Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

PHÁ RÀO CẢN TÍN DỤNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.89 KB, 4 trang )

PHÁ RÀO CẢN TÍN DỤNG
Lãi suất không là “tội đồ”

Số liệu của NH Nhà nước cho thấy đến ngày 2-8, dư nợ cho vay
bằng VNĐ đối với các khoản vay có mức lãi suất dưới 10%/năm
chiếm tỉ trọng 3,4%; mức lãi suất từ 10%-13%/năm chiếm tỉ trọng
18,5%; mức lãi suất trên 13% -15%/năm chiếm tỉ trọng 49,1%;
mức lãi suất trên 15%/năm chiếm tỉ trọng 29,1%, giảm khoảng
60% so với tỉ trọng trước ngày 15-7 (thời điểm NH Nhà nước kêu
gọi các NH thương mại giảm lãi suất cho vay cũ về 15%/năm).

Thống đốc NH Nhà nước Nguyễn Văn Bình cũng dự báo lạm phát
của năm 2012 chỉ khoảng 6%-7%. Khi đó, lãi suất huy động có thể
giảm còn 8%/năm, tạo điều kiện để lãi suất cho vay phổ biến ở
mức 10%-12%/năm.

Theo ông Võ Văn Châu, cố vấn ban điều hành NH Đại Tín, nếu lãi
suất huy động vốn xuống còn 8%/năm, lãi suất cho vay cao hơn lãi
suất đầu vào 2%-4% là hợp lý. Thế nhưng, tại thời điểm này, nhiều
DN rất dè dặt vay vốn NH vì cho rằng hoạt động kinh doanh của
họ sẽ thiếu hiệu quả.

Tuy nhiên, ông Trương Văn Phước, Tổng Giám đốc NH Xuất nhập
khẩu Việt Nam (Eximbank), cho rằng lãi suất thấp không phải là
yếu tố quyết định mà cốt lõi của việc DN không tiếp cận vốn NH
là do sức mua của nền kinh tế suy giảm nên các DN hết sức thận
trọng. NH cũng không thể cho vay tiền khi hàng tồn kho DN ngày
càng tăng. Theo thống kê của Eximbank với khách hàng của mình,
trong chi phí của DN chỉ có 24% là lãi vay, phần còn lại là chi phí
của hàng tồn kho. Điều này chứng tỏ việc tiêu thụ hàng hóa, sản
phẩm mới là vấn đề quyết định cho tín dụng NH đưa ra cho nền


kinh tế.
Nên xử lý nhanh nợ xấu

Một số chuyên gia kinh tế cho rằng do Việt Nam tập trung quá
nhiều vào việc giảm cầu để chống lạm phát nên hệ quả là hàng tồn
kho tăng mạnh. Chính phủ cần nghiên cứu ban hành các chính sách
kích cầu để phá được tảng băng hàng hóa, vật tư tồn đọng…, như
vậy thì nền kinh tế mới hấp thu được vốn từ NH. Mặt khác, nợ xấu
đang ảnh hưởng đến việc “bơm” vốn của NH. Do đó, các NH phải
sử dụng các năng lực tài chính tự thân để xử lý nợ xấu.
Để xử lý nợ xấu, thông thường các NH sẽ phát mãi tài sản bảo đảm
mà DN đã thế chấp. Thế nhưng, do phải tuân thủ đúng quy định
pháp luật nên việc phát mãi tài sản tiêu tốn rất nhiều thời gian dẫn
đến việc giải quyết nợ xấu thường kéo dài, có thể làm cho tốc độ
phát triển kinh tế chậm lại.

Vì thế, có ý kiến đề xuất trước mắt, Nhà nước cho phép các NH
thương mại sử dụng nguồn dự phòng rủi ro của từng khoản vay và
nguồn dự phòng chung 0,75% để xóa nợ xấu. Đây là số tiền đang
nằm bất động tại các NH bởi khi cho vay 100 đồng, NH phải trích
lập dự phòng 0,75 đồng. Ngoài ra, việc xử lý nợ xấu cần có sự
tham gia của một định chế thuộc Nhà nước để nợ xấu được giải
quyết nhanh hơn.


Muốn “đẩy khó” cho Nhà nước
Lãnh đạo nhiều NH cho biết có rất nhiều cách thức giải quyết nợ
xấu.
Trước hết, NH phải phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ,
xử lý tài sản bảo đảm, nợ xấu sẽ giảm xuống. Cụ thể, nợ xấu của

NH nào thì NH đó phải sử dụng năng lực tài chính để xóa nợ, còn
những khoản nợ nào được Nhà nước hay Bộ Tài chính bảo lãnh thì
các NH thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh đó…
Đây không chỉ là thông lệ quốc tế về giải quyết nợ xấu mà còn là
thực tiễn tại Việt Nam. Hiện nay, không ít NH muốn chuyển giao
việc xử lý nợ xấu cho Nhà nước bởi nếu NH tự thân giải quyết sẽ
phải trích lập thêm dự phòng rủi ro, khiến lợi nhuận giảm sút, ảnh
hưởng đến thương hiệu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×