Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.24 KB, 13 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b> UNIVERSITY OF LANGUAGES AND INTERNATIONAL STUDIES</b>
<b> </b>
<b>Môn học: Kinh tế quốc tế</b>
<b>Giảng viên: Bùi Thị Minh TrangLớp: INE2020 1</b>
<b>Nhóm: 12</b>
<i><b> Hanoi, 2024</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">1. Sự phục hồi kinh tế không đồng đều sau Covid 19...1
2. Sự biến động lạm phát toàn cầu sau Covid 19...1
II. Những biến động của thế giới và ảnh hưởng...2
1. Sự phục hồi kinh tế không đồng đều sau Covid 19...2
1.2. Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam...3
2.1. Ảnh hưởng tới hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế...6
2.2. Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam...7
III. Những dự báo...9
IV. Kết luận...9
V. Tài liệu tham khảo...10
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>I.Giới thiệu</b>
<b>1. Sự phục hồi kinh tế không đồng đều sau Covid 19</b>
Sự phục hồi kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia sau đại dịch COVID-19 làhiện tượng được quan sát rõ ràng. Các quốc gia phát triển và các nền kinh tế lớn nhưMỹ và một số nước châu Âu đã có sự phục hồi mạnh mẽ nhờ vào các gói kích thíchkinh tế lớn và chương trình tiêm vaccine hiệu quả. Ví dụ, Mỹ đã thực hiện gói kíchthích kinh tế trị giá 1.900 tỷ USD, giúp GDP tăng trưởng mạnh mẽ lên mức 6,2%trong năm 2021. Liên minh châu u cũng triển khai kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá750 tỷ euro, dự báo tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 4,3% trong khu vực Eurozone (BáoCông an Nhân dân điện tử).
Ngược lại, nhiều quốc gia đang phát triển ở châu Á, châu Phi cận Sahara, và châuMỹ Latinh gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình phục hồi. Những nước này thườngthiếu nguồn lực để triển khai các gói kích thích kinh tế lớn và có hệ thống y tế yếuhơn, khiến quá trình phục hồi kinh tế chậm hơn và khơng đồng đều (UNDP).
Nhìn chung, sự phục hồi kinh tế không đồng đều sau COVID-19 phản ánh sự khácbiệt lớn về khả năng ứng phó với đại dịch và năng lực kinh tế của các quốc gia, từ đólàm gia tăng bất bình đẳng kinh tế và xã hội trên toàn cầu.
<b>2. Sự biến động lạm phát toàn cầu sau Covid 19</b>
Sau đại dịch COVID-19, lạm phát toàn cầu đã trải qua nhiều biến động phức tạp.Một số nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng vọt của lạm phát bao gồm việc gián đoạnchuỗi cung ứng, các chính sách tiền tệ và tài khóa, sự tăng giá nguyên liệu và hàng hóacơ bản. Các tổ chức quốc tế như IMF và WB cũng đã nâng mức dự báo tăng trưởngkinh tế toàn cầu cho các năm 2021 và 2022, nhưng đồng thời cảnh báo về nguy cơ lạmphát cao hơn trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch(BankMagVN). Các biện phápchính sách tài khóa và tiền tệ sẽ cần được phối hợp chặt chẽ để duy trì đà phục hồikinh tế mà khơng gây ra lạm phát quá cao (Tạp chí Cộng sản).
