1
Bệnh nang lông dưới da vùng xương
cùng cụt - xoang long
Gọi là bệnh xoang lông (Pilonidal disease, Manladie pilonidale) vì trong
xoang có lông, còn được gọi là nang lông hay nang cùng cụt vì nằm ở vùng
xương cùng xương cụt.
Bệnh khởi phát từ một khoang giả nang phát triển trong mô tế bào dưới da
của vùng cụt, rồi hình thành một u hạt, có nhiễm trùng ít hay nhiều ở chung
quanh các sợi lông.
SINH BỆNH HỌC
Lúc đầu, bệnh được hình thành từ một khoang giả nang trong có nhiều lông.
Nang lông thông với da bởi một hay nhiều đường nguyên thủy và những
đường thứ phát. Đường nguyên thủy được biểu mô hóa và đường thứ phát là
hậu quả của quá trình tạo rò.
2
Trước kia, người ta xếp bệnh xoang lông vào loại bệnh bẩm sinh. Ngày nay,
người ta coi bệnh xoang lông, trong hầu hết các trường hợp, là bệnh mắc
phải. Bệnh thấy nhiều ở những người rậm lông. Yếu tố thuận lợi phát sinh
bệnh là ngồi nhiều. Bệnh gặp nhiều ở những người làm nghề lái xe (các tác
giả Mỹ gọi bệnh này là jeep disease).
Cơ chế hình thành bệnh như sau: lông hay tóc tự nhiên bị cắ
t đứt, tập trung
lại thành đám nằm ở đỉnh rãnh liên mông, rồi đâm xuyên ra ngoài, hoàn toàn
nằm ở mô tế bào dưới da. Các sẹo là những yếu tố thuận lợi cho sự di
chuyển của lông.
LÂM SÀNG
Bệnh gặp rất nhiều ở nam hơn ở nữ (tỉ lệ 6/1 trong thống kê của Sarles và
Copes).
Tuổi mắc bệnh trung bình là 30.
Trong thể cấp tính, bệnh được biểu hiện bằng một áp xe nằm ở vùng giữa
của đỉnh rãnh liên mông. Áp xe hiếm khi tự khỏi. Nếu có khỏi thì cũng dễ bị
tái phát. Về diễn tiến, thường thì ổ áp xe mở ra ngoài da. Khi áp xe vỡ ra
ngoài thì các triệu chứng của viêm nhiễ
m hết.
Biểu hiện của bệnh xoang lông thường là một rò mở ra ở sau hậu môn.
Nhưng rò cũng có thể mở ra ở nơi khác thấp hơn, thậm chí có thể mở ra ở
trước hậu môn, lúc này chẩn đoán thường khó. Khi chẩn đoán khó, phải bơm
hơi hay bơm xanh methylen vào lỗ rò, thấy xuất hiện những bong bóng.
Những bong bóng này không nằm trong lòng ống hậu môn như trong rò hậu
môn mà ở vùng sau xương cụt. N
ếu chẩn đoán chưa được xác định, cần chụp
X quang đường rò, thấy đường rò nằm ở xa ống hậu môn.
3
Bệnh xoang lông và bệnh viêm tuyến mồ hôi là hai bệnh hoàn toàn khác
nhau, không có chung một nguyên nhân, nhưng lại hay đi kèm với nhau.
Một xoang lông không được chữa trị sẽ tái đi tái lại.
ĐIỀU TRỊ
Nạo sạch
Gây tê tại chỗ. Khoét bỏ hay không khoét bỏ các lỗ rò ở ngoài da. Nạo và
rửa xoang. Sau khi xoang đã được làm sạch, bơm vào nang 2 ml acid phenic
nguyên chất. Một số tác giả đạt kết quả tốt
Phẫu thuật
Mổ c
ắt bỏ lấy đi xoang lông. Sau khi cắt bỏ, vết mổ được khâu kín lại ngay
hay để hở, tự nó sẽ làm sẹo. Cách này hiện nay được đa số các phẫu thuật
viên sử dụng.
Kỹ thuật
Vùng mổ được nạo sạch lông thật sạch. Bệnh nhân nằm sấp, hai chân dạng.
Dùng băng kéo to bản kéo hai mông sang hai bên để banh rộng vùng giữa
hai mông. Banh rộng hai mông để có một phẫu trường rộng rãi, dễ dàng cho
các động tác phẫu thuật.
Bơm xanh Methylene vào lỗ rò để dễ dàng nhận định thương tổn, dùng dao
mổ thường, rạch da hình thoi, hai cạnh hình thoi ôm lấy lỗ rò và xoang
nguyên phát. Hai cạnh của hinhg thoi gần hay xa tùy theo thương tổn nhỏ
hay to.
Cần lưu ý là xoang nguyên phát có khi ở rất thấp, ngay trên ống hậu môn.
Dùng dao điện cắt bỏ dần mô bệnh, cắt cho tới cân cùng-trực tràng. Nếu có
những ngóc ngách ở hai bên, bắt buộc phải cắt bỏ
rộng rãi mô tế bào dưới da.
Cầm máu thật kỹ để không phải dẫn lưu.
Vết mổ được khâu lại. Khi khâu, mũi kim lấy sâu, tất cả các lớp và cả cân
sau xương cùng. Để thấy rõ đáy vết mổ, thuận lợi cho động tác khâu, không
thắt chỉ ngay mà sau khi khâu xong cả đường rạch mới thắt chỉ. Nên khâu
theo kiểu Donati để da không bị cuộn, dễ liền sẹo hơn.
4
Trường hợp phải cắt bỏ rộng rãi, nếu đường khâu bị căng thì nên rạch thêm
một đường song song với đường mổ (contre incision), để đường khâu không
bị căng, dễ liền sẹo hơn. Không cần dẫn lưu, ngay cả với ống dẫn lưu nhỏ
kiểu Redon, với điều kiện là cầm máu phải thật tốt. Dẫn lưu dễ làm vết mổ
nhiễm trùng t
ừ ngoài vào. Băng ép vết mổ.
Săn sóc sau mổ
Không dùng kháng sinh. Không để bệnh nhân táo bón. Bệnh nhân có thể
ngồi dậy và đi lại ngay ngày hôm sau.
Ngày sau mổ bỏ băng ép. Vết mổ được rửa sạch bằng cồn iod và băng kín.
Ngày thứ 10 cắt chỉ. Nếu vết mổ để hở không khâu, sẽ liền sẹo sau một thời
gian, tối thiểu là 2 tháng.
Ngày thứ 8 cạo lông thật sạch, trong tháng đầu mỗi tuần c
ạo lông một lần,
rồi sau đó có thể thay cạo lông bằng bôi thuốc ngăn chặn mọc lông trong
một năm. Lông là nguyên nhân của tái phát bệnh.
Trong ba tháng đầu, hàng tháng khám lại. Trong những tháng tiếp sau, hàng
hai tháng khám lại. Trước khi khám lại phải cạo lông thật sạch, phải nhổ
những sợi lông mọc ở vết sẹo. Khi khám phải quan sát thật kỹ.
Theo dõi một năm. Nếu không có tái phát, bệnh được coi như khỏi hẳn.
Kết qu
ả
Với cách điều trị như trên, kết quả tốt đạt 95% các trường hợp, tái phát 5%.
Nếu được theo dõi tốt, kết quả có thể đạt 100%.
Khâu kím ngay trong thì đầu hay để hở không khâu, tỉ lệ khỏi bệnh như
nhau. Nhưng nếu để hở không khâu, thời gian nằm viện không phải 10 ngày
mà lâu hơn, thời gian trở lại công tác không phải là một tháng mà lâu hơn.