Đặt vấn đề :
Khi có xã hội loài người trên trái đất, con người ngày càng nhận
thức rất rõ rằng “Đất là môi trường sống của mọi sinh vật trên trái
đất: cây cỏ, động vật và con người”; Đất còn là môi trường sản
xuất của con người: sản xuất nông lâm nghiệp, sản xuất công
nghiệp, khai thác khoáng sản”. Sự phát triển các nền văn minh thế
giới, phát triển khoa học công nghệ, kinh tế xã hội của con người
đều gắn liền với các hoạt động khai thác, bảo vệ, cải thiện và tàn
phá, hủy hoại chất lượng đất cũng như làm ô nhiễm môi trường
đất. Cùng với các ô nhiễm như : ô nhiễm nguồn nước , ô nhiễm
không khí , thì ô nhiễm đất cũng là vấn đề rất đáng báo động hiện
nay , đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hóa hoc .Ô
nhiễm đất không chỉ ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp , chất lượng
nông sản mà còn lương thực, rau quả. . . ảnh hưởng dáng tiếp đến
sức khỏe cho người và động vật .
Vấn đề ô nhiễm đất dài hạn còn lớn hơn cả ô nhiễm không khí
hoặc ô nhiễm nước, với những hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất
thực phẩm và sức khỏe con người.
Nhiều dải đất rộng lớn đã bị ô nhiễm , các kim loại nặng từ các
mỏ kim loại và nhà máy, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng
đất và khả năng duy trì hoạt động nông nghiệp.
Đất nước, chính phủ và cộng đồng nên nhận ra nhiễm độc đất
nghiêm trọng như thế nào, ngày càng nhiều khu vực đang bị ảnh
hưởng, mức độ ô nhiễm đang tăng cao và phạm vi của các chất độc
gia tăng.
1
Giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách, khắc phục và giảm
thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, kịp thời ứng
phó với biến đổi khí hậu .
Ô nhiễm đất ngày nay nó rất phức tạp do nước thải công nghiệp,
nước thải sinh hoạt , rác thải sinh hoạt xây dựng công nghiệp là
vấn đề hết sức quan trọng . Chúng ta cần phải có sự chung tay của
chính phủ và toàn xã hội để giải quyết .
Phần I : Tổng quan
1. Định nghĩa :
Ô nhiễm đất là sự đưa vào môi trường đất các chất thải nguy
hại hoặc năng lượng đến mức ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
sinh vật, sức khỏe con người hoặc làm suy thoái chất lượng môi
2
trường . Đất được xem là ô nhiễm khi nồng độ các chất độc tăng
lên quá mức an toàn, vượt lên khả năng tự làm sạch của môi
trường đất. Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện
tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất gây ô nhiễm.
2.Phân loại :
Chúng ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo nguồn gốc phát
sinh, hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm:
* Ô nhiễm đất do nước thải công nghiệp và sinh hoạt .
Công nghiệp ngày càng phát triển thì nước thải ô nhiễm ngày
càng nhiều càng độc hại ,nếu nước thải này mà không xử lý thải ra
môi trường làm ô nhiễm đất trầm trọng khi canh tác nông nghiệp
làm cho cây trồng không sống hoạt bị biến đổi ,không canh tác
được , ảnh hưởng đến con người .Cũng như đô thị mộc lên càng
nhiều thì nước thải sinh hoạt ảnh hưởng đến ô nhiễm đất.
Hình ảnh ô nhiễm đất do nước thải ảnh hưởng đến cây trồng:
3
* Ô nhiễm đất do phân hóa học và hóa chất bảo vệ thưc vật.
Trong nông nghiệp, loại ô nhiễm này gây ra do sử dụng phân hóa
học, thuốc trừ vật hại, chất diệt cỏ và các c ất kích thích tố thực vật.
Để tăng năng suất cây trồng , ở trên thế giới cũng như nước ta có
xu hướng tăng cường sử dụng các chất hóa học, vì vậy nó tác động
đến môi trường đất ngày càng mạnh mẽ hơn. Chúng làm thay đổi
thành phần và tính chất của đất, có khi làm chua đất, làm cứng đất,
làm thay đổi cân bằng các chất dinh dưỡng giữa cây trồng và đất.
Sử dụng phân hóa học quá liều cũng làm cho đất bị chua. Đất chua
ảnh hưởng tới trạng thái sinh lí cây trồng và hiệu quả sử dụng phân
hóa học.
