1
TIỂU LUẬN
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
1.1.
1.2.
1.4.
1.4.
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
Khái niệm nền kinh tế thị trường
Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường
Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3
3
4
6
10
Chương 2
ở nước ta
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
11
11
13
15
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.1.
2.2
2.3.
2.4.
NƯỚC TA
Trước đổi mới
Thời kỳ sau đổi mới
Những mặt trái trong phát triển kinh tế thị trường
Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định
18
23
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
2
Sau hịa bình lập lại, cách mạng dân tộc dân chủ hồn thành trên phạm
vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước
trở thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội
cơng bằng văn minh. Để đạt được như vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu
tiên phát triển kinh tế và coi đó là vấn đề sống cịn và một trong số đó là xây
dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu
của nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Do đó mà ở nước ta cũng như
các nước khác trên thế giới muốn tìm tịi mơ hình quản lý kinh tế vĩ mơ thích
hợp và hiệu quả hơn. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương khố VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập: Nhà nước quản lý
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách nhằm
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động
Chính vì vậy mà xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở
nước ta, và nhờ có đường lối đúng đắn kinh tế nước ta đã thoát khỏi những
khủng hoảng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiên
đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ
vững. Nước ta từ một nước với cơ chế kế hoạch hóa, đã từng bước chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá
trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.
3
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI viết; Giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân
theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Để nâng
cao nhận thức về vấn đề kinh tế trị trường, bản thân chọn; Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, làm đề tài tiểu
luận.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
1.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường:
Theo quan điểm của Samuelson trích trong kinh tế học thì: “ Một nền
kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác
nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một
phương tiện giao thơng để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá
nhân khác nhau, khơng có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài tốn mà máy
tính lớn nhất hiện nay cũng khơng thể giải nổi. Khơng ai thiết kế ra nó. Nó tự
xuất hiện và nó đang thay đổi cũng như xã hội loài người.” Kinh tế thị trường
là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn
minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề
của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một
trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự
cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong những
quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế:
người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua
và người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
4
Theo quan điểm của đảng ta, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy
luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Một nền kinh tế mà trong
đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền
kinh tế thị trường. Nói cách khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế
hàng hố chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với
nền tập trung ở chủ thể xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế mà nền
kinh tế tập trung chủ thể này là nhà nước thơng qua các mệnh lệnh hành
chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh và là động lực cho nền kinh tế
phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã xác
định xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tức là có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhưng không phải
can thiệp vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp thơng
qua các chính sách kinh tế vĩ mô, theo quy luật kinh tế khách quan, nhằm ổn
định nền kinh tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản
xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này được xem là cần thiết nhằm thiết lập
khuôn khổ pháp luật phù hợp, sữa chữa những khuyết tật của thị trường, đảm
bảo sự công bằng xã hội và ổn định nền kinh tế vĩ mô. Cũng có yếu tố gần
giống với lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã được Samuelson đưa ra. Theo ông
phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn tay là cơ chế thị trường và nhà nước:
“điều hành một nền kinh tế khơng có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như
định vỗ bằng một bàn tay”. Tuy nhiên trong hồn cảnh nước ta thì sự can
thiệp của nhà nước cịn đóng vai trị giữ cho nền kinh tế đi theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường
5
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền
kinh tế hàng hố. Phân cơng lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành cơng
nghiệp có hàm lượng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin
học… Bên cạnh đó các làng nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ.
Các sản phẩm của ngành đang từng bước khẳng định thương hiệu trên thị
trường trong nước và quốc tế. Đây chính là những thế mạnh củaViệt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.Sự phát triển này đã kéo theo sự phát
triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất.
Kể từ sau Đại hội Đảng tồn quốc lần VI. Việt Nam đã chính thức thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các
thành phần kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó
xuất hiện sự khác biệt giữa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản
phẩm lao động. Đây chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hành hố có cơ sở ra
đời. Khác biệt về sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra
động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế phát triển mặc dù mặt trái của nó là sự
phân hoá về giàu và nghèo.
