Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Tổng quan về nghiệp vụ ngân hàng thương mại pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.29 KB, 50 trang )

Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
L ịch sử hình thành và sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương
mại.
Chức năng của hệ thống ngân hàng thương mại

Khái niệm về NHTM.
Ngân hàng thương mại(NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng
có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều
khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ
đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và
chủ yếu là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng l0/1998:
“Ngân Hàng” là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định
nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu
lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước ".
Nhóm 3


Nghiệp vụ ngân hàng
Như vậy có thể nói NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng
và bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính
trung gian mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ đuọc huy
động, taaoj trung lại, đồng thời sử dung số vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ
chức kinh tế, cá nhân dể phát triển kinh tế xã hội.
I , Sự hình thành và phát triển của NHTM.
Giai đoạn đầu (3500 năm trước Công nguyên):
-> Giai đoạn sơ khai hình thành nghề ngân hàng. Các cuộc chiến diễn ra
triền miên giữa các bộ tộc, tình trạng cướp bóc, tranh giành ảnh hưởng trong
xã hội ngày càng phổ biến; tiền đúc bằng kim loại (đồng, bạc, vàng) đã xuất
hiện trong lưu thông tuy còn rất đơn giản.
 Điều trên làm nảy sinh 2 yêu cầu:
- Làm sao bảo vệ an toàn tiền bạc của mình trong điều kiện có cướp bóc
và chiến tranh xảy ra phổ biến.
- Làm sao để chuyển đổi những đồng tiền bị hao mòn thành những đồng
tiền có đầy đủ trọng lượng để lưu thông 1 cách bình thường.
Đáp ứng 2 yêu cầu này giai đoạn này chỉ có các chùa chiền, các nhà thờ
và những người quyền quý trong xã hội, những thợ kim hoàn…Nghề ngân
hàng ra đời với nghiệp vụ đơn giản: nhận bảo quản tiền và được trả thù lao
bảo quản; đổi tiền đúc và ăn hoa hồng đổi tiền. Nghề ngân hàng sơ khai xuất
hiện từ Hy Lạp rồi lan ra các nước khác.
-> Đến thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, hoạt động của những người
bảo quản và đổi tiền đã tiến triển thêm một bước mới. Họ không những thu
nhận bảo quản, đổi tiền mà còn sử dụng số tiền bảo quản đó để cho vay.
-> Đến thế kỷ thứ III trước công nguyên, La Mã đã chinh phục nhiều
nước về chính trị và quân sự và trở thành 1 đế quốc giàu có bậc nhất và nghề
ngân hàng được mở rộng tại đây. Chính quyền La Mã cho phép những người
hành nghề ngân hàng mở tiệm kinh doanh trên các hè phố với phương tiện
chủ yếu là những cái bàn dài (Bancus) được chia nhiều ngăn để cất giữa bảo

quản tiền và các tài sản khác…
Giai đoạn 2: từ thế kỷ thứ V đến X sau công nguyên.
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
- Giai đoạn này các chủ ngân hàng đã biết cách sử dụng số hiệu tài
khoản để ghi chép theo dõi tiền gửi của các thân chủ (theo dõi số tiền cho
vay, thu nợ, lãi…)
- Nghiệp vụ thanh toán bù trừ cũng được các NH áp dụng trong các giao
dịch thanh toán giữa các đối tượng.
Từ thế kỷ XII – XVI sau công nguyên, các nghiệp vụ ngân hàng phát
triển đa dạng và phong phú: nghiệp vụ chuyển tiền, trả tiền trước cho các
thương phiếu chưa đến hạn (chiết khấu)…
Giai đoạn 3: Từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX:
- Hệ thống NH phát triển nhanh chóng, các NH chạy đua cạnh tranh
hình thành 2 hệ thống NH:
+ Hệ thống NH phát hành -> NH trung ương.
+ Hệ thống NHTM
Tóm lại qua sự phân tích lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng trung
gian, có thể nói NHTM ra đời bằng 2 con đường:
- Thứ nhất, những người chuyên làm nghề kinh doanh tiền đúc dần dần
tích lũy được số vốn, chuyển sang hoạt động cho vay nặng lãi, rồi cùng với
sự phát triển của xã hội, với sức ép từ nhà nước và Giáo hội, họ từng bước hạ
thấp lãi suất cho vay, mở rộng các nghiệp vụ để hình thành các NH cổ từ TK
XIII trở về trước.
- Thứ hai, các nhà kinh doanh trong lĩnh vực công thương nghiệp, dịch
vụ, đứng trước gánh nặng lãi suất của NH cho vay nặng lãi, đã làm cho
họ phải hợp lực lại với nhau, hùn vốn, góp vốn để lập ra các Hội tín
dụng và sau đó phát triển thành các NHTM để hoạt động kinh doanh
ngân hàng với lãi suất thích hợp và vừa phải. Những ngân hàng loại
này ra đời vào khoảng TK XVI trở về sau.

Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM ở Việt Nam.
Ngân hàng thương mại
[1]
đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM
đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và
trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
1) NH trong cơ chế kế hoạch hóa:
- Tổ chức tín dụng đầu tiên là NH tín dụng- thành lập năm 1951 là tiền
thân của NH nhà nước Việt Nam( hệ thống chi nhánh tỉnh và chi điểm
huyện từng là tổ chức tín dụng lớn nhất và duy nhất trong hàng chục năm
ở Việt Nam). Ngày 6 tháng 5 năm 1951 thành lập NH quốc gia Việt Nam(
National Bank of VN) theo sắc lệnh số 15/LCT của chủ tịch nước Việt
Nam Dân Cộng Hòa, đến năm 1961 đổi tên thành NHNN Việt Nam-
NHNN VN(State Bank of VN- SBV) cho đến nay.
- NHNN VN có chức năng : huy động tiền gửi để cho vay, vừa là cơ quan
quản lý tiền tệ tín dụng , vừa là tổ chức kinh doanh không vì mục tiêu lợi
nhuận.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chiến tranh, NHNH VN thực hiện
chính sách lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ cho vay nhằm hướng vào phục vụ cho
các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và phục vụ quốc phòng để hoàn
thành các kế hoạch 5 năm, 10 năm,…NHNN trở thành kênh cấp vốn cho
các ngành, các lĩnh vực thông qua hình thức tín dụng.
Phần lớn doanh nghiệp và hợp tác xã vay 100% vốn ngắn hạn và từ 70-
90% vốn cố định.
- Sau năm 1975, Việt Nam đối mặt với những khó khăn về kinh tế.

Lượng tiền không đủ chi tiêu và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế—xã
hội vì vậy nhà nước phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các
đơn vị hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên, việc làm này đã có những ảnh
hưởng không tốt như làm cho lạm phát tăng, xói mòn tiết kiệm, khuyến
khích tích trữ và đầu cơ, tăng nhu cầu vốn từ NH, lãi suất thực âm, tỷ giá
bị bóp méo, tiền lương không đủ trang trải tạo sức ép NH phải in nhiều
tiền hơn. Hậu quả là NH không bảo toàn được đồng vốn, không tính toán
được hiệu quả kinh tế và do đó lạm phát càng tăng cao( siêu lạm phát)\
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
- Tình trạng độc quyền hệ thống NH đã làm duy trì tình trạng trì trệ
trong NH, giảm vai trò trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu hiệu
quả kinh tế.
- NHNN VN hoạt động theo mô hình NH một cấp: vừa thực hiện các
chức năng nhiệm vụ của NHTW vừa thực hiện các hoạt động của
NHTM.
2) Hệ thống NH trong chuyển đổi cơ chế kinh tế ( sau năm 1988)
- Từ tháng 4/1988, hệ thống mô hình NH một cấp chuyển đổi thành hệ
thống NH 2 cấp, trong đó NH cấp I là NHNN VN chỉ thực hiện chức
năng, nhiệm vụ vốn có của NHTW, còn NH cấp II, bao gồm các
NHTM, các tổ chức tín dụng khác, hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ - NH. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương mại
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.
Tháng 12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân
hàng đã được Quốc hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu
lực từ ngày 1.10.1998) và sau đó Luật NHNN và Luật các TCTD được
sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.
- Đặc điểm nổi bật là mô hình hệ thống NH của nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung chuyển sang mô hình của nền kinh tế thị trường. Đa dạng

hóa loại hình NH, từng bươc xóa bỏ độc quyền, chuyển sang tự do
cạnh tranh và có sự quản lý của NHNN.
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu
sự ra đời và phát triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng
đường trên, hệ thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn
điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động
và hiệu quả trong kinh doanh. Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến
cuối năm 2005 đã có những buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và
hình thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5
NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại thương VN, Ngân hàng đầu tư và phát
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
triển VN, Ngân hàng công thương VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 36 NHTM
cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân
hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2000 chi nhánh
cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân hàng lưu động.
Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau
nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên
trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều
lệ của NHTMCP được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các
quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều
lệ NHTMCP đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều
NHTMCP có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng-1000 tỷ đồng.
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định
và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức
huy động vốn tương đối đa dạng, NHTM VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ
đồng (năm 2005 tăng gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại
TP.HCM các NHTM huy động đến cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp

2,8 lần so với năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay
với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần so với năm 1990, tại
TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp
3 lần so với năm 2001), tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc
gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong 5 năm 2001-
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm 2001-2005 cả
nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ
lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi
lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ
ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần
kinh tế…
Hiệu quả kinh doanh của các NHTM VN nhìn chung có những chuyển biến
tích cực, lợi nhuận tăng trưởng khá cao, có những NHTM tỷ suất lợi nhuận
ròng trên vốn tự có (ROE) đạt trên 20%, riêng tại TP.HCM kết thúc năm
2005 các NHTM đã có những kết quả kinh doanh (thu nhập-chi phí) tăng khá
cao so với năm 2004 (NHTMN tăng 73,9%, NHTMCP tăng 41,3%), dư nợ
tồn đọng giảm dần.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự
đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu
(dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn
cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm 2005-2006
Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương
mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính
của các tổ chức này. Tính đến tháng 2-2007 đã có 34 ngân hàng thương mại
hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng , trong

đó Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương tín có số vốn điều lệ cao
nhất là trên 2.089 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã cung cấp thêm một lượng vốn
khá lớn cho nền kinh tế, chiếm khoảng 16-18% GDP hàng năm và gần bằng
50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Điều này chứng tỏ hệ thống ngân hàng đã
có một sự phát triển vượt bậc, phát huy hiệu quả vai trò huyết mạch trong
việc làm cầu nối giữa sản xuất, tiêu dùng và tiết kiệm.
Vốn điều lệ các ngân hàng thương mại năm 2007
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng

Số lượng NHTM qua các năm
NHTMLD: Ngân hàng
NHTMQD: Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTMLD: Ngân hàng thương mại liên doanh
CNNHTMNN: Chi nhánh Ngân hàng TM nước ngoài
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực hệ thống NHTM VN vẫn còn
quá nhiều điểm yếu kém và tồn tại.
Ngân hàng thương mại Việt Nam: ĐIỂM MẠNH (Strengths)
Nội dung Tỷ lệ
(%)
1 Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp. 100
2 Am hiểu về thị trường trong nước. 100
3 Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo. 100
4 Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và
dịch vụ.

100
5 Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp
cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại.
75
6 Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung
ương.
80
7 Môi trường pháp lý thuận lợi. 60
8 Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng. 60
ĐIỂM YẾU (Weaknesses)
Nội dung Tỷ
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
lệ (%)
1 Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu
của NHTM hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.
90
2 Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém. 90
3 Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa
thỏa đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám.
90
4 Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần
lớn các NHTM VN đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.
70
5 Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn
diện của khách hàng.
80
6 Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau. 50
7 Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao,
nhiều rủi ro.

80
8 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy
đủ, chưa đồng bộ nhất quán.
80
9 Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục
tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh.
90
10 Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM
VN chưa đồng đều nên sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản
phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách
hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng.
80
CƠ HỘI (Opportunities) chuẩn bị gia nhập WTO, chính sách kinh tế
mở, hội nhập kinh tế
Nội dung Tỷ lệ
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
(%)
1 Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán
bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh
quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Từ đó, nâng cao chất
lượng sản phẩm và dịch vụ.
80
2 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi
mới và cải cách hệ thống ngân hàng VN, nâng cao năng lực quản lý
nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp,
hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân
hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập
quốc tế.
95

3 Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM VN học hỏi được
nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng
nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ
quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối
với khách hàng.
90
4 Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành
ngân hàng VN, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều
kiện cho các ngân hàng phát triển các loại hình dịch vụ mới…
100
5 Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng VN
từng bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các
NHTM VN trong các giao dịch tài chính quốc tế.
60
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
6 Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và
phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống
NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận
với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn
vốn cũng như doanh thu hoạt động.
70
7 Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài
tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại VN buộc các NHTM VN
phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị
ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải
thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn,
dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các
ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở VN.