Do hệ thống tưới tiêu không hợp lí hoặc do mưa nhiều nắng lắm,
đất trồng trọt bị rửa trôi mất lớp hữu cơ , dưới tác dụng của ánh
sáng một số hợp chất chứ lưu huỳnh bị oxi hóa thành axit HSO4 ,
4
axit H2SO4 lại tác dụng với sắt, nhôm trong keo đất thành sunfat
sắt hoặc sunfat nhôm, gây ra đất phèn, loại đất này có độ pH thấp
và khó trồng trọt.
Phân bón hóa học được bón vào đất, một phần được thực vật hấp
thụ, một phần được đất giữ lại, nhưng một phần tương đối lớn bị
rửa trôi vào các nguồn nước hoặc phóng thải vào khí quyển, gây ô
nhiễm chung cả thạch quyển, khí quyển và cả thủy quyển.
Thuốc Bảo vệ thực vật cũng có nhiều loại, ở nước ta đã sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật từ lâu, ngày nay nó càng tăng lên đáng kể về
khối lượng và chủng loại. Cũng giống như phân hóa học, các loại
thuốc bảo vệ thực vật cũng bị rửa trôi theo nguồn nước rất nhiều,
ước tính tác dụng trừ vật hại chỉ có 1-2% nên gây ảnh hưởng rất
mạnh đến môi trường.
Ngoài ra, thuốc bảo vệ thực vật cũng để lại một số hậu quả xấu cho
con người và môi trường. Con người tiếp xúc lâu dài với thuốc có
thể bị rối loạn sinh lí, sinh hóa, gây bệnh ung thư, sinh con quái
thai và ảnh hưởng đến tính chất di truyền của con người .
Số người bị ngộ độc thuốc trừ sâu do ăn rau, quả phun thuốc trừ
sâu chưa bị phân hủy tăng lên khá nhiều. Cũng do thuốc bảo vệ
thực vật đã làm giảm số lượng của nhiều loài sinh vật có ích như
ong mắt đỏ , nấm có ích làm giảm tính đa dạng sinh học, làm xuất
hiện các loài sâu bệnh kháng thuốc và là nguyên nhân bùng nổ nạn
dịch của ry nâu, bệnh đạo ôn ở một số vùng .
5
* Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp và sinh hoạt :
Hoạt động sản xuất công nghiệp đã để lại các chất thải gây ô
nhiễm ở cả 3 dạng : rắn , lỏng , khí .
Khoảng 50% chất thải công nghiệp là chất thải rắn như than, bụi,
chất hữu cơ , xỉ quặng , trong đó có 15% có khả năng gây độc
nguy hiểm .
Các chất thải rắn công nghiệp gây ô nhiễm rất lớn cho đất. Đặc biệt
nghiêm trọng là các chất thải công nghiệp làm ô nhiễm đất bởi các
hóa chất và kim loại nặng như Cu, Zn, Pb, As, Hg, Cr, Cd. Các
nhà máy còn xả vào khí quyển rất nhiều khí độc như H2S, CO2,
CO, NOx , chúng cũng sa lắng xuống môi trường đất. Đó cũng là
nguyên nhân gây ra mư a axit, làm chua đất, phá hoại sự phát triển
của thảm thực vật .
Hằng ngày con người và các động vật đã thải ra một khối lượng
rất lớn các chất phế thải vào môi trường đất. Đó là rác, phân, xác
động vật và các chất thải khác. Khu vực càng đông người thì các
chất phế thải đó càng lớn. Đó cũng là vấn đề cần được xã hội quan
tâm giải quyết một cách thường xuyên và khoa học .
6
Một số hoạt động công nghiệp làm phát sinh bụi, nước thải và chất
thải rắn gây ô nhiễm môi trường đất (do không được thu gom và
xử lý đúng quy định) như: bụi thải từ các nhà máy sản xuất xi
măng, cơ sở sản xuất gạch ngói gây ô nhiễm đất khu vực lân cận;
chất thải (nước thải và chất thải rắn) từ hoạt động sản xuất thép, cơ
khí, gốm sứ, gia công kim loại, sửa chữa ôtô, xe máy chứa nhiều
kim loại nặng, dầu mỡ ; chất thải từ quá trình sản xuất giấy và bột
giấy chứa nhiều chất hữu cơ khó phân huỷ, sunfua tác hại đến vi
sinh vật đất, chất lượng đất
Hoạt động khai thác khoáng sản như khoáng ilmenit chứa titan
làm phát sinh lượng lớn chất thải rắn (đất, cát, sỏi) che phủ nhiều
vùng đất ven bờ, đồng thời làm tăng xâm nhập mặn từ biển vào các
vùng khai thác làm nhiễm mặn đất và nước ngầm. Hoạt động nuôi
tôm nước lợ/mặn vùng ven bờ cũng gây ra sự nhiễm mặn đất canh
tác nông nghiệp. Sự nhiễm mặn tăng lên cũng có thể gây nhiễm
phèn làm chua đất (hay suy giảm chất lượng đất).