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hố tập trung đã
đến lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị
trường với những ưu thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và cần
thiết. Cơ chế quản lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã khơng cịn phù hợp với
tình hình trong nước và quốc tế. Những căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như
bảo thủ, trì trệ, kém năng lực hình thành nên bộ máy quản lý thiếu chun
mơn nghiệp vụ nhưng lại có thái độ quan liêu, cửa quyền cần phải được thay
đổi. Thực tế cho thấy trải qua gần hai mươi năm đổi mới gây dựng nhưng
chúng ta vẫn phải thực hiện các cuộc chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành
chính chứng tỏ những quan niệm cũ sai lầm đã ăn sâu bám rễ như thế nào.
Việc xố bỏ hồn tồn khơng dễ dàng, khơng thể hồn thành trong một sớm
một chiều nhưng đó là việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với
6
cơ chế cũ cũng là sự bất cập khi nhà nước can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh
doanh, điều hành không tuân theo các qui luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn
đến sự thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra. Chuyển
sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển theo
đúng những qui luật kinh tế khách quan.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng việc chuyển đổi sang mơ hình
kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mơ hình kinh tế đó
chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút
vốn và kỹ thuật nước ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội,
phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm trong thập niên đầu thế kỷ XXI là trên 7%.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tiến bộ, đặc biệt là sản xuất lương thực đưa Việt
Nam trở thành nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lương thực. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và xã hội được tăng cường. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng
cao tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển trong tương lai.
1.3. Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số
điểm như sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hồ nhập
với thị trường thế giới.
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền
kinh tế cịn mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến
tới nền kinh tế thị trường và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá
đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hồ nhập với thị trường thế giới,
7
Chính giao lưu hàng hố đã làm cho quan hệ quốc tế được mở rộng khỏi
phạm vi quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng.
Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã
chuyển quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các
nước khơng phân biệt chế độ chính trị, theo ngun tắc đơi bên cùng có lợi và
khơng can hệ vào chuyện nội bộ của nhau.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một điểm đột phá
lý luận, một mô hình thực tiễn đang trong quá trình thử nghiệm, là sự phủ
định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp.
Đương nhiên, đó khơng phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy
rằng nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh
tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy
định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam chính là bàn về bản chất của những thành phần kinh tế của nền
kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Những thành phần kinh tế
đó tạo thành cơ sở kinh tế của định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Con đường chính trị xã hội chủ nghĩa là một tất yếu
khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại cả loài người vẫn tiếp tục
vượt qua chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách này hay cách
khác, cho dù trước mắt cịn gặp vơ vàn khó khăn. Định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tập trung vào quan hệ sở hưu của
nền kinh tế, bên cạnh đó chú trọng vào mặt phát triển lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ
quá độ ở nước ta không phải chỉ do định hướng chính trị chi phối, mà cịn
8
được chi phối bởi cơ sở kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh
tế mà trong q trình vận động, tự nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, và do đó,
nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh lên.
Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Chỉ có
hình thức cơng hữu mới mang bản chất xã hội chủ nghĩa, cho nên việc nhanh
chóng mở rộng hình thức cơng hữu, thu hẹp hình thức tư hữu là thực hiện yêu
cầu định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là không đúng với
lý luận Mác - Lê-nin và đường lối chính trị, kinh tế của Đảng ta trong thời kỳ
quá độ. Đại hội IX của Đảng xác định: Chế độ công hữu sẽ từng bước được
xác lập và "sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng
xong về cơ bản". Nhưng, từ nay đến đấy còn xa, hình thức sở hữu tư nhân cịn
tồn tại lâu dài và cịn đóng vai trị tích cực trong nền kinh tế thị trường nước
ta. Để hình thức cơng hữu tiến lên chiếm ưu thế tuyệt đối, chắc chắn phải làm
cho nó tiến triển một cách kinh tế, như một quá trình lịch sử tự nhiên, chứ
khơng bằng biện pháp hành chính.
