Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

BỨC THƯ CÀ MAU - ANH ĐỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.09 KB, 8 trang )

NHÀ VĂN ANH ĐỨC
QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ CÁC GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC
TÁC PHẨM "BỨC THƯ CÀ MAU"
Anh Đức tên khai sinh là Bùi Đức Ái. Ông sinh ngày 5-5-1935, quê ờ Bình
Hoà Châu Thành, An Giang.
-Năm 1952: Bắt đầu sự nghiệp văn chương – viết truyện ngắn đầu tay:
Chuyến lưới máu. Cũng trong năm 1952, viết tất cả được 8 truyện ngắn, tập
hợp thành truyện Biển Động – hầu hết về đề tài chiến tranh du kích. Cuối
năm 1952, tập truyện Biển Động được tặng Giải Ba, Giải thuởng Văn nghệ
Cửu Long (một cuộc thi do Uỷ ban Kháng chiến Hành chính và Chi hội Văn
nghệ Nam bộ tổ chức.)
- Năm 1952-1954: Chủ yếu viết phóng sự, ký sự theo nhiệm vụ của toà soạn
báo Cứu Quốc Nam bộ.
- Cuối năm 1954: Tập kết ra Miền Bắc
- Năm 1955: Tham gia đoàn công tác nông thôn
- Năm 1956: Công tác tại Phòng Văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Xuất
bản tập truyện ngắn Lão anh hùng dưới hầm bí mật - lấy đề tài từ cuộc
kháng chiến chống Pháp.
- Năm 1957: Viết tiểu thuyết Một truyện chép ở bệnh viện
- Năm 1958: Đi thực tế sáng tác cùng Nguyên Hồng, in một số truyện ngắn.
- Năm 1959: Xuất bản tiểu thuyết Một truyện chép ở bệnh viện
- Năm 1959-1969: tiếp tục đi thực tế sáng tác.
- Năm 1960: Tập hợp một số truyện ngắn in thành tập Biển xa.
- Năm 1961: Viết kịch bản Chị Tư Hậu dựa theo tiểu thuyết Một truyện
chép ở bệnh viện.
- Năm 1962: Trở lại chiến trường miền Nam.
- Năm 1963: Xuống Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau để thâm nhập thực tế sáng
tác
- Năm 1964: Xuất bản tập truyện kí Bức thư Cà Mau
- Năm 1965: Xuất bản tiểu thuyết Hòn Đất
- Năm 1966-1970: Tiếp tục sáng tác truyện và kí


Năm 1969: xuất bản tập tuyện kí Giấc mơ ông lão vườn chim
- Sau năm 1975: Xuất bản: tiểu thuyết Đứa con của đất (1976), tập truyện
ngắn Miền Sóng vỗ( 1985), Anh Đức – Hai mươi tryện ngắn (1990), Anh
Đức, tuyển tập tác phẩm (hai tập, 1997), Anh Đức – Truyện ngắn và bút kí
(2002).
Các giải thưởng văn học:
- Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long, Nam Bộ, 1952 ( tập truyện Biển Động)
- Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ 1958-1959 (truyện Con cá
song)
- Gỉai thưởng Huy chương Bạc Liên hoan phim Quốc tế Mátxcơva năm
1963 ( kịch bản phim Chị Tư Hậu).
- Giải thưởng Hồ chí Minh về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm Một
truyện chép ở bệnh viện, Bức thư Cà mau, Hòn Đất (2002).
ANH ĐỨC- NHÀ VĂN ĐỒNG HÀNH CÙNG THỜI ĐẠI CÁCH
MẠNG
Truyện ngắn của Anh Đức là tiếp tục những bút kí với sự tập trung miêu tả
những tình huống, những tính cách nhân vật. Những truyện ngắn này đều
xây dựng trên những cơ sở những câu chuyện có thực mà bút kí hay phóng
sự đã từng nói đến. Sau năm 1975, truyện ngắn Anh Đức được gia tăng tính
triết luận về đời sống – triết luận nhưng không rơi vào vấn đề thụần tuý, mà
thông qua hình tượng, qua chất trữ tình thấm đậm trong hình ảnh, câu chữ.
Cái chất trữ tình – lãng mạn trong phong cách nghệ thuật của Anh Đức trước
hết có thể nói xuất phát từ cách nhìn, cách cảm cuộc sống của nhà văn, là
“cái màu sắc lãng mạn của cuộc chiến đấu”. Có thể nói cảnh, người và tình
người trong truyện của Anh Đức lúc nào cũng “nhuốm màu sắc lãng mạn”.
Văn Anh Đức đọng lại trong lòng người đọc vì sự đằm thắm, trong trẻo và
dung dị, giàu chất Nam bộ. Văn Anh Đức lột tả được vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ
đẹp tâm hồn con người Nam Bộ. Đặc biệt Anh Đức có lối văn lột tả chân
dung tính cách nhân vật rất sắc nét.
Tới nay, hơn một nửa thế kí sáng tạo, Anh Đức đã có một khối lượng tác

