Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.05 MB, 112 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>LỜI CAM ĐOAN</b>
<i>Tôi xin cam đoan Luận vãnlà công trình nghiên cứu của riêng </i>
<i>tồi. Cáckết quả nêu trong Luậnvãn chưa được cơng bố trong bất kỳ </i>
<i>cơng trìnhnàokhác. Các sốliệu, vi dụ và tríchdẫn trong Luận vẫn đám </i>
<i>bảo tinh chính xác, tin cậyvà trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơnhọcvà đã thanh tốn tất cảcác nghĩavụtài chỉnh theo quỵ định của Trường Đại học Luật, Đạihọc Quốcgia HàNội.</i>
<i>Vậy tôi viết Lời cam đoannày đề nghịTrường Đại họcLuật xem xét đêtơi có thể bảo vệ Luận vãn.</i>
<i>Tôi xinchân thành cảm ơn!</i>
NGƯỜI CAM ĐOAN
<b>Nguyễn ThịThanh Hoa</b>
<b><small>1</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 7
1.2. Nội dung pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 14
1.2.1. Các nguyên tắc chi phối các hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuấn bị xét xửsơ thẩm vụ án dân sự... 17
1.2.2. Thời hạn của giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 19
1.2.3. Các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 20
1.3. Các yếu tố chi phối hiệu quả của việc thực hiện hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự...32
TÒNG KẾT CHƯƠNG 1...36
<b>CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÈCHUẨN BỊ XÉT xử sơ THẨM VỤ ÁN DÂNsụ’ VÀTHỤ C TIỄN THỤ C HIỆNTẠI TỒÁN NHÂNDÂN HUYỆNLẠC SƠN, TỈNH HỒ BÌNH...</b> 38
2.1. Thực trạng pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 38
2.1.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 39
2.1.2. Các công việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 39
2.1.3. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật về chuẩn bị xét xừ sơ thẩm vụ án dân sự... 48
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tịấn nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình... 49
<i><b><small>r</small></b></i> <small>A</small>2.2.1. Những kêt quả đạt được thực tiên áp dụng các quy định của pháp luật vêchuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnhHịa Bình... 49
<small>• •</small>
<b><small>11</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn thực hiện pháp luật về chuẩn bị xét
xử sơ thấm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình và
ngun nhân... 56
TỊNG KẾT CHƯƠNG 2... 73
<b>CHƯƠNG3.YÊUCẢU,GIÃIPHÁPHOÀNTHIỆNPHÁP LUẬT VÀ BÃO ĐẢM THỤC HIỆN PHÁP LUẬT VÈ CHUẨN BỊ XÉT xửsơTHẤM vụ ÁN DÂN SỤTẠI TOÀÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HỒBÌNH.</b>75 3.1. u cầu hoàn thiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 75
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình...79
3.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự... 79
3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình... 93
TỐNG KẾT CHƯƠNG 3...98
<b>KÉT LUẬN...</b> 100
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...</b> 104
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>DANH MỤC TỪVIẾT TẮT</b>
<b>Cụm tù’ viết tắtNguyênnghĩa</b>
BLTTDS Bộ luật tó tụng dân sự
GCNQSD Giấy chứng nhận quyên sử dụngHĐXX Hội đồng xét xử
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>MỞ ĐẦU</b>
<b>1.Tính câp thiêt của đê tài</b>
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đếnnăm 2020 đã chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thế là
cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chè, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và
giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại
các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp...”.Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục xâydựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới tiếp tục khẳng định tinh thần trên:
Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá;bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết họp các phương thức phi tố tụngtư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. Đối mới và nâng cao hiệu quả cơ chế
Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tống kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quyđịnh pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thế các quyền dân sự
là nhóm dễ bị tốn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích cơng nhưng khơng có người đứng ra khởi kiện.
Trên cơ sờ đường lối trên của Đảng ta, BLTTDS năm 2015 đà được banhành với nhiều sửa đồi, bổ sung so với BLTTDS nãm 2004 (được sửa đổi, bồ sung
năm 2011) nhằm xây dụng một thủ tục tố tụng đon giản, tiết kiệm, hiệu quả và tạo
cơ hội tối đa cho người dân được tiếp cận công lý. Một trong nhũng chế định trọngtâm được sửa đổi, bổ sung là chế định chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Liên quan đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, ngoài những ưu điểm,
BLTTDS năm 2015 còn bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến chất lượng
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">giải quyết các vụ án dân sự. Điều đó thể hiện ở việc, các quy định về thời hạn chuẩn
bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự chua hợp lý, các quy định về việc thơng báo cho bị
đơn và người có quyền nghĩa vụ liên quan chưa đầy đủ; các quy định về đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cịn thiếu thống nhất; quy định về thu thập chứng cứ của Tòa án còn chưa rõ ràng và thiếu văn bản hướng
dẫn; các quy định về phiên họp kiềm tra giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ cịn sơ sài và chưa được hướng dẫn cụ thể. Sự thiếu sót của các quy định pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự làm cho thực tiễn áp dụng pháp luật còn thiết
thống nhất và gặp nhiều khó khăn. Là cán bộ cơng tác trong ngành Tịa án tại huyệnLạc Sơn tỉnh Hịa Bình, học viên có điều kiện trực tiếp giải quyết các vụ án dân sự cũng gặp khơng ít khó khăn và vướng mắc trong quá trinh áp dụng pháp luật. Nhiềuvấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được đưa ra trao đổi chun mơn cịn gây ra nhiều tranh cãi. Với mục đích hồn thiện quy định cùa pháp luật về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, học viên đã lựa chọn đề tài: <i><b>((Chuẩn bị xét </b></i>
hành nghề.
<b>2. Tình hình nghiên cứu liênquan đếnđề tài</b>
Liên quan đến vấn đề chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đã có nhiều cơngtrình nghiên cứu. Các cơng trình này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như: sách chuyên khảo, các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, các luậnvăn thạc sĩ. Cụ thể như sau:
- về sách chuyên khảo: cuốn sách<i> “Cơ chếpháplỷbảo đảm quyền conngười, quyền công dântrong giảiquyết vụ án dân sự tại Tòa án nhândãn”</i> năm
2017 của tác giả Nguyền Thị Thu Hà có nghiên cứu hồn thiện một số quy định về
chuẩn bị <sub>•</sub> xét xử sơ thẩm vụ án dân <sub>• </sub>sự.<sub>•</sub> Cuốn sách <i>“Bình luận</i><sub>•</sub> <i> khoahọc</i><sub>•</sub> <i> BLTTDS năm 2015“</i> do tác giả Bùi Thị Huyền chủ biên và cuốn sách “Bình<i> luận khoa học </i>
<i>BLTTDS năm 2015của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam”</i> của tác giả
Fran Anh I uan chu bien đêu nghiên cửu ve che định chuan bl xét xử sơ thâm vụ an
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">dân sự nhưng dưới góc độ phân tích những diêm mới của BLTTDS năm 2015 so
với BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) mà chưa đi sâu phân tích
các nguyên lý và định hướng hồn thiện những quy định cịn vướng mắc, bất cập.
