Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Quán rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.85 KB, 8 trang )

Quán rượu người câm- Nguyễn Quang Sáng
Vào nữa đầu thế kỉ XX, Thạch Lam đã xuất hiện lần đầu
trên nền văn học Việt Nam với cây bút viết truyện ngắn tài hoa
xuất sắc. Sau ông, một tác giả cũng rất thành công về thể lọai này
là Nguyễn Quang Sáng. Nếu như nét đặc thù của Thạnch Lam là
cách viết truyện không có cốt truyện rõ ràng thì Nguyễn Quang
Sáng nổi bật với những câu truyện giàu kịch tính, cốt truyện có
nhiều tình huống bất ngờ dữ dội, lời văn giản dị, mộc mạc. Nhà
văn quan niệm : tôi viết vì cảm xúc của tôi với cuộc sống, với từng
số phận của mỗi con người mà tôi đã từng chia sẻ. Có lẽ vì vậy mà
tác phẩm “ quán rượu người câm” được tác giả diễn tả rất chi tiết
và rất thật. Lời văn chắc nịch, không hoa mỹ, dài dòng, và các
nhân vật trong truyện phần nào cũng mang tính cách của ông. Đi
vào phân tích các tác phẩm của ông, ta càng thấy rõ nét đẹp dân dã
trong các tác phẩm tự sự, dân dã.
Đôi nét về cuộc đời của tác giả :Nguyễn Quang Sáng (còn
có bút danh Nguyễn Sáng) sinh ngày 12 tháng l năm 1932. Quê ở
xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Hiện sống và làm
việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Từ tháng 4 năm 1946, vùng đất Nam Bộ đang trong cuộc
chiến ác liệt chống thực dân Pháp, Nguyễn Quang Sáng xung
phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2. Đến
năm 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hoá ở trường trung học
kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng
chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ
nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo và Hoà Hảo).
Năm 1955 theo (đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với cấp bậc
chuẩn úy, về làm cán bộ phòng Văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói
Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm
biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học,


cán bộ sáng tác.
Năm 1966 vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác
của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục
làm việc ở Hội Nhà văn.
Sau ngày giải phóng (4-1975) trở lại thành phố Hồ Chí Minh, giữ
chức Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh khóa l,
khóa 2 và khóa 3 hiện nay. Nguyễn Quang Sáng là ủy viên ban
chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2, khoá 3 và là Phó tổng
thư ký Hội Nhà văn khoá 4.
* Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học:
- Ông Năm Hạng - truyện ngắn giải thưởng cuộc thi truyện ngắn
báo Thống Nhất (1959);
- Tư Quắn - truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí
Văn nghệ quân đội (1959);
- Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội
Nhà văn (1985);
- Con mèo của Pujita - tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam 1994;
- Cánh đồng hoang (kịch bản phiin) bộ phim được tặng Huy
chương vàng liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng
liên hoan phim ở Matxcơva (1981);
- Mùa gió chướng (kịch bản phim) Huy chương bạc liên hoan
phim toàn quốc (Hà Nội 1980).
Qua cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang
Sáng, ta đã phần nào hiểu được cá tính cách rất giản dị, nhưng
cũng rất mạnh mẽ của ông, và những sáng tác trong khỏang thời
gian đất nước đang có chiền tranh ác liệt đều có sự kết hợp rất hài
hòa về chất phóng sự và tự sự tái hiện lại tâm trạng của những
người dân ta thời bấy giờ rất thực. Các truyện ngắn và tiểu thuyết
nổi tiếng của ông như: “chiếc lược ngà” (1968), “người quê