phẩm khiêm tốn về số trang, nhưng đó là những trang văn chắt ra từ mồ hôi,
nước nắt và máu của một nhà văn đích thực. Sáng tác của Anh Đức hợp với
nghệ thuật “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “BỨC THƯ CÀ MAU”
Hầu hết những cây bút văn xuôi Cách mạng miền Nam tuy phải sáng tác
trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nhưng màu sắc trữ tình lại nổi lên đậm
nét. Ở Anh Đức, màu sắc trữ tình ấy có phần đậm nét hơn cả và đã trở thành
phong cách. Phong cách ấy chúng ta có thể thấy trước tiên qua các bài kí, mà
đa số ông đề gửi cho Nguyễn Tuân. Ông gửi cho Nguyễn Tuân, cho anh em
văn nghệ miền Bắc nhưng thực ra, đó là lòng anh, lòng của cả miền Nam
thân thương hướng về miền Bắc thân yêu, hướng về trái tim và niềm hi
vọng. Vì thế, đọc các bút kí của ông, chúng ta luôn có cảm giác như tác giả
đang trực tiếp nói chuyện với ta. Ông kể cho ta nghe về vùng quê của ông -
Cà Mau - nơi “cuối đất” của Tổ quốc, về những gian nan vất vả mà đồng bào
trong ấy đã trải qua trên hai mươi năm trời chiến đấu. Nhưng điều chính
nhất mà ông kể trong thư có lẽ là những thắng lợi ngày càng lớn mà đồng
bào miền Nam đã giành được kể từ sau ngày Đồng khởi.
Bức thư Cà Mau là thể kí của nhà văn Anh Đức, viết từ Cà Mau năm 1963
dưới hình thức bức thư gửi cho nhà văn Nguễn Tuân để trao đổi tình cảm.
Nhưng ở đây có một lượng thông tin rất lớn về con người và cuộc chiến đấu
của vùng đất mũi, mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc.
1 – Vùng đất Cà Mau :
Vùng đất Cà Mau trong thơ Xuân Diệu là cái “mũi thuyền” chịu đựng sóng
gió:
Tổ quốc ta như một con tàu
Mũi thuyền ta đó – mũi Cà Mau
Còn đối với Anh Đứcthì đó là mảnh đất xa xôi, nhưng đã có bao nỗi háo hức
muốn tìm hiểu về nó.
“Anh Tuân ạ! Sau lúc đọc xong bài của anh, tôi đặt tờ báo Văn nghệ, số 12
năm 1963 đó lên ngực mà suy tưởng mà ngẫm nghĩ, mà cảm động vô hồi.

Bởi vì anh nói với nhân vật Lý, Trần, Lê của anh rằng: anh chưa hề đặt chân
tới Cà Mau bao giờ. Nhờ địa lí và lịch sử, nhờ tiếp xúc với những anh như
Lý, nhất là nhờ vào tình yêu của anh dành cho mũi Cà Mau mà anh viết lên
những chữ nói về đất, về nước, về lò than, về cây đước, về những con người
cầm súng đứng dậy ở đây. Anh nói cũng khá sát, khá đúng. Lâu nay tôi
tưởng chẳng có anh nào ở miền Bắc hiểi nổi giá trị của một ca nước ngọt
ngày nắng hạn nơi đây…”
Tác giả cảm thấy vui, cảm động vì Nguyễn Tuân cũng như các nhà văn miền
Bắc đã biết, thấu hiểu được nhưng đặc điểm cũng như nỗi vất vả nơi vùng
đất cùng trời Tổ Quốc.
“… Tôi cảm động chính là vì anh đã nói đến mọi thứ đó, những cái mà ở
đây hầu như chúng tôi nghĩ tới nó hằng ngày, là mùi bùn bốc lên từ các bãi
bồi, là vị muối trong hơi thở của các con kinh ăn ra biển cả, là vị ngọt của ca
nước từ sông Hậu chở đến trong tháng nắng… Tôi cảm động hơn nữa vì
nhận ra sức mạnh của văn học với tình yêu không nén nổi, nó đã cất lên cái
tiếng nói “ ứng nghiệm lạ thường”.
Và ở Cà Mau, cỏ cây cũng sinh sôi nảy nở trong một tư thế rất đặc biệt có
cái sức mạnh của hoang dã, lại cũng có hàng lối của một loại cây trồng:
“…Ở Cà Mau đã lâu, tôi chưa hề gặp một cây đước nào bị dông gió thôi bật,
cho dù là một trận dông lớn nhất sức gió cũng không thể nhổ bật được hàng
trăm rễ đước cắm sâu xuống lòng đất. Vả chăng có cây nào đứng riêng lẻ
đâu? Nó đứng cạnh nhau, che chở cho nhau. Chỗ đứng đầu sóng ngọn gió lại
sản sinh ra loại cây khả dĩ có thể chống chọi được sóng gió”.
2 – Con người ở Cà Mau và cuộc sống của họ :
Hầu hết các tác phẩm của Anh Đức in trong hai tập Bức thư Cà Mau (1966)
và Giấc mơ ông lão vườn chim (1969), ông đều dành viết về vùng đất Cà
Mau – mảnh đất xa xôi mà gần gũi với mọi miền đất nướcvà là vùng quê
quen thuộc của nhà văn. Và bởi, trong quá trình sáng tác của mình, Anh Đức
đã xây dựng được một số tính cách điển hình cho những con người Nam bộ
nhất của miền Nam. Khi nói về cây đước, Anh Đức đã viết: “… Chỗ đứng