- về các luận văn liên quan đến đề tài gồm có: <i>“Chuẩn bị xét xử sơ thâm vụ án dãn sự và thựctiễnápdụngtạiTòa án nhândãn huyện Na Rì,tỉnh Bắc Kạn ”</i>
của tác giả Tạ Huyền Trang bảo vệ năm 2019; luận văn “<i>Chuẩn bịxét xử sơ thẩm</i>
<i>vụándầnsự”</i> của tác giả Nông Thị Biển bảo vệ năm 2017; luận văn <i>“Chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sựvà thực tiễnápdụng tạiTòa án nhân dânthành phố Thái </i>
<i>Bình ”</i> của tác giả Trần Thị Tuyết Trinh bảo vệ năm 2018; luận văn <i>“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sựvà thực tiền tại Tịấnnhândânhuyện Mộc Châu, tỉnh</i>
<i>SơnLa”</i> của tác giả Nguyễn Anh Đức bảo vệ năm 2018. Các luận văn trên đều được bảo vệ thành công tại trường Đại học Luật Hà Nội. Mặc dù đều nghiên cứu
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015 nhưngmỗi luận văn lại nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Ví dụ, luận văn <i>“Chuẩn bị xét xử sơthâm vụ ủn dãn sự” của</i> tác giả Nông Thị Biền định hướng nghiên cứu chọn
tiếp cận chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự dưới góc độ là một chế định pháp luật; đề tài <i>“Chuẩn bị xét xử sơthâm vụ ándânsựvà thựctiễn áp dụngtại Tịấn nhân dãn huyện NaRì, tỉnh Bắc Kạn”</i> của tác giả Tạ Huyền Trang định hướng ứngdụng tiếp cận chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự dưới góc độ cùa hoạt động tố tụng. Ngồi ra, phạm vi nghiên cứu của các đề tài trên cũng được lựa chọn khác nhau phù hợp với tình hình áp dụng pháp luật ở địa phương.
- về đề tài khoa học cấp trường: có liên quan đến đề tài của tác giả có đề tài
khoa học cấp trường <i>“Hồnthiệnmột số quy địnhcủa BLTTDS về thời hạntố tụng”</i> do tác giả Trần Anh Tuấn chủ biên. Đề tài này có góc độ nghiên cứu rộng vàtồn diện về thời hạn tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, cịn có đề tài khoa học <i>“Chuẩnbị </i>
<i>xét xử sơ thâm vụ án dân sự- Thực trạngvàgiải pháp” do PGS.TS </i>Bùi Thị Huyền là chủ nhiệm đề tài, bảo vệ năm 2020 tại Trường đại học Luật Hà Nội.
- về các bài báo có liên quan: Bài viết <i>“ Mộtsố vấn đề cần chú ývề thời hạn chuẩn bị xét xử và hòa giảitrongvụán dãn sự”</i> của tác giả Duy Kiên đăng trên tạp
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">chí Kiêm sát sơ 14/2013; bài viêt <i>“Một sơ ỷ kiên vê đình chỉ giải qut vụ án dân sự</i>
<i>khi vụ án đang tạmđình chỉ"</i> của tác giả Dương Tuấn Khanh đăng trên tạp chí
Kiểm sát số 8/2019; bài viết <i>“Những vấnđềrútratừ mộtsốvụ án dân sự tịấncấp sơ thâm đình chỉ giải quyết" của </i>tác giả Nguyễn Thị Trà Giang đàng trên tạpchí Kiếm sát năm 2016, <i>bài viết “Một số nội dungcơbản về yêu cầu phản tố, yêu</i>
<i>cầu độc lập trong BLTTDSnăm 2015 "</i> của tác giả Nguyễn Thị Thu Dung đăng trêntạp chí Kiểm sát số 7/2017; bài viết<i> “Một sổvấn đề tạmđình chỉ giảiquyết vụ án </i>
<i>theoquy địnhcủa BLTTDS"</i> của tác giả Duy Kiên đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 7/2014; bài viết “<i>Yêu cầu phản tố bùtrừ với yêu cầu khởi kiện củanguyênđơn, yêu cầu độc lập của người cóquyền lợi, nghĩa vụ liênquan "</i> của tác giả Phạm
Thị Thúy đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 23/2017...Các cơng trình được liệtkê ở trên mới chỉ liệt kê một phần các nội dung liên quan đến hoạt động chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự chứ không nghiên cứu chuyên sâu về lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.Từ những phân tích trên, có thế thấy cho đến nay chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu chun sâu và toàn diện về chuấn bị xét xử sơ thấm vụ án dân
sự và thực tiễn thực hiện tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình. Vì vậy, đề tài <i>“Chuẩn bị xét xử sơ thấmvụán dân sự" vẫn </i>có tính mới và khơng bị trùng lặp.
<b>3. Mục tiêu, đối tượng và phạmvi nghiên cứu đề tài luậnvăn</b>
Mục tiêu xuyên suốt của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thựctiễn về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo thủ tục tổ tụng dân sự tại toà án nhân dân cấp huyện, để từ đó đưa ra kiến nghị hồn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và
kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa
án nhân dân huyện Lạc Son.
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự; đồng thời kết họp
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">với việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự cùa Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bỉnh, tác giả đưa ra các kiến nghi trên hai phương diện: một là hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự, hai là kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn.
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự của toà án nhân dân cấp huyện, theo thủ tục tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của
Tồ án nhân dân cấp huyện.
<i>vềkhơng gian và thờigian nghiên cứu: Luận</i> văn chỉ tập trung nghiên cứu
thực tiễn hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự trên địa bàn huyện Lạc
Sơn tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn từ năm 2016-2022.
<b>4.Cơsởlý luậnvàphươngpháp nghiên cứu</b>
Đề tài được nghiên cứu và triển khai trên cơ sở lý luận cùa Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và quan điếm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tưpháp.