hương” (1958),… đều là những câu chuyện rất đời thường và được
ông miêu tả bằng những câu văn rất giản dị, nhưng đã để lại trong
độc giả chúng ta ấn tượng thật sâu sắc. Đến với tác phẩm “ quán
rượu người câm”, ta sẽ phần nào cảm nhận được những đóng góp
thầm lặng của những người dân yêu nước.
Tác phẩm là một thiên truyện về tình yêu nước được thể
hiện qua hình ảnh những con nguời rất đỗi bình thường trong cuộc
sống, nhưng chính họ đã làm nên lịch sử cho dân tộc, đã tiếp nối
truyền thống yêu nước của con người Việt Nam. Mở đầu tác phẩm,
nhà văn đã đề cập đến hững thời kì đen tối của những cuộc Cách
Mạng thông qua lời khẳng định : “bất cứ ở nước nào, thời kỳ nào,
bất cứ cuộc Cách Mạng nào cũng phải trải qua những thời kỳ đen
tối”. Và trong cái bóng tối của những thế lực độc ác đã phủ lên đất
nước ta vẫn sáng lên hình ảnh của những con nguời trung kiên nhỏ
bé đang phải chống chịu với áp lực của bọn thống trị: “ những
nguời chiến sĩ trung kiên có người đến chết vẫn không hé một lời
khai, có người bị tra tấn đến tàn phế hoặc ngớ ngẩn, họăc điên
cũng không còn biết gì nữa”. Song, những người đó lần lượt xuất
hiện trong tác phẩm ở những nơi ngục tù đen tối. Nếu nhân vật Chí
Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta thấy đó
là hình ảnh của một nguời nông dân hiền lành bị nhà tù thực dân
làm cho tha hóa, và trở thành một con thú dữ, chuyên đi đâm thuê
chém mướn, thì trong tác phẩm “quán rượu người câm” của
Nguyễn Quang Sáng là hình ảnh cũa một người chiến sĩ Cách
Mạng, bị bắt và tra tân đến tàn phế. Người chiến sĩ đây đã bị câm,
nhưng may mắn cho anh là người ta vẫn còn được nhìn thấy anh
và còn nhớ đến cái tên Ba Hòanh của anh, khác hẳn với Chí Phèo,
sau khi ra tù, Chí trở thành một người khác.
Trong cái nhà tù đen tối và bẩn thỉu đấy, không chỉ có một
mình anh Ba Hòanh, mà còn rất nhiều những con nguời trung

thành với đât nước khác. Hình ảnh của một cô bé mới trạc 16 tuổi
đã dám liều mình để bảo vệ những bí mật của quốc gia, chấp nhận
cái chết để cúu lấy những người dân của Tổ Quốc chính là tấm
gương cho các chiến sĩ. Chính sự hy sinh ấy đã khơi dậy, và thúc
đẩy ngọn lửa căm thù vốn đã có sẵn trong lòng của những người tù
từ bấy lâu. Đọan văn tác giả miêu tả cái chết của một cô gái trẻ rất
thực nhưng cũng rất đau lòng, và đó là một minh chứng cho sự tàn
ác của bọn thực dân, phong kiến. Và cô bé trẻ tuổi kia cũng chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho anh lính Ba Hòanh. Đứng
trước mặt quân thù, anh rất trân trọng sự hy sinh của cô bé và phỉ
nhổ vào mặt tên phản bội, đó chính là chí khí oai hùng của những
anh lính Cách mạng.
Sau khi rời khỏi nhà giam âm u kia, anh Ba Hòanh trở về
nhà. Khác với Chí Phèo, anh Ba không bị tha hóa, nhưng thay vào
đó, nhà tù đã cướp đi sức lao động – nguồn sống vô giá của con
người – và giọng nói thân thuộc của người lính. Có vẻ như nhà tù
thực dân là nơi chuyên lấy đi những gì quý giá nhất của một con
người, bóc lột con nguời đến tận xương tủy. Chính nó đã lấy đi
mạng sống của một cô bé 16 tuổi, chính nó cũng lấy đi sự lương
thiện của anh nông dân Chí Phèo, và bây giờ, chính nó lấy đi giọng
nói của một anh lính, nó đã lấy đi rất nhiều, rất nhìêu… Đúng là
“con người khi trở thành kẻ thù thì họ ác hơn tạo hóa”. Sau những
đòn tra tấn rất dã man, anh Ba Hòanh đã trở nên câm lặng mãi mãi.
Anh chỉ câm, nhưng không hề điếc, anh có thể nghe, nghe và thấu
hiểu được nỗi niềm của những người xung quanh. Và, anh cũng
như mọi người, họ vẫn còn sống, nhưng hình như là sống trong sự
chán nản, quằn quại, đau thương. Họ thấy những điều chướng tai
gai mắt nhưng không làm được gì. Sống như vậy đối với họ còn
khổ hơn là chết. Cái độc ác, bẩn thỉu của kẻ thù là chỗ đó, chúng
nó gieo vào dân ta những mầm mống độc hại, làm cho những con