đầu sóng ngọn gió sản sinh ra loại cây khả dĩ có thể chống chọi được sóng
gió. Con người sinh ra ở đây cũng vậy, theo tôi, họ là những người Việt
Nam thống khổ nhứt, bị giai cấp áp bức mà vẫn bám riết cái chỗ hết đất hết
trời”. Phải chăng ở đây Anh Đức đã nắm bắt được cái nét bản chất nhất
trong những con người của đất Cà Mau – đó là sức chịu đựng phi thường và
sự kiên trì ghê gớm?
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết : “Con người Việt Nam ta, dân tộc ta rất
anh dũng trước kẻ thù, là thể hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, nhắm thẳng quân thù mà đánh. Vĩ đại lắm. Đó là đỉnh cao của chủ
nghĩa anh hùng Cách mạng. Nhưng đồng thời đó là những con người rất
hiền, rất là hiền. Những con người có những đức tính đẹp đẽ lắm. Đó là biểu
hiện của chủ nghĩa nhân đạo của giai cấp vô sản. Có thể nói rằng những
nhân vật của Anh Đức là sự cụ thể hoá bằng nghệ thật rất nổi bật nhận xét
của thủ tướng Phạm Văn Đồng về một đặc điểm tính cách của con người
Việt Nam ta.
3 – Cuộc chiến đấu của con người trên đất mũi :
Trong bức thư Cà Mau, Anh Đức kể nhiều đến những cuộc đấu tranh, những
tội ác man rợ của địch ở đất mũi Cà Mau: “ Ở Mũi Cà Mau, ngày nào cũng
có máu chan hoà vào các lòng kinh nước mặn, ngày nào cũng có đạn rốc-két
nổ phụp xuống rừng đước, ngày nào cũng có từng đống dây thép gai vây
quanh các ấp chiến lược bị cuốn tung lên… Các bà mẹ ngồi trên xuồng đi
đấu tranh vẫn điềm nhiên ngoáy trầu ăn, và các cô gái vừa bơi vừa sửa lại
khăn đội đầu cho ngay ngắn… Các chị vừa thoăn thoắt tay đan lưới, vừa kể
vừa cười rúc rích. Câu chuyện đi đấu tranh nghe như chẳng có gì là nguy
hiểm chết người cả. Những có những chị vừa cười vừa nói hồn nhiên với ta
đócó khi vài hôm sau ta không gặp lại họ nữa…” Với thái độ lạc quan yêu
đời, với giọng văn hồn nhiên, giản dị, chọn lọc mà không cầu kỳ như vậy đó,
Anh Đức kể cho chúng ta nghe về miền Nam. Nhiều câu chuyện thật ra
không lạ với chúng ta, vì chúng ta đã được nghe, được đọc những câu
chuyện tương tự, hay những câu chuyện mà đúng Anh Đức đang kể, ở

