Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.17 KB, 7 trang )

Chuẩn mực kế toán về công cụ
tài chính
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 210/2009/TT-BTC ngày 6/11/2009 hướng
dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày BCTC và thuyết minh thông
tin đối với công cụ tài chính.

Giới thiệu

Thông tư 210 có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế Việt Nam với thế giới và nâng cao tính minh bạch của BCTC. Nó cũng
minh chứng cho cam kết của Việt Nam từng bước tiến tới áp dụng tất cả các chuẩn
mực kế toán quốc tế. Cả người sử dụng và người lập BCTC sẽ được hưởng lợi từ
việc thực hiện Thông tư 210, mặc dù người lập BCTC gặp nhiều thách thức và khó
khăn trong giai đoạn đầu.

Tính đến thời điểm thông tư này được ban hành, các chuẩn mực kế toán quốc tế
(IAS) về công cụ tài chính gồm có: IAS 32 - Công cụ tài chính: Trình bày; IAS 39
- Công cụ tài chính: Ghi nhận và xác định giá trị; Chuẩn mực BCTC quốc tế
(IFRS) số 7 - Công cụ tài chính: Thuyết minh. Ba chuẩn mực này (gọi chung là
các IAS về công cụ tài chính) được coi là nằm trong nhóm các chuẩn mực khó,
phức tạp và có ảnh hưởng sâu rộng nhất tới các đơn vị trong việc lập và trình bày
BCTC. Còn tại Việt Nam thì chưa có các chuẩn mực này. Thông tư 210 ra đời,
nhưng mới chỉ bao gồm IAS 32 và IFRS 7, mà chưa có IAS 39 (dự kiến, trong
tương lai gần sẽ được ban hành).

Thông tư 210 được áp dụng cho tất cả các đơn vị thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành
phần kinh tế tại Việt Nam có các giao dịch liên quan đến công cụ tài chính. Do
công cụ tài chính là định nghĩa rộng, bao trùm nhiều loại hình tài sản và nợ phải
trả tài chính nên việc áp dụng các chuẩn mực sẽ có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều
tổ chức, đặc biệt là các DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng.


IAS 32 - Công cụ tài chính: Trình bày

Mục đích của IAS 32 là hướng dẫn các nguyên tắc trong việc trình bày các công
cụ tài chính trên BCTC.

Phân loại

IAS 32 yêu cầu tổ chức phát hành các công cụ tài chính phải phân loại công cụ đó
là nợ phải trả tài chính hoặc công cụ vốn chủ sở hữu phù hợp với bản chất và định
nghĩa của nợ phải trả tài chính và công cụ vốn chủ sở hữu. Ví dụ, cổ phiếu ưu đãi
phải được tổ chức phát hành trình bày là nợ phải trả khi công cụ này có nghĩa vụ
theo hợp đồng trả tiền cho người nắm giữ công cụ.

Các công cụ tài chính không phải là công cụ vốn chủ sở hữu được tổ chức phát
hành trình bày là nợ phải trả, dẫn tới giảm vốn chủ sở hữu và lợi nhuận, cũng như
có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hệ số đòn bẩy và cơ cấu vốn. “Cổ tức” trả cho công
cụ được phân loại là nợ phải trả được ghi nhận là chi phí lãi.

Trình bày

Một số công cụ tài chính có cả thành phần nợ phải trả và thành phần vốn chủ sở
hữu, ví dụ như trái phiếu chuyển đổi. Giá trị ghi sổ ban đầu của công cụ tài chính
phức hợp này được phân bổ cho thành phần nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Phần
vốn chủ sở hữu (quyền chuyển đổi thành cổ phiếu) thường được xác định là giá trị
còn lại của công cụ tài chính sau khi trừ đi giá trị hợp lý của phần nợ phải trả.

Yêu cầu này của IAS 32 không phải dễ thực hiện, do DN phát hành sẽ phải xác
định giá trị hợp lý của nợ phải trả không có quyền chọn chuyển đổi. Đồng thời,
xem xét các điều khoản chuyển đổi để xác định xem liệu quyền chuyển đổi sẽ
được hạch toán vào vốn chủ sở hữu hay là công cụ phái sinh. Ví dụ, các DN tại

Việt Nam phát hành trái phiếu chuyển đổi với điều khoản được tất toán nghĩa vụ
bằng cách chuyển chúng thành một số lượng thay đổi cổ phiếu, tùy thuộc vào giá
trị thị trường của cổ phiếu, sẽ được coi là nợ phải trả tài chính toàn bộ, mà không
có cấu phần vốn chủ sở hữu.