Sự biến động lạm phát toàn cầu sau COVID-19 là kết quả của nhiều yếu tố phứctạp, từ gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng cầu tiêu dùng, đến các biện pháp kích thíchkinh tế và sự tăng giá của nguyên liệu cơ bản. Các nền kinh tế, trong đó có Việt Nam,đang phải cân nhắc kỹ lưỡng các chính sách để vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế, vừa kiểmsoát lạm phát.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>II.Những biến động của thế giới và ảnh hưởng</b>
<b>1. Sự phục hồi kinh tế không đồng đều sau Covid 19.</b>
1.1. Ảnh hưởng tới hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế
Sự phục hồi kinh tế khơng đồng đều đã có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới hoạtđộng thương mại và đầu tư quốc tế. Sự khác biệt trong tốc độ phục hồi và tăng trưởngđã tạo ra những tác động khác nhau giữa các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Về mặt tích cực, các nước phát triển đã phục hồi nhanh chóng nhờ các gói kíchthích kinh tế lớn và chương trình tiêm chủng hiệu quả. Đặc biệt là lĩnh vực công nghệvà dịch vụ tài chính. Theo Báo Cáo Cơng nghệ của McKinsey vào năm 2023, hơn 1nghìn tỷ USD đã được đầu tư vào các xu hướng công nghệ trong năm 2022. Không chỉvậy, các việc làm liên quan tới công nghệ cũng tăng thêm 400 nghìn việc từ năm 2021tới 2022. Ngồi ra, đại dịch đã thúc đẩy các cơng ty thay đổi và áp dụng những giảipháp đổi mới để duy trì hoạt động thương mại. Cụ thể, các ứng dụng công nghệ số vàchuỗi cung ứng được tối ưu hóa, để làm tăng hiệu quả và giảm chi phí. Theo khảo sátcủa EY, 92% doanh nghiệp đã đầu tư không ngừng vào công nghệ trong thời kỳ đạidịch, cũng như triển khai cơng cụ phân tích tiên tiến để cải thiện hiệu quả quản lýchuỗi cung ứng. Không chỉ vậy, McKinsey chỉ ra rằng công nghệ in 3D trong nhiềulĩnh vực đã trở nên quan trọng, giúp sản xuất tại chỗ các bộ phận, máy móc. Từ đó, cáccơng ty giảm chi phí sản xuất và tăng cường tính linh hoạt của chuỗi cung ứng.
Về mặt tiêu cực, COVID-19 đã gây ảnh hưởng nặng nề đến các ngành sản xuấtphụ thuộc vào chuỗi cung ứng quốc tế, nhất là ngành công nghiệp điện tử và ô tô.Theo Center for Automotive Research, hơn 9,5 triệu xe hơi đã không được sản xuất dothiếu hụt chất bán dẫn trong năm 2021. Nghiêm trọng hơn là, trong quý 3 năm 2021khi số lượng xe bị ảnh hưởng lên tới 3,5 triệu. Từ đó, những nguyên nhân trên đã gópphần làm tăng lạm phát trên toàn cầu. Các nền kinh tế phát triển đã phải đối mặt với áplực lạm phát do nhu cầu tăng cao trong khi nguồn cung còn hạn chế, ảnh hưởng đếnhoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Cũng theo Center for Automotive Research,giá nguyên liệu tăng cao và sự gián đoạn nguồn cung cấp linh kiện từ Ukraine và Ngacũng đã ảnh hưởng đến sản xuất và chi phí của các nhà sản xuất ơ tơ, bao gồm Ford,VW Group, GM, Honda, và Mazda. Kể từ đầu năm 2021, lạm phát đã vượt mức mụctiêu 2% của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED). Một báo cáo từ Ngân hàng Dự trữLiên bang Cleveland chỉ ra rằng cả yếu tố cung và cầu, bao gồm gián đoạn chuỗi cungứng, đã đóng góp đáng kể vào lạm phát cao. Các vấn đề về chuỗi cung ứng đã làm hạnchế khả năng cung cấp của nhà sản xuất để đáp ứng nhu cầu tăng trở lại sau khi cácbiện pháp hạn chế do COVID-19 được nới lỏng (Cleveland Fed).
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1.2. Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
<b> 1.2.1. Xuất khẩu hàng hóa</b>
Những tháng cuối năm 2022, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chứng kiến sựphục hồi mạnh mẽ và bước đầu vượt qua đại dịch Covid-19.
<i>Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2019-2022 </i>
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt355,4 tỷ USD giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2022. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn duy trìxuất siêu khi năm 2023 ước tính đạt 28 tỷ USD, vượt xa năm 2022 với 11,2 tỷ USD,năm 2020 là 19.94 tỷ USD và 2019 là 10.57 tỷ USD.
<i>Biểu đồ: Xuất siêu của Việt Nam giai đoạn 2019-2023</i>
Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)(8/2020-8/2023), xuất khẩu sang EU phục hồi từ mức giảm 1,8% năm 2020 lên mứctăng trưởng 14,2% năm 2021 và 16,8% năm 2022. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu đạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">46,8 tỷ USD tăng 16,8%, nhập khẩu từ EU đạt 15,4 tỷ USD giảm 8,7%. Việt Nam xuấtsiêu sang thị trường EU 27 khoảng 31,4 tỷ USD trong năm 2022, tăng 35,2% so với2021.