Hình dưới là ô nhiễm đất do chất thải của các xưởng mạ kẽm.
Hình này là ô nhiễm do chất thải sinh hoạt
7
* Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học .
Ô nhiễm đất do chất thải mất vệ sinh, hoặc sử dụng phân bắc tươi,
hoặc bón trực tiếp bùn thải sinh hoạt đã gây cho người và động vật
bị nhiễm các loại trực khuẩn lị ,thương hàn amip, kí sinh trùng như
giun sán.
Đất bị ô nhiễm trứng giun kí sinh, nhiễm vi sinh vật thường gặp ở
một số vùng nông thôn hoặc vùng trồng rau . Đất là một con đường
truyền dịch bệnh phổ biến: Người - đất - nước - côn trùng - ký sinh
trùng; Người - hoặc vật nuôi - đất - người hoặc đất - người .
* Ô nhiễm đất do chiến tranh .
Miền Nam nước ta qua cuộc chiến tranh tàn khốc đã phải
hứng chịu hơn 100.000 tấn chất độc hóa học, trong đó có
các hợp chất đioxin .
8
* Ô nhiễm đất do thảm họa địa hình
Miền núi, cao nguyên nước ta chiếm khoảng 67% diện tích cả
nước với gần 20.883.000 ha, có địa hình cao và dốc, có các yếu tố
chia cắt ngang, chia cắt sâu, với chiều dài sườn dốc lớn gây ra các
trung tâm mưa lớn nhất nước, gây xói mòn đất, là nguyên nhân suy
thoái môi trường đất.
Hiện tượng sạt lở đất, không những làm mất đất đang sản xuất mà
còn làm cho sự định hình một số khu sản xuất ở miền núi trở nên
thiếu ổn định. Ngoài ra, do hiện tượng phá rừng, đốt rừng, đời sống
du canh, du cư cũng làm cho đất đồi núi tăng thêm hiện tượng xói
mòn, lở đất .
* Ô nhiễm đất do tác nhân vật lí
Nguồn gây ô nhiễm chủ yếu cho đất là quá trình đốt nhiên liệu
như củi, xăng, than, dầu khí trong sản xuất công nghiệp, giao thông
vận tải và sinh hoạt. Đặc biệt nhà máy điện, luyện kim, cháy rừng,
9
phát rừng đốt rẫy làm tăng nhiệt độ của đất, làm hủy hoại môi
trường đất, làm đất mất màu mỡ .
Khi nhiệt độ trong đất tăng lên sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hệ sinh
vật đất phân giải chất hữu cơ , làm chai cứng đất, làm mất chất
dinh dưỡng. Nhiệt độ trong đất tăng lên sẽ làm giảm hàm lượng
khí oxi trong đất, làm mất cân bằng oxi trong đất và quá trình
phân hủy các chất hữu cơ sẽ tạo ra sản phẩm trung gian không có
lợi cho cây trồng như: NH3, H2S, CH4, andehit
Nhiệt độ trung bình của Trái Đất tăng lên là một trong các nguyên
nhân chính gây nên các hiên tượng Elnino, Lanina, làm mực nước
biển sẽ dâng cao,gây ra thiên tai hạn hán, lũ lụt, bão tố …
* Ô nhiễm đất bởi các chất phóng xạ
Nguồn ô nhiễm đất bở i các chất phóng xạ là những phế thải của
các cơ sở khai thác các chất phóng xạ , trung tâm nghiên cứu
nguyên tử , các vụ thử hạt nhân, các cơ sở sử dụng đồng vị phóng
xạ trong nông nghiệp, công nghiệp và y tế (sử dụng các đồng vị
phóng xạ để chữa bệnh và nghiên cứu khoa học ). Bên cạnh lợi ích
rất to lớn thì phóng xạ đã gây cho con người nhiều hiểm hoạ .
3.Thực trạng .