những bức thư, trên màn ảnh, ở ngay những người tham gia những hành
động anh hùng ấy. Nhưng, chúng ta vẫn muốn nghe Anh Đức kể.
Tấm lòng của người dân đất Cà Mau đối với Cách mạng thật sâu sắc và họ
đã đi vào cuộc chiến đấu thật bình thản, vững vàng. Không những họ bình
thản, ung dung trước giờ nổ súng mà cái chết đến với họ cũng thật nhẹ
nhàng. Đó là cái chết của anh thợ đốt lò, để lại vợ và đứa con thơ:
“ Có lần tôi đã trông thấy anh thợ đốt lò với khẩu súng tự tạo, lấy lò than của
mình làm công sự. Sau khi cùng toàn đội đẩy lùi cuộc càn, anh bị thương
nặng tự trong lò bò ra, người anh bám đầy than đen, ngực anh đầm đài
những máu. Trước lúc chết, anh ta bảo vợ bồng đứa con gái nhỏ lại gần, anh
kề miệng hôn đứa con mình lần cuối. Một vệt than in lên má con anh, sau đó
anh chết. Kỷ niệm cuối cùng anh để lại trên đời là vệt than trên má đứa
bé!”…
Những hình ảnh thật đau thương đang từng ngày xảy ra trên vùng đất hiền
hoà mà anh dũng, bao nhiêu người đã ngã xuống, nhuộm máu của mình cho
sắc son Tổ quốc hôm nay. Đó còn là cái chết của người chiến sĩ vừa bước
qua tuổi hai mươi. Khi chết anh vẫn không nhắm mắt, như vẫn còn luyến
tiếc cuộc sống, vẫn khao khát được cầm súng cùng đồng đội tiêu diệt kẻ
thù…
“ Có một anh chừng hai muơi tuổi chết rồi mà mắt cứ mở. Bà má vuốt mắt
anh nhưng mi mắt anh vẫn không khép lại. Má đưa tay vuốt mặt lần nữa.
Vừa vuốt má vừa thì thầm câu gì. Tôi nghe hình như má nói:
- Ngủ đi, ngủ đi con!
Cặp mắt ngườii chiến sĩ cuối cùng cũng khép lại…”.
Cái tạo ra sự bình thản, ung dung này bắt nguồn từ một suy nghĩ hết sức giản
dị nhưng đó là chân lí: “ … Biết làm sao bây giờ, hả con? Má sợ con má nó
chết lắm, nhưng má không thể giữ nó ở nhà với má được…”
Cái ung dung bình tĩnh ấy gắn liền với niềm lạc quan không bao giờ tắt
trong tâm hồn họ.
“ Họ có thể ngã xuống ở hàng đầu cuộc đấu tranh. Họ có thể bị bắt giam, bị

đánh bằng gậy gộc sắt, bị quay điện, bị ghim kim vào đầu ngón tay, …Ấy
vậy ngày ngày họ vẫn vui, vẫn cười. Tiếng hát tiếng hò của họ vẫn thường
vút lên trên các dòng kinh hoặc những cánh đồng đã cấy. Cuộc chiến đấu ở
mũi đất xa xôi này đước cái nó trẻ trung, nó tươi đầy…”.
“…Tính tới naăm 1963 này, người dân Cà Mau này đã trải qua ngót hai
mươi năm đánh giặc rồi anh Tuân ạ. Nếu không có thằng Mĩ, thì cuộc đời đã
vui tươi sung túc bằng mấy. Nhưng từ nay bước vào cuộc kháng chiến gian
khổ lâu dài, dân Cà Mau vẫn lạc quan theo đuổi tới cùng…”
Đã hai mươi năm rồi, miền Nam trong vòng khói lửa. Một thế hệ hoàn toàn
mới sinh ra dưới ngọn cờ Cách mạng tháng Tám thành công, nay đã cầm
súng đứng cạnh những cha chú của mình. Thế hệ mà khi ngã xuống “… có
anh chưa biết tình yêu là gì, chưa biết cái hơi thở ấm áp của một cô gai phả
vào mặt mình, chưa hề cầm nắm một bàn tay khác lạ ”. Ngó trở vè trước
lịch sử dân tộc thì quả thật những năm “thái bình an vui” của ông cha chúng
ta rất ít ỏi. Nhưng chưa bao giờ chiến đấu liên tục kéo dài và ác liệt như
ngày nay trên một nửa đất nước. Chỉ riêng tinh thần dẻo dai chịu đựng một
cuộc chiến đấu như vậy đã là một sự anh dũng tuyệt vời của đồng bào miền
Nam, của cả dân tộc ta. Nhưng đâu chỉ có thế. Từ không đến có. Từ nhỏ đến
to. Từ thấp đến cao, miền Nam càng chiến đấu càng trưởng thành. Miền
Nam đang trên đà chiến thắng. Và đâu phải chỉ có thế. Một điều lạ lùng là đã
hai mươi năm trong cuộc kháng chiến gay go, quyết liệt nhất mà con người
miền Nam của chúng ta vẫn tươi tắn. Tươi tắn như những này còn cầm đầu
gậy tầm vông vót nhọn đánh thẳng vào đầu thực dân Pháp. Tinh thần lạc
quan Cách mạng ấy hàng ngày, hàng giờ và khắp nơi ở miền Nam đã và
đang biểu thị ở vô vàn những hành động anh hùng của triệu người nam và
nữ, đủ các lứa tuổi. Tinh thần ấy như tác giả đã từng viết : “ … Lạc quan, lạc
quan ngay trước cái chết, đó là một đặc điểm lớn của con người miền Nam”.
Rõ ràng cuộc chiến đấu gian khổ ở miền Nam không làm cho tâm hồn ta sắt
lại, cằn đi, mà ngược hẳn, nó chỉ làm tâm hồn ta càng rộng mở và đầy thêm
sức sống. Càng căm thù kẻ địch bao nhiêu, chúng ta lại càng thương yêu