80
THÁCH THỨC (Threats)
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Nội dung Tỷ
lệ (%)
1 Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài
chính sẽ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài
chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng
dần.
95
2 Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể
cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
80
3 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy
đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu
hội nhập quốc tế về ngân hàng.
100
4 Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM VN còn thấp hơn
các ngân hàng trong khu vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các
quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.
65
5 Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng VN cũng chịu
tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi
suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa
vụ và cam kết quốc tế.
65
6 Các ngân hàng thương mại VN đầu tư quá nhiều vào doanh
nghiệp nhà nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có
thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các ngành có khả năng

cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các
NHTM.
75
7 Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi
ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống
thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với
85
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
thông lệ quốc tế.
8 Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về
chiều rộng (cả ở khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng
còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức
khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém
xa so với khu vực.
80
9 Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với
nhu cầu của nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên
cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu
về công nghệ ngân hàng của VN còn khá xa so với khu vực. Nền
văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra khỏi một nền kinh
tế tiền mặt.
85
10 Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động
nhiều nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang
đến một thách thức không nhỏ cho các NHTM VN là làm như thế
nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi đó, NHTM VN thua kém các
Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất
lượng dịch vụ chưa cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng hơn
trước.

95
11 Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài
mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng
VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ
chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất
xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM VN
cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi
kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.
100
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Giải pháp
Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM VN, trong thời gian tới
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
° Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách ngân
hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính,
mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập
đoàn tài chính-ngân hàng đủ lớn, mạnh dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng
thanh lý, giải thể những ngân hàng yếu kém, sáp nhập những ngân hàng nhỏ
không đủ vốn pháp định vào những ngân hàng lớn (vốn pháp định NHTM đô
thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng). Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
NHTMNN, như chúng ta đã cổ phần hóa các DNNN (REE, SACOM,
VINAMILK…) và hiện nay những doanh nghiệp CPH đang phát triển tốt),
thực hiện thí điểm CPH Ngân hàng ngoại thương, sau đó nhân rộng các ngân
hàng khác. Trước khi CPH cần lành mạnh hóa tình hình tài chính, giải quyết
triệt để các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng, có thể sử dụng nguồn vốn NSNN cấp
bù các khoản này, sau đó thu hồi từ việc bán cổ phiếu của NHTMNN khi tiến
hành CPH (giá cổ phiếu của ngân hàng hiện nay cao gấp 5-10 lần so với
mệnh giá).
° Thị trường chứng khoán đang phát triển rất thuận lợi cho các

NHTMCP phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn tự có và năng cao năng
lực tài chính của mình. Việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần của các ngân hàng thương mại trong nước (tối đa 30%) cũng góp phần
tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. “Cái bánh ngon” (lợi nhuận
hoạt động ngân hàng) đã được chia cho nhiều người, trong đó có người nước
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
ngoài không có gì lo ngại, vấn đề là làm sao cho cái bánh đó ngon hơn, chất
lượng hơn và to hơn. Sau NHTMCP Sài Gòn Thương Tín cần tạo điều kiện
cho các NHTMCP khác niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán VN
và tiến tới là niêm yết trong khu vực ASEAN. Vốn điều lệ tăng sẽ góp phần
hiện đại hóa công nghệ, mở rộng mạng lưới, nâng cao năng lực tài chính và
thực hiện nhiều chiến lược khác.
° Cần có một chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, đặc biệt là
chiến lược nhân sự. Gắn chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng
điểm và hình thành các trung tâm đào tạo tại các ngân hàng thương mại.
Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên lĩnh vực dịch vụ cao cấp
nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có cơ chế
tiền lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh chi trả lương
theo cơ chế DNNN, hạn chế việc bình bầu thi đua khen thưởng. Nếu tiếp tục
như vậy sẽ mất hết cán bộ giỏi hoặc cán bộ dễ quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực…
° Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi
nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách
hàng và tăng cường công tác tiếp thị. NTHM VN, cần tiếp tục đa dạng hóa
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy động vốn, tín dụng sản xuất kinh
doanh, tín dụng tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu
hộ chi hộ, giữ hộ, ủy thác, ngân hàng điện tử Cần chú ý phát triển các sản
phẩm gắn với thị trường chứng khoán và hoạt động bảo hiểm.
° Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến

lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải
nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Mạng lưới phủ
khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau được thì vô
nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng
sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị
được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt
là ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh
toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối.
° Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn
cho cả hệ thống ngân hàng và tạo niềm tin cho công chúng, nâng cao thương
hiệu “hàng VN chất lượng cao và giá dịch vụ phải chăng”, tăng cường công
tác kiểm toán-kiểm soát nội bộ nhằm giám sát và ngăn ngừa sai sót trong
từng ngân hàng. Các quy định về thanh tra giám sát cần nghiên cứu và ban
hành phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các quy định trong Basel I (1988) và
Basel II (dự kiến áp dụng cuối năm 2006).
° Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
theo hướng hội nhập. Hai luật ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ
sung, sửa đổi hai Luật ngân hàng VN phù hợp với cơ chế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt, NHNN cần phối hợp với các Bộ có liên
quan như: Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ tài Chính, Công an,
…ban hành những Thông tư liên bộ có liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế
chấp, đặc biệt là các tài sản của DNNN để NHTM thu hồi nợ nhanh chóng và
góp phần lành mạnh hóa năng lực tài chính của các NHTM trước thềm hội
nhập, cũng như trước khi tiến hành cổ phần hóa NHTM NN.
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp

phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại VN trong
tiến trình hội nhập quốc tế.
Tóm lại quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM ở Việt
Nam trải qua một chặng đường khá dài với nhiều khó khăn, thử thách nhưng
đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Càng ngày hệ thống càng hoàn thiện
và phát triển đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, là
một bộ phận gắn bó khăng khít với hệ thống NHTM thế giới và đang từng
bước khẳng định chỗ đứng, tầm ảnh hưởng đối với thế giới.
II, Chức năng của NHTM
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ
biến nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions)
đóng vài trò là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch
vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình
thức các khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ
yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán (checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm
(saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time deposits). Vốn huy động được
dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans), cho vay tiêu dùng
(consumer loans), cho vay bất động sản (mortage loans) và để mua chứng
khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. Ngân hàng thương
mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, cũng
là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.
Với vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại đảm nhiệm những chức
năng khác nhau trong nền kinh tế như:
a, Trung gian tín dụng.
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại
đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với
chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa
đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng

lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên
tham gia: người gửi tiền và người đi vay. Được minh họa qua sơ đồ sau :

Trung gian tín dụng :
Ngân hàng là 1 tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Với chức năng này ngân hàng đã khôi phục được tình trạng bất cân
xứng trên thị trường tài chính .Trong một giao dịch vốn:
+ Người đầu tư bao giờ cũng nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro va tỷ
suất sinh lời của dự án đầu tư đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn .
+ Người cho vay ít có thông tin về người đầu tư .
Vấn đề này gọi là thông tin bất cân xứng .Thông tin bất cân xứng dẫn
tới sự xuất hiện 2 hạn chế như sau:
• Về phía doanh nghiệp : những người cần vốn gặp nhiều khó
khăn về huy động vốn thường có xu hướng đưa ra mức lãi xuất
huy động vốn cao và rất cao.
• Về phía người tiết kiệm : do không biết rõ về lịch sử va đặc
điểm hoạt động của người cần vốn nên không sẵn lòng cung cấp
vốn , hoặc nếu có cung cấp vốn thi mức giá cho vay cũng chỉ
tương hợp với tình trạng tài chính của người đi vay .
Rủi ro về đạo đức : Xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn (cố ý làm
liều ).
Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức kinh tế
Cá nhân
Ngân
hàng
thương
mại