người tội nghiệp ấy sống không được mà chết cũng không xong.
Đấy chính là sự thử thách đối với anh là vượt qua sự yếu hèn, sợ
hãi vốn luôn tồn tại trong mỗi con người chúng ta, chúng là một
trong những ước muốn , tham vọng đựoc sống của mỗi cá nhân, và
anh lính này phải cố gắng vượt qua để giữ vững khí tiết của một
người Đảng viên Cách mạng, góp một phần công sức bé nhỏ của
mình vào một công việc chung của cả dân tộc: Bảo vệ Tổ quốc.
Nhưng “trời cao có mắt”, không phụ lòng người, anh Ba
Hoành cũng mở được một quán rượu ở ven sông và sống suốt
quãng đời còn lại trong im lặng. Công việc buôn bán khá thuận lợi
cho “ông chủ quán” lúc bấy giờ đã quen dần với chữ viết. Miệng
không thể nói, nhưng may mắn thay tai ông vẫn còn nghe được,
ông nghe những câu chuỵên thật của làng, của mọi người xung
quanh,. Không chỉ dáng điệu khác người mà kiểu khóc cũng chỉ
mình ông có: “không phải khóc bằng nước mắt, mà khóc bằng
nước miếng”. Đúng là “kiểu khóc đặc biệt của người câm”.
Song, một ngày nọ, bỗng dưng không còn ai ghé thăm quán
rượu của ông, và một bầu không khí âm u đang bao trùm lấy cả
khu làng nhỏ bé, tất cả mọi người đều im lặng, một sự im lặng
đáng sợ… Nhưng , : đừng bảo dòng sông lặng lẽ là dòng sông
không có sóng. Sóng đang nổi lên từ dưới đáy, người ta gọi đó là
sóng ngầm.”. và cơn sóng ngầm đó đột ngột bừng lên một cách
đáng sợ, mọi người hò hét, kêu gọi nhau đứng lên chống lại cơn
sóng đó, chống lại bọn thực dân xâm lược, người ta báo cho nhau
một tin lạ : “Đồng Khởi”. Đồng Khởi, một cuộc khởi nghĩa đồng
lọat, tất cả mọi người cùng góp sức cho một việc, đó là bảo vệ Tổ
quốc đang lâm nguy. Là một tập thể có tinh thần đòan kết, yêu
thương nhau, sẵn sàng hy sinh, người dân trong làng như đã được
tiếp thêm sức mạnh, họ đã sẵn sàng san bằng các đồn bốt, doanh
trại của giặc. và thời cơ đã đến, họ đang cần một người chỉ huy, tất

cả mọi người đều tập trung về một phía, họ đang nóng lòng muốn
biết gương mặt của vị lãng đạo tài ba. Một thóang sau, khi ông chủ
quán rượu bước ra, “người ta kinh ngạc nhưng người ta không thất
vọng”, bởi vì đó là một con người hết sức gần gũi. Tuy gần gũi
nhưng ông chủ quán rượu ấy không làm cho mọi người khỏi lo
lắng, và không chỉ có mội người dân làng trong câu chuyện mà
còn độc giả chúng ta cũng có phần ngạc nhiên vì sự xuất hiện này.
Vị lãnh đạo cũa các người dân làng ấy dường như đã không nói gì
trong quãng thời gian ông ra tù, và hình như ông đã bị câm! Một
người câm dù giỏi đến đâu nhưng cũng khó lòng truyền đạt hết
mệnh lệnh và chiến thuật của mình cho mọi người trong chiến đấu,
và trong chiến tranh, những nước cờ trong tích tắc có thể thay đổi
cục bộ trận đấu. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã cho ta đi từ ngạc
nhiên này cho đến ngạc nhiên khác, khi ông miêu tả cảnh người
chiến sĩ Ba Hòanh cất tiếng nói dõng dạc, mang lại niềm tin và
tinh thần cho mọi người. một tiếng nói sau bốn năm trời im lặng,
một tiếng nói vang vọng cả đất trời và đã khắc sâu trong từng trái
tim yêu nước của mỗi người dân và cả độc giả chúng ta.
Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng hình ảnh một quán rượu ở
ven bờ sông của một ngừơi câm, để rồi từ nơi ấy, bao nhiêu tin tức
nóng bỏng của thời cuộc đã được khơi gơi, đó là những sự thật đau
thương và phũ phàng được kháo nhau bởi những ông khách rượu
tuy say mà lại rất tỉnh. Ông chủ quán rượu này tuy câm nhưng may
mắn thay ông lại nghe được tất cả mọi sự đời trái khóay, thấu hiểu
được những nỗi mất mát, buồn tủi của dân làng mình. Ngày qua
ngày, chuyện nọ nối tiếp chuyện kia, bao nhiêu là nỗi mất mát, ấm
ức, cứ thế mà dồn nén, thắt chặt trái tim anh Ba Hoành, cuộn xóay
vào nỗi lòng trăn trở của anh như nhữ đợt sóng của bến sông kia
cứ vô tình, lạnh lùng mà xô vào bờ. Lòng anh cũng sục sôi, dậy
sóng như những cơn sóng ngần dưới lòng sông, để rồi đến lúc

