây dựng bốn căn cứ lớn, đó là:
-Căn cứ Cồn Chùa ở xã Sơn Lâm (Hương Sơn, Hà Tĩnh), án ngữ đường sang
Nghệ An. Đây là nơi dự trữ lương thực và rèn đúc vũ khí.
-Căn cứ Thượng Bồng-Hạ Bồng ở tây nam Đức Thọ (Hà Tĩnh) dựa vào địa
thế của sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Ngoài ra, Phan Đình Phùng còn cho
lập nơi đây hệ thống hào lũy, đồn trại, kho lương, bãi tập, Đây là một căn
cứ lớn trong buổi đầu kháng chiến của nghĩa quân Hương Khê.
-Căn cứ Trùng Khê-Trí Khê nằm ở hai xã Hương Ninh - Hương Thọ thuộc
huyện Hương Khê. Đây là căn cứ dự bị, có đường sang Lào, phòng khi bị
quân Pháp bao vây.
-Căn cứ Vụ Quang ở phía tây Hương Khê. Nơi đây có địa hình hiểm trở, tựa
lưng vào dãy Trường Sơn. Từ đây, nghĩa quân có thể theo đường núi vào
Quảng Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay theo đường sông đi
xuống các vùng đồng bằng hoặc khi cần thiết có thể lánh sang Lào.
3. Tổ chức:
Theo giúp Phan Đình Phùng, có các trí thức như tiến sĩ Phan Trọng Mưu, cử
nhân Phan Quảng Cư, Ấm Ninh (Lê Ninh), và rất nhiều chỉ huy xuất thân
từ nhân dân lao động nghèo khổ như Cao Thắng, Nguyễn Chanh, Nguyễn
Trạch, Lê Văn Tạc, Phan Đình Can, Phan Đình Phong, Nguyễn Mục, Phan
Bá Niên,
Về tổ chức lực lượng, nghĩa quân được chia thành 15 quân thứ: Hà Tĩnh có
10, Nghệ An có 2, Quảng Bình có 2, và Thanh Hóa có 1. Các quân thứ được
xây dựng trên các cơ sở đơn vị hành chính, thường là huyện, có khi là xã, và
lấy tên nơi đó để gọi. Liệt kê ra như sau:
1/Khê thứ ở huyện Hương Khê (Hà Tỉnh), chủ huy là Nguyễn Thoại.
2/ Can thứ ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh), chỉ huy là Nguyễn Chanh và
Nguyễn Trạch.
3/ Lai thứ ở tổng Lai Thạch thuộc Can Lộc (Hà Tĩnh), chỉ huy là Phan Đình
Nghinh.
4/ Hương thứ ở huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), chỉ huy là Nguyễn Huy Giao.
5/ Nghi thứ ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), chỉ huy là Ngô Quảng và Hà Văn
Mỹ.
6/ Cẩm thứ ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), chỉ huy là Hoàng Bá Xuyên.
7/Thạch thứ ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh), chỉ huy là Võ Phát.
8/ Diệm thứ ở làng Tình Diệm thuộc huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), chỉ huy
là Cao Đạt.
9/ Lễ Thứ ở làng Trung Lễ, thuộc huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), chỉ huy là
Nguyễn Cấp.
10/ Kỳ thứ ở huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh), chỉ huy là Võ Phát.
11/ Anh thứ ở huyện Anh Sơn (Nghệ An), chỉ huy là Nguyễn Mậu.
12/ Diễn thứ ở huyện Diễn Châu (Nghệ An), chỉ huy là Lê Trọng Vinh.
13/ Thanh thứ ở Thanh Hóa, chỉ huy là Cầm Bá Thước.
14/ Bình thứ ở Quảng Bình, chỉ huy là Nguyễn Thụ.
15/ Lệ thứ ở huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), chỉ huy là Nguyễn Bí.
Mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 quân (buổi đầu tổng cộng có khoảng ngàn
quân và 500 khẩu súng tốt), đứng đầu là người có năng lực và uy tín. Nghĩa
quân có phục trang cùng một kiểu giống nhau.