Tại Việt Nam, các quy định và chế độ kế toán hiện hành đã bước đầu có các
hướng dẫn về việc phân loại công cụ tài chính, cũng như về trình bày công cụ tài
chính phức hợp. Tuy nhiên, quy định hiện hành còn chưa chi tiết và chưa có các
nguyên tắc bao trùm các tình huống có thể phát sinh thực tế.

Do các yêu cầu này của IAS 32 và để đảm bảo cơ cấu vốn và kết quả kinh doanh,
DN nên xem xét tất cả các điều khoản của các công cụ tài chính đã phát hành và
đưa ra những hành động kịp thời như mua lại công cụ, thay đổi các điều khoản để
qua đó giảm hoặc triệt tiêu các ảnh hưởng không đáng có.

IFRS 7 - Công cụ tài chính: Thuyết minh

Mục đích của IFRS 7 nhằm hướng dẫn thuyết minh về công cụ tài chính để giúp
cho người sử dụng BCTC đánh giá ảnh hưởng của công cụ tài chính đến tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh của DN, cũng như đánh giá bản chất, phạm vi và
cách thức quản trị các rủi ro phát sinh từ công cụ tài chính của chính DN. Chuẩn
mực này được ban hành dựa một phần vào Chuẩn mực IAS 30 dành cho ngân
hàng mà Bộ Tài chính đã ban hành. Tuy nhiên, IFRS 7 bổ sung nhiều yêu cầu bắt
buộc phải trình bày thông tin, như thông tin định tính và định lượng liên quan đến
rủi ro thị trường. Hơn nữa, chuẩn mực này áp dụng cho tất cả các loại hình tổ
chức, DN có nắm giữ các công cụ tài chính, chứ không chỉ các tổ chức tín dụng.

Ông Đào Thanh Tùng là Giám đốc Dịch vụ tài chính ngân hàng của Ernst &
Young. Ông có trên 12 năm làm việc tại Việt Nam và Úc, chuyên về kiểm toán và
tư vấn các DN hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính. Kinh

nghiệm của ông bao gồm các chuẩn mực lập và trình bày BCTC quốc tế (IFRS),
quản trị rủi ro, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ, hoàn thiện hiệu quả hoạt
động. Ông là thành viên của Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh (ACCA), CPA
Australia và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Bạn đọc có thể
liên hệ với ông Tùng qua email hoặc điện thoại số
0978 813 666.

Thuyết minh về giá trị hợp lý

DN phải thuyết minh giá trị hợp lý của những tài sản và nợ phải trả tài chính để có
thể so sánh với giá trị ghi sổ, cùng với thông tin về các phương pháp xác định giá
trị hợp lý. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với nhiều đơn vị ở Việt Nam do phần
lớn khoản mục hiện ghi sổ theo giá gốc và việc xác định giá trị hợp lý trong nhiều
trường hợp không đơn giản và có thể phải dùng tới các mô hình tính toán.

Thuyết minh định tính và định lượng

Đối với mỗi loại rủi ro phát sinh từ các công cụ tài chính, DN phải thuyết minh
các thông tin về số liệu, mức độ và cách thức phát sinh rủi ro, các mục tiêu, chính
sách, quy trình quản lý rủi ro và phương pháp sử dụng để đo lường rủi ro.

Các DN cũng sẽ phải xác định mức độ ảnh hưởng đến kinh doanh khi nhiều thông
tin quản lý rủi ro được sử dụng nội bộ bởi Ban giám đốc thì nay phải thuyết trình
ra bên ngoài.

Thuyết minh về rủi ro tín dụng

Sẽ có nhiều thông tin phải trình bày, trong đó có những nội dung không đơn giản
trong việc lấy dữ liệu, như ước tính về giá trị hợp lý của tài sản đảm bảo nắm giữ
bởi DN đối với tài sản tài chính đã quá hạn hoặc giảm giá.