Công ty
Xí nghiệp
Tổ chức kinh tế
Hộ gia đình
Cá nhân
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Những hợp đồng vay nợ thường có đặc điểm là lãi suất cố định để khắc
phục tình trạng khi cung cấp vốn để đảm bảo người đi vay sẽ dùng số tiền
vay đầu tư vào dự án có nhiều rủi ro.
Giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng và 2 vấn đề liên đới là lựa
chọn đối nghịch .
Để góp phần giảm bớt chi phí giao dịch ( gồm tiền và thời gian thực
hiện giao dịch tín dụng ) cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn .
Do đó NH có: Khả năng vượt trội .
Có tính chuyên nghiệp.
Đội ngũ cán bộ có năng lực tốt.
Tiếp cận các thông tin của người đi vay và kiểm soát
những hoạt động đầu tư của người đi vay.
“Trung gian tín dụng” được hiểu theo 2 khía cạnh sau:
- NH chỉ là nơi trung gian để chuyển vốn tiền tệ từ nơi thừa (bằng
nghiệp vụ nguồn vốn) sang nơi thiếu bằng (nghiệp vụ tín dụng) .Các chủ thể
tham gia gồm những người gửi tiền vào NHTM và những người vay tiền từ
NH không có mối liên hệ kinh tế trực tiếp nào.Như vậy NHTM có trách
nhiệm hoàn trả tiền gửi cho người gửi (bất kể người đi vay sử dụng vốn có
hiệu quả hay không).Còn người đi vay có trách nhiệm trả nợ cho NH.
- NH không phải là người trung gian tài chính thuần túy , mà là trung
gian tín dụng , nghĩa là việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của chức năng này
phải đi theo nguyên tắc “Hoàn trả “ vô điều kiện.
Tuy nhiên , trong hoạt động của NHTM có một số công việc mang tính

chất trung gian tài chính .VD: tiếp nhận vốn của tổ chức tài trợ ( chính phủ,
các tổ chức tài chính,….) để chuyển giao cho đối tượng sử dụng theo mục
đích đã xác định .Nhưng những hoạt động đó chỉ phát sinh theo những dự án
và không thường xuyên , và chỉ những NHTM lớn, có uy tín mới được giao
thực hiện nhiệm vụ đó.
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng , các NHTM thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau đây :
• Nhận tiền gửi không kì hạn , có kì hạn của các đơn vị kinh tế ,
các tổ chức và cá nhân bằng đồng tiền trong nước và bằng ngoại
tệ.
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
• Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân.
• Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu NH để huy động vốn trong xã
hội .
• Cho vay ngắn hạn , trung và dài hạn đối với các đơn vị và cá
nhân.
• Chiếu khấu thương phiếu và chứng từ có giá đối với các đơn vị
và cá nhân .
+ Cho vay tiêu dùng ,cho vay trả góp và các loại hình tín dụng khác đối
với các tổ chức và cá nhân
Chức năng trung gian tín dụng của NHTM có vai trò và tác dụng rất to
lớn đối với nền kinh tế xã hội .
+ Trước hết nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống NHTM huy động
và tập trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội , biến
tiền nhàn rỗi từ chỗ là phương tiện tích lũy trở thành nguốn vốn lớn của nền
kinh tế.
+ Hệ thống NHTM cung ứng một khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho
nền kinh tế.Đây là nguồn vốn quan trọng vì nó không những lớn về số tiền
tuyệt đối mà còn vì tính chất “ luân chuyển “ không ngừng của nó.

Khảo sát tình hình “tín dụng’’ ở một số nước , Quỹ Tiền Tệ quốc tế IMF
cho biết nước nào có tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP càng cao, thì không
những nó cho thấy sự hoạt động có hiệu quả với hiệu suất cao của hệ thống
NHTM , mà còn nhờ đó làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định .Tỷ
lệ tín dụng/GDP của các nước công nghiệp phát triển hầu hết đều đạt trên
100% ; ở châu Á , những nước như Thái Lan , Trung Quốc , Singapore đều
có tỷ lệ từ khoảng 120% - 135% .Ở Việt Nam tỷ lệ này chỉ mới đạt ở mức
65%.
Nhờ nguồn vốn tín dụng lớn và luân chuyển liên tục , thông qua việc
thực hiện chức năng nói trên sẽ làm cho nền kinh tế phát triển được cung ứng
đầy vốn ngày càng đầy đủ để phát triển.
Tạo phương tiện thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán cho
nền kinh tế:
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ
tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào
tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác
theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho
mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không
phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh
toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực
hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô
hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Đây là chức năng quan trọng, không những thể hiện khá rõ bản chất của