Tại Bắc Ninh, ô nhiễm đất cũng bắt nguồn từ nước thải, chất
phế thải, khí thải, hóa chất bảo vệ thực vật và hoạt động khai thác
khoáng sản. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có hàng chục khu, cụm công
nghiệp và nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chỉ có 2 khu công
nghiệp tập trung đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải, còn lại tất cả
các khu, cụm công nghiệp khác và các làng nghề truyền thống
chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nước thải của các nhà
máy, cơ sở sản xuất ở các cụm công nghiệp và các làng nghề
không qua xử lý (chỉ có một số cơ sở đã xử lý sơ bộ) xả trực tiếp
vào môi trường, làm ô nhiễm môi trường một số sông như Ngũ
Huyện Khê, sông Ngụ Những con sông này vẫn là nguồn cung
10
cấp nước tưới chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp. Qua thời gian các
chất gây ô nhiễm sẽ ngấm xuống đất và tích lũy dần trong cây
trồng, gây ô nhiễm đất ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Các
chất thải rắn phát sinh trên địa bàn tỉnh hiện có xu hướng gia tăng.
Trung bình mỗi năm chất thải rắn sinh hoạt tăng 10%, chất thải rắn
công nghiệp tăng 15%, chất thải rắn y tế tăng 8%. Chất thải công
nghiệp, y tế chứa nhiều nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người và
môi trường nếu không được xử lý triệt để. Việc xử lý rác thải hiện
nay chủ yếu là chôn lấp, vẫn còn nhiều bãi rác lộ thiên gây ô nhiễm
môi trường đất và nước. Khí thải tại một số làng nghề tái chế kim
loại có chứa các chất như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất chứa nitơ…
kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm giảm độ PH của
đất cũng gây ô nhiễm đất. Hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) là con
dao hai lưỡi, nếu sử dụng không hợp lý thì lợi bất cập hại, một
trong số đó là ô nhiễm đất. Tại các vùng trồng rau thâm canh của
tỉnh lượng hóa chất BVTV sử dụng tăng gấp 3- 5 lần so với các
vùng trồng lúa. Các loại thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc
khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Ngoài ra
hoạt động khai thác cát sỏi trên sông Cầu, sông Đuống không theo
quy hoạch có thể gây sạt, trượt các bãi bồi, thềm sông làm giảm
diện tích đất canh tác, sinh hoạt.
11
Quá trình phát triển công nghiệp và đô thị cũng ảnh hưởng
đến các tính chất vật lý và hoá học của đất. Những tác động về vật
lý như xói mòn, nén chặt đất và phá huỷ cấu trúc đất do các hoạt
động xây dựng, sản xuất và khai thác mỏ. Các chất thải rắn, lỏng
12
và khí đều có tác động đến đất. Các chất thải có thể được tích luỹ
trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm tàng đối với môi
trường.
Người ta phân chia các chất thải gây ô nhiễm đất làm 4 nhóm:
Chất thải xây dựng, chất thải kim loại, chất thải khí, chất thải hoá
học và hữu cơ.
Chất thải xây dựng như gạch, ngói, thuỷ tinh, ống nhựa, dây cáp,
bê tông, trong đất rất khó bị phân huỷ.
Chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng như Chì, Kẽm,
Đồng, Ni ken, Cadimi thường có nhiều ở các khu khai thác mỏ,
các khu công nghiệp. Các kim loại này tích luỹ trong đất và thâm
nhập vào cơ thể theo chuỗi thức ăn và nước uống, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khoẻ.
Các chất thải khí và phóng xạ phát ra chủ yếu từ các nhà máy
nhiệt điện, các khu vực khai thác than, các khu vực nhà máy điện
nguyên tử, có khả năng tích luỹ cao trong các loại đất giàu khoáng
sét và chất mùn.
Các chất thải gây ô nhiễm đất ở mức độ lớn là các chất tẩy rửa,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhuộm, mầu vẽ, công
nghiệp sản xuất pin, thuộc da, công nghiệp sản xuất hoá chất.
Nhiều loại chất hữu cơ đến từ nước cống, rãnh thành phố, nước
13
thải công nghiệp được sử dụng làm nguồn nước tưới trong sản xuất
cũng là tác nhân gây ô nhiễm đất.
Các hoạt động sản xuất làm phát sinh nhiều bụi như sản xuất xi
măng, vật liệu xây dựng (gạch, ngói, đá xây dựng…) tuy có gây ô
nhiễm đất bởi bụi chứa nhiều chất vô cơ và hữu cơ độc hại khác
nhau, nhưng mức độ ô nhiễm nói chung là không đáng lo ngại .
Các hoạt động sản xuất công nghiệp làm phát sinh nhiều nước thải
và chất thải rắn , nhưng không được thu gom và xử lý đúng quy
định, mà thải trực tiếp vào đất sẽ gây ô nhiễm đất ở khu vực xung
quanh. Tuy chưa có nghiên cứu chi tiết nào về sự ô nhiễm đất bởi
các chất thải công nghiệp .