Vũ khí của nghĩa quân, ngoài những thứ thông thường, họ còn có hàng trăm
khẩu súng tự chế (do Cao Thắng nghiên cứu rồi chế tạo theo kiểu súng của
Pháp) không khác gì kiểu súng của Pháp năm 1874, nhưng đạn không đi xa
được vì nòng súng không xẻ rãnh.
Phần lương thực và của cải chủ yếu là nhờ nhân dân đóng góp.
4. Phương thức tác chiến:
Nghĩa quân Hương Khê dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở với hệ thống công
sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích. Nghĩa quân luôn phân tán
hoạt động, đánh quân Pháp bằng nhiều hình thức, như: công đồn, chặn
đường tiếp tế, dùng cạm bẫy, và dụ đối phương ra ngoài đồn để diệt họ
5. Diễn biến:
Khởi nghĩa Hương Khê có thể chia làm hai giai đoạn chính:
-
Giai đoạn đầu (1885-1888):
Đây là giai đoạn chuẩn bị, xây dựng lực lượng và cơ sở chiến đấu. Sau một
vài trận tập kích và chống càn không hiệu quả, Phan Đình Phùng cho quân
rút về làng Phùng Công (Hương Sơn), rồi lại rút lên rừng núi đánh du kích,
và lực lượng gần như bị tan rã.
Đầu năm 1887, thấy thực lực nghĩa quân Hương Khê quá yếu, Phan Đình
Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng để ra Bắc đến các tỉnh Sơn Tây,
Hải Dương, Bắc Ninh, tìm sự hỗ trợ và liên kết lực lượng.
Ở lại Hà Tĩnh, Cao Thắng cùng các chỉ huy khác như Cao Nữu, Cao Đạt,
Nguyễn Niên, đem quân đến làng Lê Động (Hương Sơn, quê Cao Thắng)
để tổ chức lại lực lượng (mộ mới được 400 quân), luyện quân, rèn đúc vũ
khí (trong đó có khoảng 200 súng hỏa mai, sau đúc được thêm 350 khẩu
súng kiểu súng Pháp năm 1874)[6],.
-Giai
đoạn sau (1889-1896):
Cuối tháng 9 năm 1889, Phan Đình Phùng từ Bắc Kỳ trở về Hà Tĩnh. Sau
đó, ông cho mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp bốn tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, làm cản trở con đường đi lại Bắc-Nam của
quân Pháp.
Đối phó lại, thực dân Pháp cho bố trí nhiều đồn lẻ ở các nơi để phong tỏa
từng khu vực và kiềm chế hoạt động của nghĩa quân. Riêng ở Hương Khê,
đối phương đã lập tới 20 đồn, mỗi đồn có khoảng 30 lính đóng giữ[7].
Trong những năm từ 1889 đến 1892, nghĩa quân bốn tỉnh trên đã phối hợp
và hoạt động mạnh trên một vùng rộng lớn bao gồm Diễn Châu, Yên Thành,
Thanh Chương, Nghi Lộc, để đánh trả và quấy rối quân Pháp. Theo sách
Việt sử tân biên[8], thì nghĩa quân đã tổ chức được 28 trận lớn nhỏ trong
giai đoạn này, để tập kích và chống càn quét, như là: -Trận chống càn ở Cồn
Chùa và Khe Đen do Đề Niên (Phan Bá Niên) chỉ huy vào ngày 1 tháng 9
năm 1889.
-Trận tấn công đồn Dương Liễu vào ngày 15 và 16 tháng 12 năm 1889.
-Trận tấn công huyện lỵ Hương Sơn vào cuối tháng 12 năm 1889.
-Trận chống càn ở La Sơn và Thường Sơn do Đề Thăng và Phan Trọng Mưu
chỉ huy vào tháng 3 năm 1980.
-Trận phục kích đánh chặn quân Pháp tại làng Hốt (Phú Lộc, Can Lộc) do
Đốc Chanh (Nguyễn Chanh) và Đốc Trạch (Nguyễn Trạch) chỉ huy vào
tháng 4 năm 1890.