Năm 2021, Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 28,6%tổng kim ngạch xuất khẩu (96,3 tỷ USD) và có mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhấttrong các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (tăng 24,9% so với năm trước).Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2023, kim ngạchxuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 8,11 tỷ USD, qua đó nâng kim ngạch xuấtkhẩu tính từ đầu năm 2023 đến hết tháng 9 đạt 70,23 tỷ USD.
Trong 5 tháng năm 2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam với châu Á là169,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất 64,9% trong tất cả các châu lục và giảm 15,3%so với cùng kỳ năm trước. Thống kê cho thấy, các thị trường chủ lực ở châu Á củaViệt Nam đều có mức tăng trưởng xuất khẩu cao như Trung Quốc đạt 16,84 tỷ USD,tăng 32,4%, ASEAN đạt 8,75 tỷ USD, tăng 13,3%, Hàn Quốc đạt 6,9 tỷ USD, tăng12,1%...
Ngoài việc đem lại cơ hội tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu khá đáng kể cho ViệtNam, Covid-19 cũng mang đến nhiều thách thức đòi hỏi Việt Nam phải giải quyết.Đầu tiên là gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất, kinh doanh ở ViệtNam bị trì trệ. Trung Quốc là đối tác lớn trong việc cung cấp nguồn nguyên phụ liệu,vật tư, phụ tùng của Việt Nam nên khi đại dịch COVID-19 bùng nổ gây tê liệt nềnkinh tế Trung Quốc đã trực tiếp làm suy yếu hoạt động sản xuất kinh doanh của ViệtNam. Ngồi ra cịn làm đứt gãy chuỗi cung ứng thương mại dẫn đến hoạt động sảnxuất của ngành chế biến, chế tạo giảm. Khi đại dịch xảy ra, nhiều đối tác ở các nướcngừng giao dịch, thậm chí xin hủy đơn hàng khiến cho xuất khẩu phải đối mặt với tìnhtrạng các đơn hàng nước ngồi khơng ngừng sụt giảm.
<b> 1.2.2. Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài năm 2021 đạt 31,15 tỷUSD, tăng 9,2%, năm 2022 đạt gần 27,72 tỷ USD tăng 13,5, năm 2023 đạt 23,18 tỷUSD, tăng 3,5%.
<i> Biểu đồ Vốn đầu tư nước ngoài các năm 2019 – 2023</i>
Mức tăng trưởng của vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau dịch Covid-19 làmột con số đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn có sự khác nhau giữa các quốc gia. Năm2023, đã có 111 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, các nhàđầu tư đến từ châu Á như Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông,Đài Loan đã chiếm tới 78,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt, sau đại dịch,các nhà đầu tư Mỹ ln có mong muốn trở thành nhà đầu tư số 1 ở Việt Nam khi ViệtNam đang hướng tới các dự án có cơng nghệ cao, mong muốn phát triển công nghệ.
<i>Biểu đồ Đầu tư nước ngoài năm 2023 theo đối tác</i>
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gặp nhiều thách thức khi cạnh tranh thu hút đầu tưnước ngoài giữa các quốc gia thời kỳ hậu Covid-19 ngày càng gay gắt do nguồn cunggiảm vì nhiều quốc gia vẫn đang trong thời gian phục phục hồi kinh tế.Việt Nam đứng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">trước nguy cơ đánh mất các đối tác chiến lược truyền thống quan trọng khi đón nhậnnhiều đối tác kinh tế mới trong khi mức đầu tư nước ngoài của nhiều đối tác lâu nămthụt giảm do ảnh hưởng nặng nề sau đại dịch.
<b>2.1. Ảnh hưởng tới hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế2.1.1. Lợi thế xuất khẩu từ việc giảm giá trị tiền tệ</b>
Khi lạm phát làm giảm giá trị đồng nội tệ, hàng hóa xuất khẩu của quốc gia đó trởnên rẻ hơn trên thị trường quốc tế. Điều này có thể thúc đẩy xuất khẩu, như đã thấy ởmột số quốc gia. Theo IMF, đồng euro giảm giá trị vào năm 2022 đã giúp các nướcthuộc khu vực đồng euro tăng cường xuất khẩu do hàng hóa trở nên cạnh tranh hơn vềgiá (IMF).
Ngoài ra, lạm phát góp phần tăng trưởng thương mại: Báo cáo của UNCTAD chỉ rarằng khối lượng thương mại quốc tế đã tăng 3% trong nửa đầu năm 2022, cho thấymột số quốc gia có thể đã hưởng lợi từ sự biến động lạm phát để thúc đẩy hoạt độngxuất khẩu (IISD).