Nói chung, tuy mức độ ô nhiễm đất do các hoạt động công
nghiệp, khai thác khoáng sản và nuôi trồng thuỷ sản tuy chưa phải
là nghiêm trọng, nhưng sự thay đổi tính chất đất sẽ kéo theo nhưng
lo ngại về sự thay đổi hệ sinh thái trong vùng và tác động bất lợi
đến đa dạng sinh học, đặc biệt là đối với các động vật, thực vật cạn
vùng ven bờ. Thêm vào đó, khai thác khoáng sản và nuôi trồng
thuỷ sản còn làm xáo trộn về địa hình vùng ven bờ cũng tác động
bất lợi đến các hệ sinh thái .
14
Hoạt động khai thác đã phát thải vào môi trường một lượng lớn
CTR phủ lên bề mặt vùng xung quanh, làm thay đổi tính chất cơ lý
của đất và có thể làm tăng mức phóng xạ ở những vùng tập trung
CTR. Mặt khác, việc khai thác nước ngầm quá mức để phục vụ
quá trình sàng tuyển quặng sẽ làm gia tăng sự xâm nhập mặn vào
các nguồn nước ngầm vùng ven bờ.
Hiện nay ô nhiễm đất ngày càng nhiều ở trên khắp thế giới như
ở nước ta các vùng ô nhiễm nặng bởi đioxim do chiến tranh còn
lại, ô nhiễm do nước thải của các khu công nghiệp thải ra môi
trường chưa sử lý gây ô nhiễm đất như : ở Đồng Nai thì nhà máy
bọt ngọt vedan đã thải ra môi trường mà chưa xử lý đã làm đất và
nguồn nước ở đó ô nhiễm khá nghiêm trọng. Còn do nước thải sinh
hoạt của người dân và các đô thị .
4. Nhận xét chung.
Ô nhiễm đất ngày càng nhiều do sối mòn, lũ lụt , chất thải sinh
hoạt , nước thải do các khu công nghiệp … nhiều vùng bị ô nhiễm
nặng. Tình trạng nhiều khu công nghiệp , khu chế xuất , đô thị ,
khai thác tài nguyên khoán sản ngày càng nhiều làm cho đất bị
ảnh hưởng ô nhiễm ,như ở Quảng Ninh khai thác than những bải
chứa than ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đất ,không khí và
nguồn nước ngầm . Ô nhiễm đất của nước ngày càng báo động nên
mọi người dân cùng với chính phủ chung tay xử lý bảo vệ môi
trường đất ,nước ,không khí .
II.Nguyên nhân .
* Phương pháp xử lý nước thải trong sản xuất giấy :
Công nghệ sản xuất giấy là một trong những công nghệ sử dụng
nhiều nước. Tùy theo từng công nghệ và sản phẩm mà lượng nước
cần thiết để sản xuất 1 tấn giấy dao động từ 200 đến 500 m
3
nước.
Nước được dùng trong các công đoạn rửa nguyên liệu, nấu, tẩy,
xeo giấy và sản xuất hơi nước.
Như vậy trong quá trình sản xuất giấy, hầu như tất cả lượng nước
đưa vào sử dụng sẽ là lượng nước thải ra, trong đó những yếu tố
gây ô nhiễm chính đó là:
pH cao do kiềm dư gây ra là chính.
15
Thông số cảm quan (màu đen, mùi, bọt) chủ yếu là do dẫn xuất
của lignin gây ra là chính.
Cặn lơ lửng (do bột giấy và các chất độn như cao lin gây ra).
COD & BOD do các chất hữu cơ hòa tan gây ra là chính, các chất
hữu cơ ở đây là lignin và các dẫn xuất của lignin, các loại đường
phân tử cao và một lượng nhỏ các hợp chất có nguồn gốc sinh học
khác, trong trường hợp dùng clo để tẩy trắng có thêm dẫn xuất hữu
cơ có chứa clo khác.
Dòng thải rửa nguyên liệu bao gồm chất hữu cơ hòa tan, đất đá ,
thuốc bảo vệ thực vật , vỏ cây Dòng thải của quá trình nấu và
rửa sau nấu chứa phần lớn các chất hữu cơ hòa tan, các chất nấu và
một phần xơ sợi. Dòng thải có màu tối nên thường được gọi là dịch
đen. Dịch đen có nồng độ chất khô khoảng 25 đến 35%, tỷ lệ giữa
chất hữu cơ và vô cơ 70:30. .