Phân tích một cách lịch sử cụ thể, chúng ta thấy kinh tế tư bản của thời
kỳ đổi mới ở nước ta là sản phẩm của đường lối đổi mới của Đảng ta. Nó
khơng hồn tồn giống với kinh tế tư bản của chủ nghĩa tư bản. Theo một
nghĩa nào đấy, trong xã hội ta hiện nay vẫn có mâu thuẫn giữa công hữu và tư
hữu, giữa lao động và bóc lột, nhưng đó là những mâu thuẫn có thể giải quyết
được một cách êm thấm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta có thể
n tâm thực hiện nhất quán một chính sách tích cực, cách mạng đối với kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Cần lãnh đạo và quản lý chặt chẽ, khắc phục mặt tiêu cực
của thành phần kinh tế này, nhưng không hạn chế, phân biệt đối xử, mà phải
khuyến khích, tạo điều kiện cho nó phát triển. Đương nhiên, khơng nên phiến
diện, một chiều trong việc đánh giá vai trò của các tầng lớp đại diện cho thành
phần kinh tế này, nhất là đánh giá vai trò của họ cao hơn vai trò của những
giai cấp và tầng lớp đang là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm
9
thế nào để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân là một vấn đề lớn cần được bàn luận nhiều, để qua đó, có biện pháp
hữu hiệu trong việc củng cố và hồn thiện nó. Hiện nay, cần chống định kiến
xấu với kinh tế tư nhân, nhưng cũng cần chống định kiến xấu với kinh tế nhà
nước. Có thể khẳng định rằng, chỉ cần bảo đảm cho kinh tế nhà nước đóng vai
trị chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của nền
kinh tế quốc dân, và Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, thì
việc phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế theo hình thức sở hữu tư nhân
sẽ phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay.
Như vậy, khi trả lời câu hỏi, cái gì là nhân tố xã hội chủ nghĩa trong
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần? Thì phải thật sự phân biệt được đâu là
chế độ công hữu, đâu là chế độ tư hữu, khơng thể xóa nhịa ranh giới giữa
chúng, và phải xem xét mối quan hệ giữa chúng một cách biện chứng. Chế độ
công hữu dưới hình thức kinh tế nhà nước hiện nay là tiêu biểu cho nhân tố xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta. Tuy nhiên, nhân tố đó không
tồn tại biệt lập, mà đan xen, xâm nhập vào các thành phần kinh tế khác, tạo
nên những mầm mống xã hội chủ nghĩa trong lòng các thành phần kinh tế tư
nhân; thơng qua những hình thức kinh tế q độ của chủ nghĩa tư bản nhà
nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không
chỉ khác kiểu với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới mà cịn khác
về trình độ phát triển; nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn,
trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại.
Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền
kinh tế thị trường thế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì
chúng ta càng sớm có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cần lưu ý rằng, trong lĩnh
vực kinh tế thị trường, cũng có quy luật phát triển rút ngắn, đi tắt, đón đầu.
10
Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị
trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hóa là từ kinh tế hàng hóa giản đơn
của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. Ở đây, chúng ta gặp lại vấn đề từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị
trường. Chúng ta sẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng hóa
lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa
các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa.
1.4. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các
thành viên trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trị chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ
sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải
từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà khơng tính đến
hiệu quả như trước đây.
Về quản lý trong kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa phải
có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng
thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương thức quản lý
11
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường,
bảo vệ lợi ích nhân dân lao động và toàn thể quần chúng nhân dân.
Về phân phối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh
và thông qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích
thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đông thời hạn chế những bất công trong xã hội.Thực hiện tăng trưởng kinh tế
gắn liền với công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta
còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển văn hố, giáo
dục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm
cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo trong
đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con
nguời, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thể hiện trình độ tư duy và vận
dụng của Đảng ta về qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mơ hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA
2.1. Trước đổi mới
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất,
cách mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp
lại chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh kéo dài. Trong 15 năm nhân dân ta
12
đã khơng ngừng phấn đấu vựot qua bao khó khăn thử thách mới giành được
độc lập thống nhất đất nước. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước
xác lập quan hệ sản xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hố giáo dục y tế, thiết lập củng cố
chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình
trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp.
Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như trong kết cấu hạ tầng
kinh tế văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước
và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
để lại nhiều hậu quả tiêu cực do đó nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều với đặc trưng sản xuất chậm
và không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao
động và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp
sống văn hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an tồn xã hội
khơng được đảm bảo, tham nhũng nhiều và tệ nạn xã hội phát triển.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành Trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã
được chấp nhận nhưng mới ở mức độ thứ yếu. Đó là do qua nhiều thập kỷ
qua, tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến coi quan hệ
hàng hoá và cơ chế thị trường là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư
bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mơ hình dập
khn giáo điều chủ quan duy ý chí các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiếu về phát
triển công nghiệp nặng, quy mô lớn với xố bỏ các hình thức kinh tế dựa trên
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, nặng nề hình thức phủ nhận nền kinh tế hàng hố theo cơ chế thị trường,
bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả. Những sai lầm đó đã dẫn đến việc
kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển, cuộc cải cách kinh
13
tế bị đẩy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế bị xem như bước lùi
tạm thời
2.2. Thời kỳ sau đổi mới
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước thực trạng là
đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một xã hội vốn
là thuộc địa nửa phong kiến, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội
thấp. Không những thế, đất nước ta lại trải qua hàng chục năm chiến tranh,
hậu quả để lại vô cùng nặng nề, những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều,
lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Từ những đặc điểm trên ta có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta
khơng cịn hoàn toàn là nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng cũng chưa phải là
nền kinh tế hàng hoá theo ý nghĩa đầy đủ. Mặt khác do có sự đổi mới về mặt
kinh tế nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế
hàng hố kém phát triển, cịn mang nặng tính chất tự cấp là ảnh hưởng nặng
nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được thể hiện ở các
mặt sau:
Thứ nhất, kinh tế hàng hóa kém phát triển, nền kinh tế cịn mang nặng
tính tự cung tự cấp, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chưa có
thị trường theo đúng nghĩa của nó và năng suất lao động xã hội và thu nhập
quốc dân tính theo đầu người cịn thấp.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và phát
triển, vì vậy thị trường nước ta cũng được hình thành và phát triển. Xem xét
khái quát về thị trường nước ta trong những năm qua vẫn thấy còn là thị
trường ở trình độ thấp, tính chất của nó vẫn cịn hoang sơ, dung lượng cịn
yếu và có phần rối loạn. Chúng ta mới có thị trường hàng hố nói chung,
trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thơng thường với hệ số giá cả và quan
hệ mua bán bình thường. Về cơ bản chúng ta chưa có thị trường sức lao động,
thị trường tiền vốn trong khu vực kinh tế nhà nước. Thực trạng này của thị
trường nước ta là do kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách
14
quan là do trình độ phát triển của phân cơng lao động xã hội còn thấp, nền
kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do những nhận
thức chưa đúng đắn của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là do sự phân biệt duy ý
chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Điều cần thiết phải rút ra từ thực trạng của thị trường trên đây là: với tất
cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị trường, việc chuyển nền
kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường vẫn đưa tới mức tiến bộ về mật kinh tế
hơn hẳn trước đây và tạo khả năng dẫn tới bước ngoặt quyết định. Nhiệm vụ
đặt ra hiện nay là phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của
thị trường ngày càng đầy đủ và thông suốt, thống nhất trên phạm vi cả nước,
phải gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ hai về thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường là ảnh hưởng của mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Hai cơ chế kinh tế cũ và mới (cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp và thị trường) có nhiều đặc điểm khác nhau, điểm khác nhau cơ bản
nhất là: cơ chế cũ hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc gần như xoá bỏ quan hệ
hàng và tiền tệ, làm cho nền kinh tế bị “ hiện vật hố” cịn cơ chế mới hình
thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Quy luật tồn tại trong cơ chế giao nộp và cấp phát chỉ là hình thức, việc
mở rộng sản xuất và lưu thơng hàng hố là một tất yếu lịch sử cho nên hạn
chế quuan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ
kinh tế, kìm hãm nhân tố mới. Do đó làm cho nhà nước khơng thể làm chủ
những q trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay nhà nước có thực lực
kinh tế to lớn. Vì vậy, đại hội lần thứ VII Đảng ta đã khẳng định: Xoá bỏ triệt
để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp hình thành cơ chế thị trờng có
sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính sách và các công cụ
khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ sức lao
động… thực hiện kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới.
15
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”, chính sách knh tế đối ngoại của nền
kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau:
Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức
kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên ngun tắc tơn trong độc lập chủ
quyền bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở
các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập
và tạo chỗ đứng ở thị trường mới, phát triển các mối quan hệ dưới mọi hình
thức.
Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể
và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phát huy ý chí tự lực tự
cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực
trong nước là chính, đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực ở bên ngoài.
Theo những định hướng trên, mấy năm qua, hoạt động kinh tế đối
ngoại ở nước ta đã lập lại quan hệ bình thường với các quan hệ tài chính, tiền
tệ quốc tế, bước đầu đã thu đựoc những thành tựu quan trọng về kinh tế đối
ngoại.