-Đe triển khai đề tài, học viên sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp phân tích, phương pháp tống hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích
tình huống và một số phương pháp khác.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng họp được sử dụng xuyên suốt
toàn bộ luận văn, từ chương 1 đến chương 3. Bằng phương pháp này, luận văn luận
giải những vấn đề lý luận và thực tiễn được đề ra trong luận văn. Đồng thời, bằng phương pháp này, luận văn tống hợp, phân tích, luận giải và phát triển các học thuyết, lý thuyết, các quan điểm khoa học, những vấn đề thực tiễn đặt ra, để từ đó,
luận văn đưa ra những nhận định và những quan điếm nhất định. Phương pháp phân
tích, tổng hợp cũng được học viên sử dụng để làm sáng tỏ những vướng mắc, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, phương pháp, phân tích tổng họp cũng được sử dụng để đưa ra những kiến nghị tại chương 3 của luận văn.
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Phương pháp thống kê được học viên sử dụng chủ yếu tại chương 2 đế chỉ ra
những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bỉnh.
Phương pháp phân tích tình huống được sử dụng để phân tích, làm rõ những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về chuấn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự tại Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hồ Bình.
<b>5. Ýnghĩalý luận vàthực tiễn của luận văn</b>
về mặt lý luận, luận văn sẽ góp một phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Những nghiên cứu về thực tiễn về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bỉnh sẽ góp phần làm sáng tỏhơn nữa bức tranh thực tiễn về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Luận văn cũng đưa ra một số đề xuất hoàn thiện các quy định cúa pháp luậtnhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Luận văn có giá trị tham khảo đối với các nhà lập pháp, Thẩm phán, hộithẩm nhân dân, kiểm sát viên và luật sư.
<b>6. Bố cụccủa luận văn</b>
Ngoài phần Mờ đầu, Kết luận, luận văn gồm có 3 chương như sau:
<i>Chương</i> /: Một số vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
<i>Chương 2\</i> Thực trạng pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và
thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Binh.
<i>Chương3:</i> Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Binh.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>CHƯƠNG1.MỘTSỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN</b>
<b>VỀ CHUẨN BỊXÉTxử sơTHẨM vụ ÁN DÂN sự</b>
<b>1.1. Khái niệm, đặc điểm, ýnghĩacủa chuẩn bị xétxử sơthẩm vụ án dân sự</b>
Bất kỳ một công việc nào dù là đơn giản nhất thì khi thực hiện nểu đã có kế
hoạch cụ thể và được chuẩn bị kỹ càng sẽ đạt được kết quả tốt nhất. Cũng không
ngoại lệ, mồi Thâm phán nói riêng và các cán bộ có chức danh tư pháp nói chung,để bảo đảm hoạt động xét xử đạt kết quả tốt nhất dưới giác độ chính xác, khách
quan, thấu tình, đạt lý thì cơng tác chuấn bị của các chủ thể cần phải kỹ lưỡng, chính xác, tỉ mỉ và chặt chẽ. Trong sinh hoạt đời thường, mỗi cá nhân sẽ tự lập chominh một kế hoạch chuẩn bị phù hợp với hoàn cảnh của mình. Trong tố tụng, bêncạnh việc phát huy tính chủ động của các chủ thế thì pháp luật cần thiết kế ra mộtbộ khung quy tắc về công tác chuẩn bị xét xử để các chủ thể thực hiện theo. Mụcđích của giai đoạn chuẩn bị xét xử làm làm sáng tỏ và thu hẹp phạm vi vấn đề vàchứng cứ cần xem xét, giải quyết [49, p. 16]. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sựViệt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì:
Nếu hồ giải khơng thành, Toà án phải củng cố hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà. Các hoạt động này của Toà án được gọi
là chuẩn bị xét xử. Các công việc chuẩn bị xét xử chủ yếu của Toà án
bao gồm: phân công Thấm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lí
vụ án; lập hồ sơ vụ án [46, tr. 255].
Theo PGS.TS. Trần Thăng Long và Ths. Danh Nguyễn Thuý Quyên thì:
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn thứ hai của quá trình
tố tụng<sub>•</sub> dân sự.<sub>• •</sub>Thực hiện <sub>•</sub><sub> •</sub>tốt việc chuẩn bị<sub>• • •</sub>xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xét xử, giúp Tòa án xác định
đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền và nghĩa vụ liên quan. Khơng chỉ vậy, chuẩn bị xét xử cịn góp phần xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, giúp Hội đồng xét xử có quan điềm đúng đắn để giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm và đảm
bảo đúng pháp luật; hạn chế thấp nhất những sai lầm, thiếu sót trong xét xử và tình trạng án sơ thẩm bị hủy, sửa do vi phạm” [17, tr.39].
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Như vậy, chuẩn bị xét xử có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là các hoạt động
của Toà án để chuẩn bị cho phiên xử. Cụ thể, theo nghĩa hẹp, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là các hoạt động của Toà án đề chuẩn bị cho phiên xử sơ thẩm vụ án dân sự. Theo nghĩa rộng, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn tố tụng dân sự, trong giai đoạn này, Toà án và các chủ thê khác thực hiện các hoạt
động (đương sự, người tham gia tố tụng khác) để chuẩn bị cho phiên toà dân sự sơ thẩm. Trong luận văn này, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tiếp cận theo
p.16]. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có những đặc điềm sau:
<b>Thứnhất, </b>chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn của tố tụng dân sự.
PGS.TS. Trần Thăng Long và Ths. Danh Nguyễn Thuý Quyên đã khẳngđịnh, chuẩn bị xét xử là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng dân sự [17, tr.39]. Như vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự không đơn thuần chỉ các công việc
chuẩn bị cho phiên tồ dân sự sơ thẩm mà cịn một giai đoạn tố tụng mà ở đó Tồ
án và các chủ thể khác sẽ thực hiện các hoạt động cần thiết để chuẩn bị cho phiên toà dân sự sơ thẩm.