-Trận Trường Lưu (Can Lộc) vào đêm 26 rạng 27 tháng 5 năm 1980. Đến
đêm 31 tháng này, đồn Trường Lưu còn bị nghĩa quân đánh lần nữa, rồi tiếp
theo là đánh đồn Hương Sơn, v.v
Sau nhiều trận thua đau, kể từ đầu năm 1892 trở đi, thực dân Pháp cho mở
nhiều cuộc càn quét, trong số ấy đáng kể là trận càn lớn vào khu Hói Trùng
và Ngàn Sâu, là căn cứ của Cao Thắng, vào đầu tháng 8 năm 1892.
Để đối phó với quân Pháp, Phan Đình Phùng bố trí một lực lượng chống trả
tại chỗ, một nhóm khác đi hoạt động ở phía sau lưng đối phương, buộc họ
phải rút về vì sợ bị đánh tập hậu. Trong khoản thời gian này, đã xảy ra nhiều
trận giao tranh, đáng kể là trận:
-Ngày 7 tháng 3 năm 1892, nghĩa quân Hương Khê tiến đánh đồn Trung Lễ.
Sau đó, Bá hộ Thuận (Nguyễn Hữu Thuận) còn tiến đánh huyện Thạch Hà,
bắt được viên tri huyện. Còn Cao Thắng thì cho quân giả làm lính khố xanh
bắt sống được Tuần phủ Đinh Nho Quang.
-Đêm 23 tháng 8 năm 1892, nghĩa quân Hương Khê do Bá hộ Thuận
(Nguyễn Hữu Thuận) chỉ huy đã táo bạo tập kích vào tỉnh lỵ Hà Tĩnh, phá
được nhà lao và giải phóng hơn 70 nghĩa quân bị cầm tù.
Thấy nghĩa quân Hương Khê ngày càng lớn mạnh, quân Pháp một mặt tăng
cường càn quét, thu hẹp phạm vi hoạt động của quân, mặt khác tìm cách cắt
đứt liên lạc giữa các quân thứ, và giữa nghĩa quân với nhân dân.
Để phá thế bị bao vây và mở rộng địa bàn hoạt động, được Phan Đình Phùng
đồng ý, tháng 11 năm 1893, Cao Thắng đưa khoảng một ngàn quân từ Ngàn
Tươi mở trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An. Trên đường hành quân,
nhiều đồn trại đối phương bị phá bỏ. Nhưng trận trận tấn công đồn Nu ở
Thanh Chương (một huyện miền núi nằm ở phía tây nam thuộc tỉnh Nghệ
An), Cao Thắng bị thương nặng rồi hy sinh lúc 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho
nghĩa quân Hương Khê.
Lợi dụng cơ hội nghĩa quân bị mất người đứng đầu tài giỏi, quân Pháp tăng
thêm binh lực rồi siết chặt vòng vây. Nghĩa quân Hương Khê cố gắng đánh
trả những cuộc vây quét, nhưng thế lực của lực lượng ngày càng giảm sút.
Khoảng cuối năm này (1893), Phan Đình Phùng cho người đến vây nhà
Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, thuộc huyện Tuyên Hóa, chém lấy
đầu ông này để báo thù cho việc ông bắt vua Hàm Nghi giao cho quân Pháp.
Ngày 31 tháng 3 năm 1894, Bá hộ Thuân lại mang quân tập kích vào tỉnh lỵ
Hà Tĩnh lần nữa, nhưng sau đó phải rút lui về cố thủ tại núi Quạt và núi Vụ
Quang thuộc Hương Khê (nay thuộc huyện Vụ Quang).
Khoảng tháng 10 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1894), một đại thần thân Pháp là
Hoàng Cao Khải bắt tay vào việc khuyến dụ Phan Đình Phùng và nghĩa
quân của ông.