Ngồi ra nền kinh tế thị trưịng phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa cần có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của
kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn trước
đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm này cũng chính là mơ hình kinh tế khái qt trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mơ hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng,
làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
2.3. Những mặt trái trong phát triển kinh tế thị trường
16
Măc dù nước ta đã đạt được nhưng thành tựu nhất định trong phát triển
kinh tế và ổn định tình hình chính trị xã hội nhưng khơng phải khơng cịn
nhưng tồn tại cần được giải quyết nhất là những tồn tại trong việc điều hành
nền kinh tế và giải quyết các vấn đề thương mại. Tuy những khó khăn này chỉ
là tạm thời nhưng chúng ta vẫn phải giải quyết để làm lành mạnh hoá nền
kinh tế và đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế nước nhà .
Một trong những hạn chế lớn hiện nay là Việt Nam còn thiếu quá nhiều
thông tin, đặc biệt là thông tin trong lĩnh vực kinh tế. Khơng có các thơng tin
cần thiết về thị trường, về Luật kinh tế dẫn đến nhiều thất bại. Đáng chú ý là
vấn đề thương hiệu và gần đây là những khó khăn trong việc thâm nhập thị
trường Mỹ. Phải thừa nhận chúng ta đã khơng có nhưng thông tin cần thiết và
cũng không tiến hành những hoạt động mà đáng ra chúng ta phải thực hiện
trước khi thâm nhập và thành cơng trên thị trường khó tính này. Một hạn chế
khác là chúng ta vẫn cịn tồn tại những nghành kinh tế còn quá yếu kém khi
mà chúng ta đã và đang dỡ bỏ một số hạn ngạch thuế quan cho một số mặt
hàng để chuẩn bị cho quá trình tham gia tổ chức thương mại quốc tế WHO.
Nguyên nhân của sự khó khăn này một phần là do cịn có nhưng ngành kinh
tế hoạt động không hiệu quả đặc biệt trong sử dụng vốn. Một phần là do một
phần những ngành khác có tỷ lệ nội địa hố thấp. Ngồi ra vẫn phải thừa nhận
là các ngành kinh tế Việt Nam phát triển phần lớn là dựa vào sự tăng lên về
vốn. Theo thống kê gần đây thì trong cơ cấu một đồng sản phẩm tăng lên thì
có tới 74% là do tăng về vốn , 14% do lao động và chỉ có 12% là do sự tăng
lên về năng suất thôi. Trong những nghành có tỷ lệ nội địa hố thấp thì có thể
kể đến ngành ô tô và công nghệ tin học, phần lớn hàng hoá sản xuất trong
nước mới dừng ở mức lắp ráp sản phẩm linh kiện nhập từ nước ngoài về.Ví
dụ ngành ơ tơ tỷ lệ nội địa hố mới ở mức 8%, cao nhất là Toyota Việt Nam
tỷ lệ này cung chỉ đạt 14%. Hiện nay một trong những vấn đề mà các nhà
quản lý không thể giải quyết mâu thuẫn giữa việc giảm để kích thích tiêu
17
dùng các loại hàng hoá đồng thời phải tăng thuế để buộc các doanh nghiệp
tăng tỷ lệ nội địa hố.
Đó là trên sân nhà, còn trên thị trường thế giới thì sao? Nói chung hàng
hố Việt Nam vẫn cịn chủ yếu cạnh tranh bằng giá. Nói chung cơng nghệ sản
xuất của Việt Nam cịn khá lạc hậu nên hàng hố có giá trị thấp, hàm lượng
khoa học khơng cao. Kết quả dễ thấy là lợi nhuận sẽ thấp. Trong khi đó, Việt
Nam lại chưa vươn tới những thị trường dễ tính như châu Phi, Đơng Âu… mà
chủ yếu hàng hố xuất sang EU, Nhật và Mỹ vốn là những thị trường khó tính
địi hỏi những tiêu chuẩn khắt khe. Các tham tán thương mại cũng chưa hoạt
động hiệu quả trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường. Một vấn đề
nữa là hàng hoá Việt Nam vẫn hay bị một số nước mua lại, dán nhãn mác
khác để bán ra thị trường. Đây là một thiệt thòi lớn cho chúng ta khơng chỉ là
lợi nhuận mà cịn liên quan đến những quyền lợi và tài sản vơ hình khác.