không thể kiềm nén được nó vỡ òa ra, trào dâng lên thành những
trận bão táp, cuồng sóng mãnh liệt, được khơi màu bởi một tình
yêu nước thiết tha, vô biên nhấn chìm tất cả bọn địch thù xuống
lòng sông sâu. Đó chính là cuộc "Đồng Khởi" hào hùng, tuyệt đẹp
của dân làng dứơi sự chỉ huy của một người câm đang chờ thời.
Tất cả, tất cả nhữ hờn căm đều được dồn nén lại, và thêm vào đó là
ý chí chiến đấu sắt đá xuất phát từ tình yêu quê hương mãnh liệt đã
giúp anh nghĩ ra được một chiến thuật cực kì hiểm hóc, anh ợi
dụng sự tra tấn của địch để lẫn hẳn vào trong im lặng, làm cho mọi
người lầm tưởng rằng mình không còn là người bình thường khỏe
mạnh nữa. Hình thức chiến đấu này vừa có nghị lực lại vừa có
nghệ thuật. Lòng vẫn nuôi một ý chí câm thù giặc, nhưng miệng
thì không đựoc thốt lên nửa lời, một chiến thuật cực kì tinh vi, anh
Ba Hòanh phải là người có nghị lực và kiên định lắm mới làm chủ
được cảm xúc của mình, không thể để cảm xúc trào dâng. Ngày
này sang tháng nọ, anh Ba Hòanh vẫn nghe đủ hết mọi chuyện đau
xót và mất mát của dân tộc, anh rất đau, đau đến nỗi muốn khóc
mà vẫn không có nước mắt để khóc, lòng anh liên tục trỗi dậy
những đợt sóng mạnh mẽ, đợt sóng của lòng căm thù, và dường
như lắm lúc nó chực chỉ trào ra cửa miệng trong phút chốc :
“miệng của ông ta như không ngậm lại được”, nhưng anh Ba đã
nén lại tất cả, anh cố gượng sống trong lặng im, im lặng,… Đó
chính là sự cầm hơi, lấy sức, hay dùng sức đè nén tất cả nỗi lòng,
để cho đến một ngày, những trận sóng đó hợp lại thành một, và nó
sẽ tạo nên một trận “Đại Hồng Thủy, sẵn sàng bắt bọn giặc ác ôn
kia trả lại món nợ máu mà chúng đã gây nên cho đồng bào chúng
ta. Và tiếng nói của một ngươi câm một tiếng hô hào, kêu gọi khởi
nghĩa xuất phát từ cửa miệng của một người chiến sĩ bị địch tra tấn
đến câm chính là vũ khí mạnh nhất trong tất cả những thứ vũ khí
hủy diệt. Có thể bọng giặc kia được, trang bị những súng ống đạn