Thành phần hữu cơ chủ yếu là trong dịch đen lignin hòa tan và
dịch kiềm. Ngoài ra, là những sản phẩm phân hủy hydratcacbon,
axit hữu cơ. Thành phần hữu cơ bao gồm những chất nấu, một
phần nhỏ là NaOH, Na2S, Na2SO4, Na2CO3, còn phần nhiều là
kiềm natrisunfat lien kết với các chất hữu cơ trong kiềm.
Dòng thải từ công đoạn tẩy của các nhà máy sản xuất bột giấy
bằng phương pháp hóa học và bán hóa chứa các chất hữu cơ, lignin
hòa tan và hợp chất tạo thành của những chất đó với chất tẩy ở
dạng độc hại. Dòng này có độ màu, giá trị BOD5 và COD cao.
Dòng thải từ quá trình nghiền bột và xeo giấy chủ yếu chứa xơ sợi
mịn, bột giấy ở dạng lơ lửng và các chất phụ gia như nhựa thông
phẩm màu, cao lanh .
Dòng thải từ các khâu rửa thiết bị, rửa sàn, dòng chảy tràn có hàm
lượng các chất lơ lửng và các chất rơi vãi .
Nước ngưng của quá trình cô đặc trong hệ thống xử lý thu hồi hóa
chất từ dịch đen. Mức ô nhiễm của nước ngưng phụ thuộc vào loại
gỗ, công nghệ sản xuất .
Xử lý sơ bộ nước thải từ công đoạn xeo giấy:
16
- Nước thải (NT) từ công đoạn xeo giấy được tách riêng đưa qua
hệ thống xử lý sơ bộ.
- NT chảy qua SCR (song chắn rác) đến bể tiếp nhận. SCR có
nhiệm vụ giữ lại các tạp chất kích thước lớn.
- NT tiếp tục được bơm qua bể điều hòa để điều hòa lưu lượng và
nồng độ. Từ đây NT được bơm qua bể lắng để lắng cặn (chủ yếu là
bột giấy).
- Sau đó nước thải được đưa đến hệ thống xử lý chung.
Xử lý sơ bộ nước thải từ công đoạn sản xuất bột giấy:
17
- Nước thải từ công đoạn sản xuất bột giấy được tách riêng đưa
qua hệ thống xử lý sơ bộ.
- NT chảy qua SCR (song chắn rác) đến bể tiếp nhận. SCR có
nhiệm vụ giữ lại các tạp chất kích thước lớn.
- NT tiếp tục được bơm qua bể điều hòa để điều hòa lưu lượng và
nồng độ. Từ đây NT được bơm qua bể trộn có bổ sung NaOH và
phèn.
- NT được cho qua bể keo tụ kết hợp với bể lắng nhằm mục đích
tạo phản ứng keo tụ và lắng cặn (chủ yếu là bột giấy).
- Sau đó NT được đưa đến hệ thống xử lý chung.
Hệ thống xử lý chung sau khi hòa trộn hai nguồn nước thải đã qua
xử lý sơ bộ :
- Sau khi qua một số bước xử lý sơ bộ nước thải từ cả hai công
đoạn sản xuất được hòa trộn với nhau và được điều chỉnh về
khoảng pH thích hợp cho hoạt động của vi sinh vật (pH = 6,5 –
7,5) tại bể trung hòa.
- NT tiếp tục được cho qua bể lọc sinh học hiếu khí nhằm xử lý
BOD5, COD, mùi hôi trong nước thải,…
18
- Sau khi xử lý ở bể lọc sinh học hiếu khí NT tiếp tục chảy sang bể
lắng 2 để loại bỏ bùn hoạt tính. Lượng bùn này được rút khỏi bể
lắng bằng hệ thống bơm bùn và tuần hoàn về bể lọc sinh học để
duy trì mật độ của vi sinh vật, bùn dư được dẫn về bể nén bùn.
- NT bể lắng 2 tiếp tục chảy qua bể khử trùng nhằm tiêu diệt vi
trùng và mầm bệnh. Sau khi ra khỏi bể khử trùng nước thải sẽ đạt
tiêu chuẩn TCVN 5945 – 2005 loại A,B rồi thải ra nguồn tiếp
nhận.