Trong pháp luật tố tụng dân sự của Hoa Kỳ và các bang, khơng có khái niệmchuấn bị xét xử hay giai đoạn chuấn bị xét xử mà có khái niệm “giai đoạn tiền phiên toà sơ thấm”. Giai đoạn này kéo dài từ thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện cho
đến mở phiên toà sơ thẩm hoặc Toà án ra quyết định chấm dứt giải quyết vụ án dân
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">sự. Trong giai đoạn này, các chủ thế thực hiện nhiều hành vi tố tụng như: bị đơn nộp văn bản ghi ý kiến cùa minh về yêu cầu khởi kiện cùa nguyên đơn, các đương
sự đưa ra u cầu của minh đối với Tồ án (ví dụ: bị đơn u cầu Tồ án đình chỉ
giải quyết vụ việc vi vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tồ án,...). Mặc dù có tên gọi là “giai đoạn tiền phiên tồ sơ thấm” nhưng các cơng việc được thực hiệntrong giai đoạn này cũng là giai đoạn chuẩn bị cho phiên tồ sơ thẩm. Vì vậy, về bản chất, giai đoạn tiền phiên toà dân sự sơ thẩm cũng có bản chất tương tự như giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đồng thời, gian đoạn tiền phiên toà sơ thẩm cũng là
một giai đoạn của tố tụng dân sự.
Chuẩn bị xét xử là một giai đoạn tố tụng dân sự được thể hiện ở những điểm sau:
<i><b>Một là,</b></i> nhà làm luật luật hoá các các hành vi, quyết định quan trọng được
thực hiện trong giai đoạn chuấn bị xét xử. Trong giai đoạn chuấn bị xét xử, Toà án
và các chủ thế khác phải thực hiện rất nhiều cơng việc. Trong đó, có những hành vi, quyết định có mối quan hệ mật thiết với tồn bộ tiến trình tố tụng dân sự, ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chù thể liên quan. Vì vậy, nhà làm luật sẽ luậthố và xác định các hành vi, quyết định đó là các hành vi, quyết định tố tụng. Ví dụ:hoạt động phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, hoạt động thông báo cho bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giao nộp văn bản, bị đơn nộp yêu cầu phảntố, tố chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hồ
giải,.... Đương nhiên, cũng có những việc nhà làm luật khơng cần thiết phải luật
hố. Ví dụ, Thẩm phán có nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ của vụ án, nhưng BLTTDS
không cần thiết phải quy định Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ từ mấy giờ đến
mấy giờ. Việc bố trí thời gian như thế nào để nghiên cứu hồ sơ là tự Thẩm phán quyết định phù hợp với cá nhân cũng như cơng việc của Thẩm phán.
<i><b>Hai là,</b></i> vì là một giai đoạn tố tụng nên chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
cũng phải tuân theo giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật. Nghĩa là
pháp luật tố tụng dân sự sẽ quy định thời hạn tổng thể của toàn bộ giai đoạn chuẩn
bị xét xử cũng như thời hạn đế thực hiện một hành vi tố tụng nhất định. Một trongnhững xu hướng của tố tụng dân sự hiện nay được thừa nhận ở nhiều nước trên thế
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">giới, đặc biệt là các nước tiên tiến là tố tụng dân sự cần được thực hiện nhanhchóng, kịp thời. Vì vậy, các thời hạn tố tụng cũng cần phải hợp lý, không thế dài lê
thê, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích họp pháp của các đương sự.
<i><b>Ba là,</b></i> các hành vi, quyết định tố tụng của Toà án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử phải công khai, minh bạch. Một trong những xu hướng và cũng là nguyên tắc của tố tụng dân sự ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tiên tiến, là công
khai, minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng, cơng bằng giữa các đương sự. Ví dụ, khi bị
đơn nộp đơn phản tố thì Tồ án phải thơng báo cho ngun đơn và người có quyềnlợi, nghĩa vụ liên quan để các đương sự này có ý kiến bằng văn bản về yêu cầu phản
tố của bị đơn. Pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước cấm đương sự gặp riêngThẩm phán.
<b>Thứ hai, </b>các công việc được thực hiện trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự có tính chất chuẩn bị.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn chuẩn bị cho phiên toà dân sự sơ thẩm. Điều này thể hiện ờ chỗ các hành vi tố tụng được thực hiện trong giai đoạn này đều hướng tới một phiên toà dân sự sơ thấm đúng luật,
hiệu quả và kịp thời.
Nếu xét ở hình thức bề ngoài của các hành vi tố tụng trong giai đoạn chuẩn
bị xét xừ sơ thẩm vụ án dân sự, có thế thấy các hành vi tố tụng được thực hiện trong
giai đoạn này đều là các hành vi có tính chất chuẩn bị. Đầu tiên, sau khi thụ lý đơn khới kiện của ngun đơn, Tồ án thơng báo cho bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan để họ chuẩn bị ý kiến, chứng cứ cũng như các hành vi tố tụngkhác. Tiếp đến, Chánh án sẽ phân công Thẩm phán giải quyết vụ án và chỉ định thưký Tồ án. Đây là cơng tác nhân sự rất quan trọng. Bởi lẽ nếu khơng có người giải quyết vụ án thì vụ án sẽ “nằm yên” và các thủ tục cũng như các bước tiếp theo
không thể thực hiện được. Bên cạnh đó, các hoạt động khác cũng có tính chất chuẩn bị như giao nộp chứng cứ, vãn bản, tài liệu,...
Nếu xét ở bản chất, thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự,
Tồ án chưa có bất kỳ nhận định, đánh giá, kết luận nào liên quan đến nội dung của
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">tranh chấp. Trong giai đoạn này, Toà án vừa chuẩn bị nhân lực (Thấm phán giải quyếtvụ án, thu ký Toà án,...), yêu cầu các bên giao nộp chứng cứ hoặc tự mình thu thập
chứng cứ (trong một số trường họp nhất định), vừa giải quyết nhũng vấn đề sau:
- Xác định quan hệ dân sự tranh chấp: Việc xác định rõ quan hệ tranh chấp
có ý nghĩa trong việc xác định thẩm quyền của Toà án, xác định các quy định phápluật liên quan, xác định đương sự tham gia,...
- Xác định thâm quyên cua Toa an: Toa an can phải trả 1Ờ1 cau hoi Toa an co
thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không? Nếu vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Tồ án thì các bước tiếp theo sẽ cần làm gì? Nếu vụ án dân sự khơng thuộc
thẩm quyền của Tồ án thì các bước tiếp theo cần phải làm gì?
- Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác: Toà án cần xác định nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các đương sự khác.
Việc xác định đúng tư cách của đương sự không những bảo đảm được quyền, lợi ích
họp pháp của các chủ thể mà cịn bảo đám tính đúng đắn trong hoạt động xét xử.
- Chuẩn bị và lập hồ sơ của vụ án dân sự: Hồ sơ vụ án dân sự bao gồm đơn khởi kiện, văn bản trình bày ý kiến của các đương sự, đơn phản tố (nếu có), đơn yêu
cầu độc lập (nếu có), các văn bản, tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp.Trong nhiều trường họp, bản thân các đương sự không biết phải nộp những tài liệu,
giấy tờ gì? Trong những trường họp này, Toà án sẽ yêu cầu các đương sự cung cấp
văn bản, tài liệu.