Khơng chỉ vậy, trong lĩnh vực quản lý nhà nước chúng ta cũng cịn tồn
tại khơng ít những hạn chế đặc biệt trong lĩnh vực quản lý hành chính và chế
độ tài chính cơng. Phải thừa nhân rằng bộ máy hành chính của Việt Nam cịn
rất cồng kềnh và cịn q nhiều khâu trùng lặp. Mặc dù chúng ta đã có những
cải cách trong rút gọn thủ tục hành chính nhưng vẫn cịn khá phức tạp, chưa
thực sự thơng thống. Tiêu biểu là việc cải thiện chế độ hải quan tại các cảng
biển nước ta. Theo đánh giá của các nhà kinh doanh nước ta đây là một tiến
bộ lớn nhưng sau một thời gian kiểm điểm lại chính chúng ta cũng phải thừa
nhận những khiếm khuyết vẫn còn tồn tại. Đồng thời với việc nặng nề trong
thủ tục hành chính thì vấn đề liên hệ giữa các thành phàn tham gia giải quyết
cũng chưa thông suốt. Hệ thống luật Việt Nam cũng chưa thực sự hoàn thiện
và thiếu sự ổn định. Đặc biệt là hệ thống luật kinh tế nói chung ln thay đổi
gây khơng ít khó khăn cho doanh nghiệp. Gần đây các phương tiện thông tin
đại chúng liên tục đưa ra những kiến nghị của các doanh nghiệp xung quanh
vấn đề mua hoá đơn GTGT. Theo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài tham
gia giúp đỡ Việt Nam trong việc soạn thảo các văn bản luật thì nguyên nhân
18
chính là do Việt Nam có q nhiều văn bản chồng chéo. Ngồi luật cịn có
thơng tư, chỉ thị, hướng dẫn.Đơi khi chính những văn bản này lại hạn chế lẫn
nhau, mâu thuẫn với nhau. Bộ máy hành chính cịn cồng kềnh cũng hạn chế
khả năng hoạt động của các nhà đầu tư. Cái khó nhất ở đây là bộ máy hành
chính càng cồng kềnh càng tạo ra nhiều khâu trung gian, càng làm mất thời
gian của doanh nghiệp trong khi đó có khơng ít khâu cịn có sự chồng chéo
nhau không phân định rõ phạm vi hoạt động. Phát triển đa dạng, đồng bộ,
ngày càng văn minh, hiện đại các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện
nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Xây dựng và
thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối
với người tiêu dùng và đối với môi trường.
2.4. Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Thừa
nhận trên thực tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một
trong những điềukiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hố phát triển, nhờ đó
mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác,
thừa nhận việc khuyến khích các thành phần kinh tế cá thế, tư nhân phát triển
là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Theo
hướng đó mà khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và các
hình thức kinh tế hỗn hợp khác đều được khuyến khích phát triển theo định
hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng
trước pháp luật, tuy vị trí, quy mơ, tỷ trọng, trình độ có khác nhau nhưng tất
cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh
thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Phân công lao động là cơ sở của
19
việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hố, cần phải mở
rộng phân cơng lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi
cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chun mơn hố,
hợp tác hố nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển mọi ngành nghề, sử
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người
lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp
tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi nhằm gắn phân cơng lao động
trong nước và phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước và thị
trường quốc tế. Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bứơc được mở rộng,
tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có
hiệu quả. Thị trường được khai thơng trên khắp mọi miền của đất nước, gắn
liền với thị trường thế giới.
Cần phải tiếp tục phát triển mạnh thị trường hàng hố và dịch vụ, hình
thành thị trường sức lao động có tổ chức, quản lý chặt chẽ đất đai và thị
trường nhà cửa, xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường
chứng khốn.
Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ,
tài nguyên, thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội, cần phải từng bước
hình thành đồng bộ các loại thị trường tiền tệ, vốn, sức lao động, chất xám,
thông tin, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng… Điều này sẽ đảm bảo cho
việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù
hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học cơng nghệ,
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Trong kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thưòng xuyên đổi mới cơng
nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa
học vào q trình lưu thơng hàng hố. So với thế giới, trình độ cơng nghệ sản
20
xuất của ta cịn thấp kém, khơng đồng bộ do vậy khả năng cạnh tranh của
hàng hoá nước ta so với hàng hố nước ngồi trên thị trường cả nội địa và thế
giới còn kém. Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hố, chúng ta phải đẩy mạnh
cơng nghiệp hoá hiện đại hoá.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đaị, đồng bộ cũng đóng
vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã
quá lạc hậu, khơng đồng bộ mất cân đơí nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều
đến quyết tâm của các nhà đầu tư trong cả nước lẫn nước ngoài, cản trở phát
triển hàng hố ở mọi miền đất nước. Vì thế cần gấp rút xây dựng và củng cố
các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trước mắt, nhà nước cần tập trung ưu tiên
xây dựng nâng cấp một số yêu tố thiêt yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng,
sân bay, điện, nước hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng dịch vụ bảo hiểm…
Bốn là, giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp, đổi
mới các chính sách tài chính tiền tệ giá cả. Sự ổn định chính trị bao giờ cũng
là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh
doang trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở
nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãng đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy đầy đủ vai
trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền
kinh tế hàng hố nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh
nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy
phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý
thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống
chế và kiểm soát lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng.