*Mô tả nhà máy xử lý nước thải khu công nghiệp :
Nước thải từ các nhà máy trong khu công nghiệp được tách
riêng với nước mưa (nước thải đã được xử lý cục bộ tại các nhà
máy đạt tiêu chuẩn TCVN 5945 - 2005, loại C) theo hệ thống thoát
nước thải tập trung về bể thu gom (TK-101) và bể điều hòa (TK-
102) lưu lượng của trạm xử lý nước thải tập trung với lưu lượng
trung bình 125 m3/giờ. Nước thải được dẫn qua thiết bị lược rác
thô để loại bỏ cặn rắn có kích thước lớn hơn 5mm và cát ra khỏi
dòng thải. Tại bể thu gom và là bể điều hòa bố trí hai bơm chìm
nhằm bơm nước từ bể thu gom lên bể hòa trộn và điều chỉnh pH
(TK-103) sau đó, nước sẽ tự chảy vào bể điều chỉnh pH (TK-103).
Tại bể điều chỉnh pH, bố trí hệ thống châm pH và hệ thống khuấy
trộn đều nhằm điều chỉnh pH của dòng nước. Sau đó, dòng nước
được dẫn qua bể châm PAC, polymer (TK-104). Tại đây, dòng
nước được khuấy trộn đều với hoá chất PAC và polymer bằng
động cơ khuấy nhằm tạo điều kiện tối ưu để có thể hình thành
bông keo tụ
Nước thải tiếp tục qua bể tạo bông (TK-105). Bể tạo bông (TK-
105) có tác dụng tạo thời gian để có thể đạt hiệu suất tạo bông tối
đa. Sau đó, nước thải được dẫn qua bể lắng 1 (TK-106) - bể lắng
lamen nhằm tách các cặn bông lơ lửng ra khỏi nước thải. Nước từ
bể lắng 1 (TK-106) được dẫn về bể SBR nhờ chênh lệch cao độ.
Trong bể SBR (TK-107, 108, 109 ), quá trình xử lý sinh học hiếu
khí diễn ra nhờ quần thể các vi sinh vật hiếu khí và tuỳ tiện như
19
Psedomonas, Zoogloea, Nitrobacter, Nitrosomonas,… phân hủy
các chất hữu cơ gây ô nhiễm hoà tan trong nước thải. Trong đó,
Nitrobacter, Nitrosomonas chịu trách nhiệm oxy hoá amoni thành
nitrit và nitrat. Hầu hết các chất ô nhiễm hữu cơ dễ phân huỷ được
sử dụng để duy trì sự sống của vi khuẩn, vì vậy chỉ có một lượng
nhỏ bùn hoạt tính được sinh ra. Các chất hữu cơ được phân huỷ
theo phương trình phản ứng sau:
Vi sinh vật + chất hữu cơ —> CO2+ H2O + …
Từ bể SBR, nước thải sau xử lý theo mẻ ở đây sẽ diễn ra quá
trình tách bùn hoạt tính và nước thải đã qua xử lý sinh học sẽ được
bộ thu nước (Decanter) thu về bể khử trùng (TK - 110). Tại đây
nước thải sẽ được tiếp xúc với hoá chất chlorine theo dòng chảy
ziczăc nhằm tạo thời gian tiếp xúc giữa nước thải và hoá chất khử
trùng . Nước thải sau xử lý đảm bảo luôn đạt tiêu chuẩn xả thải
Cột A giá trị C, QCVN 24 – 2009/BTNMT trước khi thải ra nguồn
tiếp nhận.
Xử lý bùn và cặn rác:
Ở bể lắng 1 (TK-106), cặn lắng được bơm về bể xử lý bùn (TK-
111).
Ở bể SBR (TK-107, 108, 109), lượng bùn sinh học dư sẽ được
bơm bùn dư bơm về bể xử lý bùn (TK-111).
Với thời gian lưu thích hợp, bùn trong bể xử lý bùn (TK-111)
được nén từ nồng độ 1% lên 2%, sau đó được bơm ra vào bộ keo
tụ bùn (TK -112), được đưa đến máy ép bùn băng tải. Bánh bùn
khô sau khi ép được đem đi chôn lấp theo quy định hoặc được sử
dụng làm phân bón cho nông nghiệp.