- Tồ chức hoà giải cho các đương sự:
- Một số công việc chuẩn bị khác;
<b>Thứ ba,</b> chủ thể thực hiện các công việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơthẩm vụ án dân sự là Tồ án và các chủ thể khác.
Các cơng việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự chù yếu
do Toà án thực hiện. Tuy nhiên, nếu chỉ có mình Tồ án (gồm Chánh án, Thẩmphán chủ toạ phiên tồ, thư ký Tồ án) thì sẽ khơng thể thực hiện và hồn thành được cơng việc chuấn bị xét xử. Vì vậy, các chù thề khác cũng tham gia vào cáchoạt động chuẩn bị xét xử.
11
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Tiến trình tố tụng dân sự đối với vụ án dân sự chỉ bắt đầu khi có người khởikiện. Như vậy, Tồ án sể khơng tự minh đi tìm vụ án dân sự để giải quyết mà bản
thân cá nhân, tổ chức trong xã hội nếu xét thấy quyền, lợi ích họp pháp của mình bị người khác xâm phạm thì sẽ tự chủ động nộp đơn khởi kiện đề yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt tiến trình tố tụng, bên cạnh một
số hoạt động mà Toà án sẽ chủ động thực hiện (Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự, tống đạt giấy tờ, tài liệu cho đương sự, triệu tập các đương
sự, tổ chức phiên họp kiếm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hồ giải, nghiên cứu hồ sơ vụ án,...) thì nhiều hành vi tố tụng của Toà án chỉ được Toà
án thực hiện khi có u cầu của đương sự. Ví dụ: Tồ án chỉ xem xét ra quyết đìnhchỉ giải quyết vụ án dân sự vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết nếu như đương sự cóyêu cầu;....Như vậy, mặc dù Toà án là chủ thể ra những hành vi hoặc quyết định tố tụng này nhưng hành vi hoặc quyết định tố tụng này sẽ không phát sinh nếu như
đương sự khơng chù động u cầu.
Bên cạnh đó, có nhiều hành vi tố tụng do Tồ án tổ chức nhưng hành vi tố
tụng đó sẽ khơng đạt được kết quả hoặc không hiệu quả nếu như các đương sự
khơng tham gia hoặc khơng tham gia nhiệt tình (chỉ tham gia cho đủ). Ví dụ, phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hồ giải sẽ khơng thành cơng nếu như đương sự không tham gia hoặc không đạt hiệu quả cao nhất nếu như đương sự không tham gia đầy đủ.
Cuối cùng, nhiều hành vi tố tụng được chủ động thực hiện bởi đương sự mà
khơng có sự tác động của Tồ án. Ví dụ: bị đơn nộp đơn yêu cầu phản tố; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu độc lập; đương sự nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;....
Nói tóm lại, công việc chuẩn bị xét xử không phải là cơng việc của riêng Tồ án mà cịn có sự tham gia của các chủ thể khác.
<b>vềý nghĩacủa chuẩn bị xétxửsơ thấm vụ án dân sự, </b>chuẩn bị xét xử sơthẩm vụ án dân sự giúp cho Toà án trả lời được câu hởi có phải đưa vụ án dân sự ra xét xử sơ thẩm hay không?
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Tranh chấp giữa các cá nhân, tố chức trong xã hội là điều không mong muốn
nhung không thể tránh khỏi. Ngay từ thời xa xưa, cha ông ta cũng đã có nhiều giải
pháp đế ngăn việc đưa vụ việc ra pháp đinh. Ví dụ, ở nhiều làng quê, trưởng họđứng ra hoà giải tranh chấp giữa các thành viên trong họ để tránh việc kéo nhau ra
pháp đình làm xấu mặt dịng họ. Đối với tranh chấp giữa các dịng họ trong làng,
người có chức sắc trong làng sẽ đứng ra phân xử theo hướng hoà giải. Ông cha ta từ
xưa vẫn có câư “vợ chồng đóng cửa bảo nhau” hay “bán anh xem xa mua láng giềng gần”,...để đề cao sự hoà thuận trong các mối quan hệ trong xã hội. Tư tưởng đó vẫn tiếp tục được phản ánh trong thiết kế quy trình tố tụng dân sự.Tranh chấp
dân sự có tính chất là tranh chấp tư. Vì vậy, sự thương lượng, hồ giải, “chín bỏ làm
mười” để hướng tới sự hoà thuận, đoàn kết giữa các chủ thề trong xã hội luôn được
khuyến khích. Vì vậy, trong giai đoạn chuấn bị xét xử, với phương châm “cịn nước cịn tát”, Tồ án nỗ lực đứng ra hoà giải, cố gắng hàn gắn những rạn nứt trong mối quan hệ giữa các bên. Nếu các bên có thể hồ giải thành, đạt được sự đồng thuận
trong giải quyết tranh chấp thì mối quan hệ giữa các bên tiếp tục được duy trì, khối
đại đoàn kết trong xã hội được bảo đảm, đồng thời cũng giảm bớt chi phí cho Nhà
nước cũng như cho các bên. Như vậy, Nhà nước cũng như các bên có thề tiết kiệm
được một nguồn lực đáng kể để đầu tư vào những việc khác hiệu quả hơn cho xã
hội. Nếu các bên hồ giải thành thì đương nhiên quy trình tố tụng sẽ chấm dứt,
phiên tồ sơ thẩm sẽ khơng phải mở nữa.
Bên cạnh đó, cũng có thể có những trường hợp, có căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tồ án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Ví dụ,
trường hợp một bên đề nghị Tồ án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đà hết thì Tồ án căn cứ vào các quy định của pháp luật và chứng cứ thấy
rằng thời hiệu khởi kiện đã hết, Tồ án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quyết định đinh chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng chấm dứt toàn bộ quá
trình tố tụng dân sự. Một trường hợp đình chỉ khác, đó là trường hợp các bên tựthương lượng thành, nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn không có đon yêu cầu
phản tố (hoặc cũng rút đơn yêu cầu phản tố), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
13
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">khơng có u câu độc lập (hoặc cũng rút đơn yêu câu độc lập). Trong trường hợpnày, Tồ án sể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Ngược lại, nếu vụ án dân sự phải được đưa ra xét xử sơ thẩm thỉ các hoạt động chuẩn bị bao gồm: phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự, thu thập,
xác minh chứng cứ; nghiên cứu hồ sơ vụ án,... sẽ giúp cho cơng tác xét xử tại phiên tồ dân sự sơ thấm được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đúng luật, chính xác và
cơng bằng.