dược hiện đại, nhưng dân tộc ta vẫn mạnh hơn vì chúng ta được
thừa hưởng tinh thần dũng mãnh của cha ông ta, một thứ vũ khí
mà tạo hóa ban tặng cho chúng ta, và không nhà khoa học nào chế
tạo đựoc. Bên cạnh đó, cuộc chiến của chúng gây ra cho dân tộc ta
là cuộc chiến phi nghĩa, chỉ có chết chóc, không được chính nhân
dân học ủng hộ, nên chắc chắn chúng ta sẽ dành chiến thắng.
Tác phẩm như một bức tranh đẹp của chủ nghĩa anh hùng và
truyền thống yêu nước, qua họa phẩm ấy, ta còn thấy được những
gam màu rất tươi sáng của một tinh thần quật cường, anh dũng, bất
khuất, không ngần ngại hi sinh vì sự nghiệ Cách Mạng vỹ đại của
một dân tộc quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Một tác phẩm mang
đậm chất phóng sự xen lẫn tự sự, những chi tiết được cụ thể hóa
một cách khá sinh động, và ngòi bút tài tình của Nguyễn Quang
Sáng đã đưa ta về với một thời quá khứ anh hùng của dân tộc trong
những khó khăn, gian khổ mà tạo hóa, lẫn con người đã đặt ra để
thử thách lòng trung hiếu của mỗi người. Và họ đã chứng minh sức
mạnh kiên cường của mình trước những con sóng ngầm hung hãn
của thiên nhiên bằng cũng bằng những ngọn sóng của chính họ,
ngọn sóng của sự căm thù, lòng yêu nước. Nhà văn đã rất thành
công trong công đọan miêu tả những đợt sóng đối lập nhau. Sóng
của Nguyễn Quang Sáng khác với ngọn sóng tình yêu nhẹ nhàng
trìu mến của Xuân Quỳnh, sóng của ông là sự đòan kết của tòan
dân tộc chứ không chỉ của riêng một ai, một phong cách tả cảnh
ngụ tình rất riên của Nguyễn Sáng. Cụ thể hóa những cơn sóng đó
chính là nhưng người dân rất bình thường, và dẫn đâu họ là một
anh lính tưởng chừng đã bị câm sau một cụôc tra tấn dã man của
bọn thú thực dân, một anh lính đã được nhà văn lý tưởng hóa, vừa
có một tinh thần sắt thép, một ý chí bất khuất trong sự nghệip Cách
Mạng, lại vừa có những phẩm chất quý giá khác như sự lạc quan,
vô tư, dám nghĩ dám làm, không biết mặc cảm hay bi lụy về cái

nghẻo nàn của bản thân. Nghệ thuật tạo tình huống bất ngờ thành
công, nhà văn đã làm cho độc giả rất bất ngờ trước tiếng nói dõng
dạc của một người câm trong vào thời điểm đất nước đang nguy
cấp, một cao trào của tác phẩm. Có lẽ ông đã miêu tả về một người
Đảng viên Cách Mạng đang chờ thời, cũng có thể ông đã gửi cho
độc giả chúng ta một thông điệp rằng: “ khi đất nước lâm nguy thì
cả người câm cũng biết lên tiếng” một thông điệp quý giá thể hiện
bản sắc của một dân tộc yêu nước.
Tác phẩm “ quán rượu người câm” đã thể thiện rất rõ quan
điểm của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, một trong những yếu tố
của các nhà cầm bút là phải sáng tạo, và trung thực. Sáng tạo một
chi tiết ở mức độ cần thiết chứ không phải thổi phồng sự việc, và
nhà văn đã từng phát biểu : “ Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa
đặt. Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để
trang giấy trắng trung thực trên bàn viết ”. Bên cạnh sự trung thực
trong sáng tạo, theo ý kiến của nhà văn là cần phải có tâm huyết
với nghề nghiệp, niềm say mê là nguồn động lực lớn nhất giúp
chúng ta không ngừng học hỏi vượt qua những khó khăn : “ Yếu tố
đầu tiên, là phải có tâm huyết với nghề nghiệp. Không nên nghĩ là
mình sẽ làm giàu hay được nổi tiếng. Đôi khi chúng ta phải hy sinh
vì nghệ thuật. Yếu tố tiếp theo chính là vốn sống, vốn kiến thức
nhất định để quyết tâm theo đuổi con đường mình đã chọn. Quan
trọng nhất là phải có một niềm say mê, nó sẽ là động lực giúp ta
không ngừng học hỏi và sáng tạo.”.
Nhà văn Nguyễn Quang sáng đã tái hiện lại phong cảnh và
tâm trạng của những người dân nước ta thời bấy giờ chỉ bằng
những từ ngữ rất dân dã, bình dị. một phóng sự xen lẫn tự sự về
một “quán rượu người câm” đã nhẹ nhàng đi vào lòng người với
những hình ảnh rất quen thuộc của quên nhà xoay quanh cuộc đời
của một người chiến sĩ Cách Mạng. Nhà văn ca ngợi tinh thần

dũng cảm, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ nước nhà của
những người chiến sĩ Cách Mạng. Thông qua nhân vật Ba Hòanh,
độc giả chúng ta cũng phần nào hiểu hơn những tâm sự và suy
nghĩ của nhân dân ta, một dân tộc đòan kết, trên dưới một lòng,
cùng nhau đánh giặc.

×