Thuyết minh về rủi ro thanh khoản

DN phải phân tích thời gian đáo hạn còn lại dựa theo hợp đồng của các khoản nợ
phải trả tài chính. Đối với nhiều ngân hàng, việc quản lý thanh khoản được dựa
nhiều hơn trên thông tin về luồng tiền ước tính. Do đó, thông tin về đáo hạn theo
hợp đồng có thể đưa ra bức tranh xấu hơn trên thực tế. Vì vậy, DN nên cân nhắc
giải thích bổ sung trong những trường hợp như vậy.

Thuyết minh về rủi ro thị trường

DN phải thuyết minh và phân tích độ nhạy cảm đối với mỗi loại rủi ro thị trường
(như lãi suất, tỷ giá, giá chứng khoán) tại ngày báo cáo, chỉ rõ mức độ ảnh hưởng
tới kết quả của DN bởi thay đổi hợp lý trong các biến số rủi ro liên quan có khả
năng tồn tại tại ngày báo cáo.

DN nên khảo sát xem hệ thống kế toán hiện tại đáp ứng được đến đâu yêu cầu
thông tin và nếu cần thiết sẽ phải có giải pháp thay thế, ví dụ như xây dựng mô
hình định lượng phân tích độ nhạy cảm hoặc áp dụng phương pháp quản lý rủi ro
phù hợp để xác định ảnh hưởng của rủi ro. Việc xác định mức độ thay đổi hợp lý
cũng không đơn giản và cần các ước tính và cách tiếp cận nhất định.

Đề xuất các giải pháp

Thời gian không còn nhiều cho việc chuẩn bị áp dụng

Mặc dù Thông tư 210 được áp dụng từ năm 2011 trở đi, nhưng thời gian còn lại để
chuẩn bị cho việc áp dụng Thông tư này là không nhiều. Lý do chính bao gồm:

* Nội dung các chuẩn mực phức tạp, không chỉ đơn thuần bộ phận tài chính kế

toán của DN có thể thực hiện được, mà trong nhiều trường hợp, sẽ phải có sự
chuẩn bị đầy đủ về hệ thống công nghệ thông tin, quy trình nghiệp vụ, cơ sở dữ
liệu… để cung cấp thông tin.

* Một trong những yêu cầu cơ bản trong chuẩn mực chung của Hệ thống Chuẩn
mực kế toán Việt Nam là tính có thể so sánh được của các thông tin giữa các kỳ kế
toán. Do đó, các DN nên cân nhắc lập số liệu so sánh cho ít nhất một năm. Ví dụ,
đối với BCTC đầu tiên lập theo yêu cầu của Thông tư 210 cho năm 2011, số liệu
so sánh được lập theo Thông tư 210 là cho năm 2010. Đối với các DN đã niêm yết
và lập BCTC giữa niên độ hàng quý, số liệu so sánh có thể là quý I/2010 cho kỳ
báo cáo đầu tiên kết thúc một năm sau đó.

Các đơn vị nên cân nhắc thực hiện các giải pháp sau:

* Đánh giá ảnh hưởng của các chuẩn mực này, lên kế hoạch thực hiện, tìm giải
pháp tương ứng và triển khai.

* Xây dựng chương trình, thay đổi hệ thống công nghệ thông tin, quy trình và
nghiệp vụ phục vụ cho thu thập và chiết xuất dữ liệu.

* Đào tạo nhân viên.

* Thông báo sớm về ảnh hưởng của các chuẩn mực này cho các bên có lợi ích
trong DN (như HĐQT, Ban điều hành, các cổ đông, tổ chức phân tích đầu tư, cơ
quan quản lý nhà nước). Đồng thời, đưa ra các hành động mà DN sẽ tiến hành để
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực, cũng như chiến lược quản lý rủi ro và mục tiêu, lý
do nắm giữ các công cụ tài chính.

Trong việc thực hiện các giải pháp trên, DN có thể dùng nguồn lực nội bộ hoặc
thuê bên ngoài. Đồng thời, DN cũng cần phối hợp chặt chẽ với kiểm toán viên để

đảm bảo quá trình chuẩn bị được suôn sẻ.

×