20
21
III.Phương pháp xử lý.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống,
là địa bàn phân bố các khu đất đai dân cư xây dựng các cơ sở kinh
tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Vậy đất đai đóng vai trò
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Hiện nay, cùng với ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm
đất đai đang trở nên đáng báo động. Ô nhiễm đất làm ảnh hưởng
xấu đến các tính chất của đất, làm giảm năng suất cây trồng và làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Chính vì vậy,
việc phòng chống ô nhiễm đất có một ý nghĩa hết sức quan trọng
trong quá trình phát triển của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Nên nhà
nước phải có những biện pháp xử lý ô nhiễm đất như:
Nước thải tại các khu công nghiệp và khu chế xuất khi mà thải ra
ngoài thì gay ô nhiễm đất nên ta cần chú trọng trong việc xử lý
nước thải. Nước được sử dụng cho mục đích tiêu thụ và công
nghiệp thường giảm sút trong quá trình sử dụng bởi nhiều chất gây
ô nhiễm gồm chất cần oxi, vi khuẩn, chất dinh dưỡng, muối, chất
rắn lơ lửng và nhiều chất hóa học khác. Ở Mĩ, những tiêu chuẩn
phải được kiểm soát trước khi thải ra môi trường. Chi phí xử lí
nước thải thường xấp xỉ 12 tỉ USD, và nó đòi hỏi gấp đôi ở thậ p
kỉ tiếp theo. Bởi vì có rất nhiều khoản tiền liên quan, xử lí nước
thải là một quá trình lớn. Ở vùng nông thôn, phương phá p xử lí cổ
truyền là dùng hố rác tự hoại (bể chứa trong đó nước rác chảy vào
và đọng lại cho đến khi tác động của vi khuẩn làm cho nó đủ lỏng
để có thể rút ra). Ở cộng đồng lớn hơn, nước thải thường được thu
gom và tậ p trung lại từ hệ thống cống rãnh. Ở nhiều nơi, tài
nguyên nước rất được chú trọng, và khi kết quả được chấ p nhận
thì được phát triển để cải tạo nước thải để họ có thể sử dụng cho
nhiều mục đích như tưới ruộng, công viên hay sân golf, đúng hơn
là đổ ra gần nguồn nước. Những kĩ thuật mới được sử dụng để xử
22
lí nước thải không phải là nước thải mà là một nguồn tài nguyên
để sử dụng. Việc phát triển những công nghệ mới này nêu lên rằng
việc xử lí nước thải không nên bị che giấu trong quần chúng. Hơn
nữa, chúng ta nên tiến tới nước thải sẽ được cải thiện bằng chi phí
nhỏ khi sản xuất hoa và rượu từ nước trái cây.
Ống nước thải từ nhà hoặc cở sở kinh doanh nhỏ dẫn đến hố tự
hoại dưới mặt đất trong vườn. Chất rắn hữu cơ lắng dưới đáy của
hố, nơi mà chúng được phân hủy và hóa lỏng bởi hoạt động của vi
khuẩn. Chất lỏng đã được lọc được đưa vào nơi tháo nước, bao
gồm các ống dẫn thẳng mà nước có thể thấm vào đất xung quanh.
Khi nước di chuyển vào trong đất, nó sẽ được xử lí và lọc nhiều
hơn bởi các quá trình lọc vào xi hóa tự nhiên. Các nhân tố địa chất
ảnh hưởng là: loại đất, chiều sâu mực nước, chiều sâu nền đá và
địa hình. Các biến số này thường được liệt kê với sự mô tả về đất
liên quan với sự xem xét đất đai ở vùng đó và các vùng khác . Mục
tiêu chính của quá trình xử lý này là giảm lượng huyền phù, vi
khuẩn và bổ sung lượng Oxy cần thiết cho nước. Kết hợp với kỹ
thuật phát triển để loại bỏ các chất dinh dưỡng và các quá trình
phân huỷ vô cơ có thể gây hại cho hiện tại .
Hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn tự nhiên hoạt động của các vi
sinh vật có sẵn để phân hủy các hợp chất hữu cơ cũng như các quá
trình vật lý và hóa học tương tự như các quá trình xảy ra trong tự
nhiên để làm sạch nước thải. Hệ thống có thể xử lý với hiệu quả
cao các chất ô nhiễm hữu cơ dễ phân hủy, hợp chất nitơ, phốtpho,
các chất hoạt động bề mặt, vi khuẩn, các chất rắn lơ lửng, màu và
mùi có trong nước thải.
Hình ảnh máy xử lý nước thải :
23
Trong nông nghiệp khi sử dụng phân hay thuốc thì phải dùng cho
hợp lý tránh gây ô nhiễm đất. Các chất thải rắn và rác thải sinh
hoạt phải phân ra và xử lý đầu tư công nghệ máy móc hiện đại để
xử lý . Những nơi ô nhiễm đất do chiên tranh để lại phải quanh
vùng và đầu tư xử lý .
Xử lý ô nhiễm môi trường nước phải có sự chung sức của toàn xã
hội vào cùng nhau bảo vệ đất.
24