<b>1.2. Nội dung phápluật về chuẩn bịxétxử sơ thấm vụ án dânsự</b>
Như phần trên đà trình bày, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giaiđoạn của quá trình tố tụng dân sự. Vì vậy, nhiều hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được quy định bởi pháp luật. Pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là tống thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ
giữa các chủ thể trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
về mặt hình thức, nguồn của pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dânsự bao gồm BLTTDS, các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS và án lệ. Ở Hoa Kỳ, khơng có BLTTDS do cơ quan lập pháp ban hành mà có Bộ quy tắc tố tụng dân
sự do Toà án tối cao ban hành. Việc giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyềnliên bang thì Bộ quy tắc tố tụng dân sự do Toà án án tối cao Liên bang Hoa Kỳ ban
hành sẽ điều chỉnh. Việc giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của bang thì sẽ
do Bộ quy tắc tố tụng dân sự do Toà án tối cao của từng bang điều chỉnh. Stephen
c. Yeazell & Joana c. Schwartz lý giải về vấn đề này như sau:
“Bộ quy tắc tố tụng dân sự Liên bang điều chỉnh các hành vi tố tụng dân sự
tại các Toà án liên bang. Thấm quyền của các Toà án do Nghị viên quy định, nhưng
khác với Bộ luật tư pháp (Quyển 28 của Bộ luật Hoa Kỳ, trang 197), Bộ quy tắc
không phải là sản phẩm của hoạt động lập pháp trục tiếp bởi Nghị viện. Thay vào
đó Nghị viên ban hành Luật ban hành Quy tắc/Quy chế, trao cho Toà án tối cao
Liên bang thẩm quyền ban hành bộ quy tắc tố tụng” [51, p.9].
Ngoài ra, ở mỗi Toà án ở Hoa Kỳ đều có bộ quy tắc riêng của mình [50,
p.37]. Bên cạnh đó, các hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại các Toà án Hoa Kỳ còn chịu sự điều chỉnh bởi nguồn án lệ khống lồ.
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">ơ Hàn Ọuôc, Luật tô tụng dân sự Hàn Quôc được ban hành lân đâu vào năm1960 và đã được sửa đổi nhiều lần cho đến nay. Luật tố tụng dân sự Hàn Quốc là
văn bản quy phạm pháp luật cao nhất (sau Hiến pháp) điều chỉnh quan hệ tố tụng dân sự ở Hàn Quốc. Tiếp đó, Tồ án tối cao Hàn Quốc ban hành Quy tắc tố tụng dân sự để quy định chi tiết thi hành Luật tố tụng dân sự Hàn Quốc. Bên cạnh đó, có nhiều vàn bản quy phạm pháp luật khác có chứa đựng các quy định liên quan đến tố tụng dân sự nói chung và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Ví dụ: Luật tranh
chấp gia đình, các vấn đề về phá sản và tổ chức lại doanh nghiệp được giải quyết bởi Luật phá sản và tái tồ chức, ...
ớ Việt Nam, trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm
1954, Nhà nước ta chủ trương cho giữ lại tạm thời các luật lệ của thời Pháp thuộc ở Bắc, Trung, Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ trấn động địa cầu, Miền Bắc
nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta đà ban hành một loạt văn bản quy
phạm pháp luật về tố tụng dân sự để chính thức xóa bỏ và thay thế các luật lệ cũ của
thời Pháp thuộc. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989 Toà án nhân dân tốicao đã ban hành một loạt văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng dân sự như: Thôngtư số 614/DS1 ngày 24/4/1963 hướng dẫn một số thủ tục tố tụng cho Toà án địa phương, Thông tư số 39/NCLP ngày 21/01/1972 hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp
và tạm xếp những việc kiện về hơn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự, Thôngtư số 06/TATC ngày 25/02/1974 hướng dẫn về công tác điều tra trong tố tụng dân
sự, Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 hướng dẫn cơng tác hồ giải trong tố tụng dân sự,... Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989, ở nước ta chưa có văn bản luật quy định thống nhất về tố tụng dân sự, các vấn đề tố tụng dân
sự trong đó có chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được quy định tản mạn trongcác thơng tư do Tồ án nhân tối cao ban hành - đây là các văn bản dưới luật.
Trong giai đoạn từ nãm 1989 đến năm 2004, nguồn luật quy định về tố tụng
dân sự, trong đó có chuẩn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự bao gồm Pháp lệnh thú tục
giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 và các
15
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">nghị quyết của Hội đồng Thấm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
các pháp lệnh trên. Như vậy, ở giai đoạn này, các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng dân sự của nước ta đã có thứ bậc hiệu lực cao hơn. Tuy nhiên, cùng là tranhchấp dân sự nhưng có tới ba pháp lệnh khác nhau điều chỉnh, dẫn đến sự tản mạn,chồng chéo và khó khăn trong áp dụng. Trong giai đoạn này, trên thực tiễn cũng
như trên các diễn đàn khoa học, những tranh luận về phân biệt tranh chấp dân sự với tranh chấp kinh tế làm tốn nhiều giấy mực, công sức và tiền bạc.
Ngày 15/06/2004, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố
XI đã thơng qua BLTTDS đầu tiên của Nhà nước ta, đánh dấu một sự phát triển mới
trong công tác lập pháp và pháp điển hoá. Tiếp đến, hàng loạt các nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn cụ thểcác quy định trong BLTTDS năm 2004. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2004 đến
năm 2015, nguồn luật điều chỉnh về tố tụng dân sự trong đó có chuẩn bị xét xử ở
nước ta gồm BLTTDS năm 2004 và các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao. Hiện nay, BLTTDS năm 2015 đã được ban hành đế thay thế
cho BLTTDS năm 2004.