2.1.2. Đẩy mạnh đầu tư:
Bên cạnh đó, biến động lạm phát tồn cầu đã đẩy mạnh toàn cầu đầu tư vào cácngành, cụ thể là năng lượng tái tạo: Đầu tư vào năng lượng tái tạo vẫn tiếp tục tăng dùlạm phát cao, với các dự án năng lượng mặt trời và gió vẫn duy trì sự phát triển. Trongbối cảnh biến động kinh tế, việc đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo vẫn tiếp tụctăng lên, nhưng với tốc độ chậm hơn so với trước đây. Ví dụ, đầu tư vào sản phẩmnăng lượng tái tạo chỉ tăng 8% vào năm 2022, tương ứng với mức tăng 50% vào năm2021 (UNCTAD). Trong năm 2022, các dự án đầu tư vào sản xuất pin đã tăng gấp balần, đạt hơn 100 tỷ USD (UNCTAD).
2.1.3.Giảm sức cạnh tranh và khối lượng thương mại:
Suy giảm thương mại và tăng trưởng toàn cầu: UNCTAD cảnh báo rằng thương mạitồn cầu có thể giảm sút trong năm 2023 do lạm phát cao và nhu cầu toàn cầu suy yếu.Giá trị thương mại hàng hóa đã giảm khoảng 1% trong quý 3 năm 2022 so với cùng kỳnăm trước (IISD). IMF dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm từ 3,5% năm 2022 xuống3,0% năm 2023 và 2,9% năm 2024. Điều này được giải quyết bằng các biện pháp chặtchẽ chính sách tiền tệ kiểm sốt hồn thành, tạo ra hoạt động kinh tế chậm lại (IMF).2.1.3.1. Tăng chi phí đầu tư và rủi ro tài chính:
Lạm phát thường dẫn đến lãi suất cao hơn, làm tăng chi phí vay vốn và đầu tư. Điềunày có thể làm giảm động lực đầu tư vào các dự án mới, đặc biệt là ở các nước đangphát triển. Báo cáo của UNCTAD cho thấy, chi phí vốn là một rào cản lớn đối với cácdự án năng lượng sạch ở các nước đang phát triển (UNCTAD). Lạm phát cao và
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">không ổn định tạo ra môi trường đầu tư rủi ro, làm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Điềunày dẫn đến việc chuyển dịch vốn sang các thị trường ổn định hơn, gây ảnh hưởng đếncác nền kinh tế dễ bị tổn thương (IMF) (UNCTAD).
2.1.3.2 Ảnh hưởng đến thu nhập và tiêu dùng
Lạm phát cao làm giảm sức mua của người tiêu dùng, ảnh hưởng tiêu cực đến nhucầu hàng hóa và dịch vụ, từ đó làm giảm nhập khẩu và tiêu thụ nội địa. Điều này cóthể dẫn đến sự suy giảm trong hoạt động kinh tế tổng thể của các quốc gia (IISD).Theo UNCTAD, thương mại tồn cầu đang có xu hướng giảm trong năm 2023 vớimức giá cao, lãi suất tăng, tận dụng thời gian phát dài và tác động tiêu cực từ cuộcchiến ở Ukraine. Dự báo giá trị thương mại toàn cầu sẽ giảm trong quý cuối năm 2023sau khi tăng mạnh nửa đầu năm 2022 (IISD).
Biến động lạm phát toàn cầu đã và đang tác động tiêu cực đến thương mại và đầutư quốc tế. Giá cả tăng, lãi suất cao, và sự bất ổn kinh tế toàn cầu là những yếu tốchính làm giảm nhu cầu nhập khẩu và hạn chế đầu tư, đặc biệt là ở các nước đang pháttriển. Các tổ chức quốc tế như IMF và UNCTAD cảnh báo rằng, nếu khơng có cácbiện pháp chính sách phù hợp, tình hình này có thể kéo dài và gây ra những ảnh hưởngsâu rộng hơn đối với kinh tế tồn cầu.
<b>2.2. Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 2.2.1. Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa </b>
Xuất khẩu hàng hóa - một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của ViệtNam đang gặp khó khăn do lạm phát cao. Mặc dù hoạt động xuất khẩu hàng hóa trongnăm 2022 đã thu về những kết quả khá tích cực nhưng lĩnh vực này lại ghi nhận nhiềukhó khăn trong đầu năm 2023.