Năm 1895, thực dân Pháp điều võ quan thân Pháp là Nguyễn Thân đến phối
hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem ba ngàn quân đi đàn áp cuộc khởi
nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít
đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân số thảy đều thiếu thốn, khó bù
đấp. Mỗi lần đối phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi
Quạt rồi trở về núi Vụ Quang, và không thể ở đâu lâu quá ba ngày.
Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh
thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất nhiều.
Khởi đầu, ông cho quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại,
đồng thời chuẩn bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều đến
giữa dòng sông, thì ông cho phá kè trên nguồn, và tuôn cây xuống. Đối
phương phần bị nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở
hai bên bờ xông ra đánh nên bị thương vong rất nhiều. Theo Phạm Văn Sơn
thì sau trận này, phía Pháp ngoài số quân trang và đạn dược bị mất mát, còn
có ba sĩ quan và trên trăm lính bị tiêu diệt.
Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần ba ngàn quân do Nguyễn Thân cầm đầu
ngày càng xiết chặt vòng vây.
6. Kết thúc:
Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy
sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895[1].
Mười hai ngày sau khi thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thân mới tới
được căn cứ Vụ Quang. Sau đó, Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình
Phùng ở chân núi Quạt, đổ dầu đốt cho xương thịt ông cháy thành tro, rồi
trộn vào thuốc súng bắn xuống sông La [2].
Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu nơi rừng sâu nước
độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt rồi bị giết [3], một số khác thì rút qua
Xiêm La[4] hoặc ra hàng Khởi nghĩa Hương Khê đến đây kết thúc.
*
Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần vương cuối thế
kỷ 19, kéo dài suốt 10 năm, có quy mô rộng lớn, có tổ chức tương đối chặt
chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Cuộc
khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của
nhân dân (người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi). Về
quân sự, nghĩa quân đã biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt,
chủ động, sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như khi giao
chiến với đối phương. Khởi nghĩa Hương Khê thất bại do nhiều nguyên
nhân, chủ yếu là do nghĩa quân chưa biết liên kết, tập hợp lực lượng, phát
triển thành phong trào toàn quốc. Đó cũng chính là những hạn chế của thời
đại, của bộ phận lãnh đạo phong trào Cần vương nói chung.
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
Chú thích:
[1] Sách Lịch sử Nghệ Tĩnh cho biết: Trước đây, thực dân Pháp tung tin
Phan Đình Phùng mất vì bệnh kiết lỵ, nhưng căn cứ theo bức công điện cũa
Khâm sứ Trung Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương, thì ông đã hy sinh anh
dũng (dẫn theo Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2), tr. 84.
[2] Chép theo Lịch sử 11 (nâng cao, tr.257). Trần Trọng Kim thì chép như
sau: Có người nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau
lại cho đem chôn (tr. 568). Thông tin thêm: Nhờ đánh dẹp được cuộc khởi
nghĩa này mà Nguyễn Thân được thăng phụ chính thay cho Nguyễn Trọng
Hợp về hưu và được chính phủ Pháp tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh
tam hạng. Đến khi già yếu về hưu trí tại Thu Xà (Quảng Ngãi), Thân bị bệnh
điên cuồng mà chết. (Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 168–182).
[3] Theo Phạm Văn Sơn thì thực dân Pháp đã cho xử tử 23 người trong cấp
chỉ huy của lực lượng Hương Sơn (sách đã dẫn, tr. 167).
[4] Số người qua Xiêm La, sau này trở thành cơ sở của Việt nam Quang
phục hội và phong trào cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 (theo
Lịch sử 11, tr. 257).
Sách tham khảo:
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn,
1968.
-Phạm Văn Sơn,
Việt sử tân biên (quyển 5, tập trung). Tác giả tự xuất bản,
Sài Gòn. 1963.
-Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ,
Đại cương lịch sử
Việt Nam
(tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006.
-Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính,
Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX],
quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
-Nhiều tác giả (Phan Ngọc Liên chủ biên),
Lịch sử 11 (nâng cao). Nhà xuât
bản Giáo Dục, 2007.
-Trịnh Vân Thanh,
Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2), Sài
Gòn, 1966,.
-Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4). Nhà xuất bản Trẻ,
2007.