nhau và càng thấy yêu đời hơn bấy nhiêu. Yêu đời nhưng lại vẫn sẵn sàng vì
một cuộc đời tươi đẹp hơn cho tất cả mọi người mà dám hy sinh sự sống bản
thân khi cần thiết. Sự lạc quan tin tưởng và tinh thần hy sinh chiến đấu
không hề có gì mâu thuẫn mà luôn đi song song và hỗ trợ cho nhau. Có lạc
quan, tin tưởng thì mới có tinh thần tự tin để chiến đấu, có hy sinh chiến đấu
thì mới có thắng lợi để củng cố tinh thần lạc quan. Đọc bút kí của Anh Đức,
ta có thể thấy rõ ràng điều đó.
4- Tình cảm Bắc Nam ruột thịt :
Và một điều nữa chúng ta cũng thấy rõ trong các bút ký của ông – đó là mối
tình Bắc - Nam ruột thịt. Đất nước bị chia cắt làm cho bao nhiêu gia đình
phải người Bắc kẻ Nam, gây ra cảnh “ Kẻ đang trong nhớ ra đàng ngoài –
Kẻ đàng ngoài nhớ vọng vô trong”.Cảm động biết bao khi nghe lời tâm tình
của ông lão quê Kẻ Sặt ( Hải Dương), ngày nào cũng nhìn những đám mây
trên trời cao: “… Phải . Những đám mây ấy, tôi gửi về xứ quê tôi đấy, cậu
ạ.” Nhưng thực ra có kẻ thù nào chia cắt nổi chúng ta, miền Bắc và miền
Nam trong lòng ta bao giờ cũng chỉ là một, là Tổ quốc Việt Nam. Những
chiến thắng vĩ đại của nhân dân ta ở miền Nam là nguồn động viên cổ vũ rất
lớn đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Và ngược lại, những thắng lợi và
thành công của đồng bào miền Bắc lại củng cố niềm tin cho nhân dân miền
Nam trong cuộc đọ sức với kẻ thù.
Có thể nói, không trong một lá thư nào, Anh Đức không nhắc tới miền Bắc,
nhắc tới với tất cả tấm lòng yêu mến, nhớ thương và ngưỡng mộ: “… Mặt
nước Hồ Gươm mùa đông có đẹp không anh? Lát nữa trời rạng sáng. Dù
chưa biết Hồ Gươm, tôi vẫn nhớ Hồ Gươm và đoán rằng lúc ấy Hồ Gươm sẽ
đẹp hơn cả mọi lúc, vì khi ấy Tháp Rùa sẽ hiện ra trong sương sớm như xuất
hiện từ câu chuyện thần thoại của bản thân nó… Chừng nào thì rễ đước bắt
đầu bén đất bệ tháp Hồ Gươm? ”
 Kết luận:
Tác phẩm của Anh Đức là một trong những cuốn sử biên niên sớm nhất,
sinh động nhất về những giai đoạn ác liệt nhất, hào hùng nhất về cuộc

chiến tranh giải phóng, về con người Nam bộ đặc biệt nhân hậu, tình nghĩa
thuỷ chung, bất khuất kiên cường. Tính nhân văn sâu sắc trong tác phẩm
của Anh Đức trước hết và chủ yếu là ông đã phản ánh, tô đậm, khắc họa
hình ảnh những con người tiêu biểu của thời đại cách mạng, tạo được sự
rung động mạnh mẽ, truyền đến hàng triệu trái tim người đọc niềm tin và
sức mạnh.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×