Theo báo cáo, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đều giảm so với cùng kỳ năm trướcvà giảm ở cả khu vực doanh nghiệp trong nước lẫn khu vực doanh nghiệp có vốn đầutư nước ngoài (FDI). Số liệu từ Tổng cục thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩuhàng hóa năm 2023 ước đạt 355,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với năm trước. Trong đó,khu vực kinh tế trong nước đạt 95,55 tỷ USD, giảm 0,3%, chiếm 26,9% tổng kimngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thô) đạt 259,95 tỷUSD, giảm 5,8%, chiếm 73,1%. Xuất khẩu sang các khu vực, thị trường cũng đều sụtgiảm; trong đó giảm mạnh nhất là thị trường châu Mỹ, châu u. Kim ngạch xuất khẩutại Hoa Kỳ dự kiến đạt 96,9 tỷ USD giảm 12,4% so với năm 2022; EU đạt 43,7 tỷUSD giảm 6,7%; các nước CPTPP ở châu Mỹ đạt 13,1 tỷ USD giảm 10,6%. Các mặthàng chủ lực được xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường này, bao gồm máy móc,thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác; điện thoại, máy tính và linh kiện; máy tính, sảnphẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may; sản phẩm da giày và túi xách; gỗ và các sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">phẩm từ gỗ; cũng như sản phẩm thủy sản, đều ghi nhận mức giảm trung bình trên 10%so với năm 2022.
Nguyên nhân sản xuất, xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là do lạm phátcao, sức mua sụt giảm, nhất là hàng hóa tiêu dùng khơng thiết yếu. Với một nền kinhtế mở rộng, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trực tiếp chịu ảnh hưởng từ sựsuy giảm của nền kinh tế toàn cầu trong nửa đầu năm 2023. Dù có dấu hiệu phục hồitrong nửa cuối năm nhưng tốc độ và mức độ phục hồi không đồng đều giữa các nềnkinh tế. Hơn nữa, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tại các thị trường xuất khẩu chính củaViệt Nam đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Theo các số liệu thống kê từ các thịtrường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2023, EU giảmnhập khẩu từ thị trường ngoài khối gần 16%; Hoa Kỳ cũng giảm nhập khẩu từ thế giới6%. Thị trường châu u và châu Mỹ mặc dù đã kiềm chế lạm phát nhưng vẫn ở mứccao và đang phải đối mặt với sức ép từ tình trạng bất ổn chính trị và sự thay đổi sâusắc trong hành vi và thói quen tiêu dùng, điều này khiến cho việc duy trì thị trườngxuất khẩu trở nên khó khăn hơn.
2.2.2. Ảnh hưởng tới đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, biến động lạm phát tồn cầukhơng ảnh hưởng quá nhiều, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt mức cao là nhữngđiểm sáng trong bức tranh kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2023. Theo số liệu củaCục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI đăng ký mới, điều chỉnh và vốn góp mua cổ phần,mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi tính đến tháng 12/2023 đạt gần 36,61 tỷUSD, tăng 32,1%. Vốn FDI thực hiện đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm2022. Việc thu hút FDI thành công, đặc biệt là nửa cuối năm 2023 góp phần làm dịngvốn FDI thực hiện tại VN đạt 23,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước, đồng thời vềquy mơ thì là năm có đạt quy mơ vốn FDI thực hiện cao nhất từ trước đến nay.
Mặc dù vốn đầu tư điều chỉnh vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước, nhưng mức độgiảm đã được cải thiện. Mặc dù giảm về số lượng vốn, nhưng số lượng dự án điềuchỉnh vốn vẫn tiếp tục tăng so với năm trước (tăng 14%), thể hiện niềm tin của các nhàđầu tư vào môi trường đầu tư của Việt Nam và cam kết mở rộng các dự án hiện có. Sựphục hồi và sự bắt đầu của quá trình tăng trưởng trong dịng vốn FDI vào Việt Nam từnửa cuối năm 2023 (sau khi trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng vốn FDI đăng ký đãgiảm 4,6% so với cùng kỳ) được coi là một động lực quan trọng nhằm thúc đẩy tăngtrưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 và những năm tiếp theo, đặc biệt trongbối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và tháchthức.
<b> III. Những dự báo</b>
</div>