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đà thừa nhận án lệ là nguồn luật. Điểm (c)Khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định:
Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạnsau đây:
c) Lựa chọn quyết đinh giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã cỏ hiệu lực pháp luật, có tínhchuẩn mực của các Tồ án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ đế các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử;
Vì vậy, bên cạnh BLTTDS, các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao thì án lệ là nguồn luật điều chỉnh về các quan hệ tố tụng dân sựtrong đó có chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
16
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><i><b>1.2.1. Cácnguyêntắcchiphối các hoạt động tố tụng trong giaiđoạn chuẩn bị xét </b></i>
Các nguyên tắc chung của pháp luật tố tụng dân sự cũng chi phối các hoạt động trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, trong đó có các nguyêntắc cơ bản sau đây:
<b>Nguyên tắc độc lập, vô tưvà khách quan: đây</b> là ngun tác chi phối tồn
bộ tiến trình tố tụng dân sự. Tính độc lập địi hởi Tồ án độc lập trong xét xử, quyết định của Toà án chỉ dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và chứng cứ. Tính độc
lập cũng địi hỏi không cá nhân, tố chức nào được can thiệp bất hợp pháp vào quátrinh Toà án giải quyết tranh chấp dân sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, tính độc lập địi hởi Thẩm phán được phân cồng giải quyết vụ án dân sự, thư ký Toà án phải độc lập với các đương sự. Nghĩa là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự, thư ký Tồ án khơng có mối quan hệ thân thích hoặc
mối quan hệ khác dẫn đến Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự, thư
ký Tồ án mất đi tính độc lập với các đương sự, và dần đến mất đi sự vô tư, kháchquan khi giải quyết vụ án dân sự. Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự năm 1989, mặc dù khơng có điều khoản nào diễn đạt về nguyên tắc độc lập, vôtư và khách quan, nhưng tại khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989 đã quy định:
1- Thẩm phán, hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu:
a) Đồng thời là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người thân thích của đương sự, người làm chứng trong vụ án;
b) Đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịchtrong vụ án;
c) Đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Ưỷ banThẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
d) Trong Hội đồng xét xử mà Thẩm phán, hội thẩm nhân dân là người thântích với nhau;
17
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">đ) Có căn cứ cho thấy họ có thế khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ.
Quy định này tiếp tục được kế thừa trong BLTTDS năm 2004 và
BLTTDS năm 2015.
Như vậy, để bảo đảm cho sự độc lập, vô tư, khách quan, khi được phân công
giải quyết vụ án dân sự, nếu xét thấy việc tham gia của mình khơng bảo đảm sự độc
lập, vô tư, khách quan, Thẩm phán phải từ chối tham gia giải quyết vụ án dân sự.
Sự vô tư, khách quan cũng đòi hỏi trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác, Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án dân sự không được gặp riêng bất kỳ đương sự nào nếu như
khơng có sự có mặt của đương sự khác. Như vậy, kể từ khi được phân công tham
gia giải quyết vụ án dân sự, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký toà án không được gặp gờ riêng từng đương sự nếu khơng có sự tham gia của đương sự khác. Bởi
lẽ, việc gặp gỡ riêng dù ớ trụ sở Toà án hay ớ bat kỳ nơi nào đó, những câu chuyện
giữa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký với đương sự khơng thể kiểm sốt
được, sự vơ tư, khách quan có thể từ đó bị bóp méo. Tuy nhiên, có một số thủ tục tố
tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có thể cho phép Thẩm phán, Thư ký Toà án gặp riêng từng đương sự. Tuy nhiên, việc gặp riêng này phải được tổ chức tại trụ sở của Tồ án, được diễn ra một cách cơng khai, có lập biên bản. Sau cuộc họp, Tồ án phải thơng báo cho các đương sự cịn lại về cuộc gặp riêng này. Ví dụ: khi một đương sự nộp chứng cứ thì khơng nhất thiết phải có sự tham gia của đương sự khác
nhưng Toà án phải thơng báo cho đương sự cịn lại về sự việc này.
<b>Ngun tắccơng bằng, bình đẳng: </b>Ngun tắc cơng bàng, bình đẳng trongtố tụng dân sự cũng là một nguyên tắc quan trọng. Theo nguyên tắc này, các đương
sự phải được đối xử cơng bằng, bình đắng. Điều 6 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994 quy định về nguyên tắc này như sau:<i> “Các đương sự bỉnh đẳng về quỵền và nghĩa vụtrong quả trìnhgiải quyết vụán”.</i>
Nguyên tắc này cũng tiếp tục được kế thừa trong BLTTDS năm 2004 và
BLTTDS năm 2015.
18
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><b>Nguyêntắc thôngbáophù hợp:</b> Theo nguyên lý “bị đơn cần được biếtmình bị khởi kiện”, khi thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn, Toà án phải thồng báo cho bị đơn về việc Toà án đã thụ lý đơn khởi kiện kèm theo là bản sao đơn khởi
kiện của nguyên đơn để bị đơn biết mình đã bị khởi kiện và chuẩn bị ý kiến đối với
đơn khởi kiện. Việc bị đơn được thông báo cũng thể hiện ngun tác cơng bằng, bình đẳng trong tố tụng dân sự. Tiếp theo, khi bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan nộp văn ban trình bày ý kiên vê đơn khởi kiện thì Tồ án cũng phải
thông báo cho nguyên đơn về vấn đề này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Toà án
sẽ thực hiện một số hành vi tố tụng nhất định, cũng như các bên đương sự có thể có yêu cầu, nộp chứng cứ, tài liệu,... cho Toà án. Trong những trường họp này, Toà án
phải bảo đảm tất cả các đương sự đều được biết về nhừng sự kiện này thông qua việc thông báo phù hợp cho các đương sự. Cơ sở khoa học của nguyên tắc này xuất
phát từ lý do các hành vi tố tụng dân sự, các yêu cầu, hành động của bất kỳ chủ thế
nào trong tiến trình tố tụng đều có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích họp pháp của bất kỳ đương sự nào trong quá trinh tố tụng dân sự. Vì vậy, họ phải được biết được
những hành vi tố tụng dân sự, các yêu cầu, hành động đó đã diễn ra như thế nào đế có phương án hành động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong pháp luật
tố tụng dân sự của nhiều nước, việc khơng được thơng báo thích họp có thể là căn
cứ đê yêu câu huy ban án, qut định cùa Tồ án.
<b>Ngun tắc nhanh chóng, kịp thời: Các</b> vụ án dân sự cần được giải quyết
nhanh chóng, kịp thời trong thời hạn họp lý để bảo đảm sự ổn định trong xã hội. Vìvậy, các thời hạn cho từng giai đoạn tố tụng, cũng như chotừng hành vi tố tụng
cũng cần được thiết kế hợp lý bảo đảm các chủ thể có đủ thời gian để giải quyết
nhưng cũng cần phải nhanh chóng, kịp thời, khơng q dài lê thê, gây lãng phínguồn lực.