21
Năm là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào
tạo đội ngũ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi. Hệ thống điều tiết
kinh tế vĩ mơ phải được kiện tồn, phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường,
bao gồm điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật chính sách
và các địn bẩy kinh tế, hành chính giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và cả răn
đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước, các đoàn
thể… Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường.
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tương
ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và
đào tạo lại đội ngũ quản lý kinh tế, cán bộ kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có
năng lực chun mơn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu
trách nhiệm. chịu rủi ro và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải
có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm
kích thích hơn nữa việc khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh
quản lý, tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được
chú ý đảm bảo ở cả phạm vi vĩ mô cũng như lẫn cả vi mô, cả cán bộ quản lý
cũng như kinh doanh.
Sáu là, thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại
chúng ta phải đa dạng hố hình thức, đa phương hố đối tác. Phải qn triệt
ngun tắc đơi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Cải cách cơ chế quản lý xuất khẩu,
thu hút rộng rãi nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và
kinh nghiệm quản lý. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
22
chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; đa phương hố, đa dạng hố quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của cơng tác đối ngoại là
giữ vững mơi trường hồ bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Bảy là, giải quyết những hạn chế còn tồn tai của kinh tế thị trường. Thị
trường Việt Nam hiện nay hoạt động cịn yếu, nó chưa đủ mức độ để báo hiệu
những co hội mới. Khu vực tư nhân còn thiếu kỹ năng và kinh nghiệm cần
thiết để đáp ứng các tín hiệu về thời cơ mà họ nhận được. Do đó sự liên lạc có
hiệu quả giữa nhà nước và tư nhân là cần thiết, làm cho các chiến lược phát
triển nền kinh tế nước nhà có thể thực hiện được.
Nhà nước ta cần xây dựng được hệ thống pháp luật hồn chỉnh và có
tính đồng bộ. Hệ thống pháp luật cần được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh
vực: sử dụng, chuyển nhượng và cho thuê đất đai, thị trường bất động sản, thị
trường vốn… Bổ sung, điều chỉnh bộ luật thuế tránh bị chồng chéo, khuyến
khích đầu tư trong nước, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cá nhân,
xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước..
Cải cách gằn liền với đổi mới kinh tế là một nhân tố quyết định đảm
bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, bền vững ở nước ta. Đổi mới
cơ chế quản lý và sáp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước đồng thời xác định lại
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với kinh tế xã hội nước
ta trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản
lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn
mới trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế
vận hành của kinh tế thị trường. Vận dụng và phát huy mặt tích cực; hạn chế,
23
ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để nền kinh tế
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn
định kinh tế vĩ mơ, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát
triển nhanh, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách
kinh tế; đổi mới cơng tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế
của Nhà nước và chức năng của các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà
nước.
Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên sức
mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nước ta phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong
một tương lai không xa đồng thời cũng không để chệch hướng theo con
đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn thì nhất thiết chúng
ta phải xây dựng được một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và mang bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề đựơc
đề cập trên đây mới chỉ là một vài biện pháp mà chúng ta cần làm trong thời
gian trước mắt để tiếp tục ổn định và khắc phục những hạn chế của nền kinh
tế thị trường và sau này trong quá trình phát triển lâu dài của đất nước. Nhất
là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu hướng tồn cầu hố
nền kinh tế thế giới thì khi đó sẽ mở ra rất nhiều cơ hội cũng như những thách
thức đòi hỏi chúng ta phải thật sáng suốt nếu không muốn bị lâm vào tình thế
bị động trước những diễn biến của nền kinh tế thị trường.