NHTM mà còn cho thấy tính chất đặc biệt trong hoạt động của NHTM.
NHTM đứng ra làm trung gian để thực hiện các khoản giao dịch thanh
toán giữa các khách hàng , giữa người mua và người bán, để hoàn tất các
quan hệ kinh tế thương mại giữa họ với nhau, là nội dung thuộc chức năng
trung gian thanh toán của NHTM.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:
Người trả tiền
Người mua
(Công ty, xí nghiệp ,
tổ chức kinh tế , cá
nhân)
Ngân
hàng
thương
mại
Người thụ hưởng
Người bán
(Công ty, xí
nghiệp , tổ chức
kinh tế , cá nhân)
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Nhiệm vụ cụ thể của chức năng này gồm:
• Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho các tổ chức và cá nhân
Mọi đơn vị kinh tế , tổ chức và cá nhân đều có quyền mở tài khoản giao
dịch tại bất kỳ 1 NHTM nào mà mình cảm thấy an toàn và tiện lợi , còn các
NHTM có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch của khách
hàng nếu họ tuân thủ các quy định về việc mở và sử dụng tài khoản tại ngân
hàng.
Chức năng trung gian thanh toán của NHTM chỉ thực hiện được khi các

khách hàng tham gia thanh toán đều có tài khoản giao dịch tại ngân hàng , vì
vậy nhiệm vụ hàng đầu của NHTM không những ảnh hưởng tới chức năng
này mà còn ảnh hưởng tới chức năng trung gian tín dụng chính là việc mở tài
khoản giao dịch tại ngân hàng.Thủ tục phải chặt chẽ nhưng đơn giản , đảm
bảo bí mật , an toàn cho khách hàng.
• Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách
hàng
Thanh toán tại ngân hàng là thanh toán bằng chuyển khoản , vì vậy các
chứng từ dùng làm căn cứ để hạch toán vào tài khoản phải là những chứng từ
do chính ngân hàng cung cấp và kiểm soát để đảm bảo quá trình thanh toán
được thực hiện nhanh chóng , an toàn và chính xác , quyền lợi của khách
hàng được đảm bảo.
NHTM thiết kế và cung cấp nhiều loại phương tiện thanh toán khác
nhau cho khách hàng( VD: séc, giấy chuyển tiền, tín dụng thư, thẻ tín
dụng, ) đáp ứng yêu cầu quản lý và kiểm soát chặt chẽ đồng thời được sử
dụng linh hoạt và tiện lợi.
Tính chất , đặc điểm và nội dung của các tài khoản giao dịch thanh toán
đòi hỏi phải có nhiều phương tiện thanh toán thích hợp.
• Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng
là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của NHTM phải đáp ứng được:
- Nhanh chóng và chính xác.
- Đảm bảo an toàn và tiện lợi .
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Thực hiện chức năng NHTM trở thành người thủ quỹ và là trung tâm thanh
toán của xã hội. Thực tế chứng minh với vai trò như sau:
- Giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông , tăng khối lượng thanh toán bằng
chuyển khoản
- Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển Tiền- Hàng.Điều này không những thúc
đẩy kinh tế -xã hội trong nước phát triển mà còn thúc đẩy các quan hệ

tài chính , kinh tế và thương mại , tín dụng quốc tế phát triển.
Ngoài các chức năng trên NHTM còn thực hiện các chức năng:
Cung ứng dịch vụ ngân hàng
Các NHTM chỉ nhận cung ứng các dịch vụ có liên quan đến hoạt động
ngân hàng .
Các nhiệm vụ cụ thể của chức năng này bao gồm:
Dịch vụ ngân quỹ và chuyển tiền nhanh quốc nội .
Dịch vụ kiều hối và chuyển tiền nhanh quốc tế.
Dịch vụ ủy thác(bảo quản, thu hộ , chi hộ, mua bán hộ)
Dịch vụ tư vấn đầu tư , cung cấp thông tin,
Dịch vụ ngân hàng điện tử (E- Banking)
NHTM có khả năng tạo tiền , phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại
và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc
thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền
cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được
coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả
của xã hội.
Nhóm 3
Nghiệp vụ ngân hàng
Loại hình doanh nghiệp hoạt độnh kinh doanh trong lĩnh cực tiền tệ -
ngân hang. Các NHTM muốn hoạt động một cách bình thường thì phải có
vốn. Vốn trong NHTM Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung
gian, và là gồm có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có đạc điểm và phương

thức sử dụng và biện pháp quản lí khác nhau.
Như ta đã biết để thành lập một doanh nghiệp thì điều bắt buộc ở đây là phải
có vốn.và trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng cũng vậy.các NHTM muốn hoạt

×