<i><b>1,2,2.Thời hạn </b></i><b><sub>• </sub></b> <i><b>của giai </b></i><b><sub>o </sub></b> <i><b>đoạn</b></i><b><sub>• </sub></b> <i><b> chuẩnbị xét</b></i><b><sub>• </sub></b> <i><b> xử</b></i><b><sub>♦ </sub></b> <i><b>sơ thẩm </b></i><b><sub>•</sub></b> <i><b>vụ án dân sự</b></i>
Thời hạn của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự cần được thiết
kế một cách họp lý sao cho các chủ thể có đủ thời gian cần thiết để hồn thành các
hành vi tố tụng cúa mình nhưng cũng khơng q dài gây lãng phí nguồn lực cho xã
19
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hội. Việc đánh giá thời hạn như thê nào là hợp lý là một vân đê khó, nhưng cân dựavào các tiêu chí sau:
- Các hoạt động được thực hiện trong giai đoạn chuấn bị xét xử: Trước hết,
nhà làm luật cần phải làm rõ các hoạt động quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm những hoạt động nào? Thời gian thiết kế cho giaiđoạn chuẩn bị xét xử cần đú ở mức tối thiểu để các chủ thể hoàn thành được các
hoạt động này.
- Sự sẵn có của nguồn lực: Việc có thể hồn thành được các hoạt động tố
tụng trong giai đoạn chuấn bị xét xử hay không, không chỉ phụ thuộc vào bản thân
của các chủ thể thực hiện mà còn phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực trongxã hội. Ví dụ: nếu khả năng tiếp cận thông tin đã thuận lợi thỉ thời gian tiếp cận
thông tin sẽ ngắn hơn; nếu sự hợp tác, chia sẻ trong xã hội tốt trên cơ sở sự cởi mở cũng như sự hiện đại của cơ sở vật chất, cơng nghệ thì việc trao đối, chia sẻ thơng tin sẽ nhanh chóng, thuận tiện hơn; sự thuận tiện về mặt địa lý, phương tiện đi lại cũng giúp cho việc hoàn thành các hoạt động sớm hơn; ....
- Tính phức tạp của vụ án: Vụ án càng phức tạp, càng nhiều vấn đề phải xác
minh, làm rõ, thì càng cần nhiều thời gian đề hồn thành. Ngược lại, vụ án có tính
chất đơn giản, các đương sự đều khơng có phản đối các tài liệu, chứng cứ,... thì
thời gian chuẩn bị xét xử sẽ ngắn hơn.
Do đó, khi thiết kế thời hạn cho giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự cũng như thời hạn cho từng hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự, nhà làm luật cần phải xem xét tồn tiện các tiêu chí trên.
Các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được thực hiện chủ yếu bởi Toà án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự.
Các hoạt động của Toà án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bao gồm: phân công
Thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo cho các đương sự; lập hồ sơ vụ án dân sự; tổ
chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hồ giải; ....Bên cạnh đó, các chủ thể khác cũng tham gia vào hoạt động chuẩn bị xét xử sơ
20
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">thấm vụ án dân sự: nộp vãn bản ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo trong thời hạn luật định; nộp đơn yêu cầu phản tố; nộp đơn yêu cầu độc lập; đề nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tham gia vào
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hồ giải;....
Theo pháp luật của Hoa Kỳ thi giai đoạn tiền phiên toà dân sự sơ thấm gồm có các hoạt động sau: Tiến trình tố tụng được bắt đầu bằng việc nguyên đơn nộp đơn khởi kiện; tiếp đến Tồ án thơng báo cho bị đơn về đơn khởi kiện kèm theo là bản sao đơn khởi kiện và văn bản yêu cầu bị đơn trả lời đơn khởi kiện của nguyên
đơn trong thời hạn luật định; bị đơn nộp văn bản trả lời; các bên đưa ra các yêu cầuđối với Tồ án (ví dụ u cầu đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện
đã hết); thu thập chứng cứ; phiên họp trước phiên toà sơ thẩm [50, p.37-40].
Các hoạt động trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự ở Hàn
Quốc cũng bao gồm: đầu tiên là nguyên đơn nộp đơn khởi kiện; tiếp đó Tồ án
thơng báo cho bị đơn; bị đơn nộp văn bản trả lời; các bên tiếp tục có văn bản đưa rayêu cầu và ý kiến; phiên họp trước phiên toà sơ thẩm [49, p. 16-19].
Mặc dù khơng có quy định riêng liệt kê các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nhưng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989 cũng đã có nhiều quy định về các hoạt động cụ thể trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử, như: điều tra vụ án (Điều 38 đến Điều 40 cùa Pháp lệnh); hồ giải; tạm
đình chỉ vụ án dân sự; đình chỉ vụ án dân sự; đưa vụ án ra xét xử. Pháp lệnh thủ tụcgiải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 đã dành một chương riêng - chương 7 quy
định về chuẩn bi xét xử (từ Điều 34 đến Điều 40). Các nội dung về các hoạt động
trong giai đoạn chuẩn bị xét được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế năm 1994 mạch lạc, rõ ràng hơn so với Pháp lệnh thú tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989. Theo quy định từ Điều 34 đến Điều 40 của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có
các hoạt động sau: phân công Thấm phán giải quyết vụ án; thông báo cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về nội dung đơn khởi kiện; bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nộp ý kiến bằng văn bản; xác minh, thu thập chứng
21
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">cứ; hoà giải; quyêt định đưa vụ án ra xét xử; quyêt định tạm đình chỉ giải quyêt vụ
án; quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
BLTTDS năm 2004 tiếp tục kế thừa các văn bản quy phạm pháp luật trướcđó liên quan đến các nội dung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nhưng có nhiều quy định cụ thể hơn. Ví dụ, Điều 176 và 177 của BLTTDS năm 2004 đã có quy định cụ thề về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các quy đinh liên quan đến hoà giải, hậu
quả pháp lý của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, hậu quả pháp lý
của quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng đà cụ thể hơn.
BLTTDS năm 2015 tiếp tục kế thừa với nhiều điểm cải tiến hơn BLTTDS năm 2004 về chuẩn bị<sub>•</sub> xét xử sơ thẩm vụ<sub>• </sub>án dân sự.<sub>•</sub>
Nhìn chung, các hoạt động trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự bao gồm các hoạt động cơ bản sau đây:
<b>Thứ nhất, </b>phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự. Ngay sau khi thụlý vụ án dân sự, việc đầu tiên Toà án cần làm là phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự. Đe phòng ngừa trường hợp Thấm phán được phân công giải quyết vụ án
dân sự không thể tiếp tục nhiệm vụ của mình thì Chánh án cần phân công cả Thẩm
phán dự khuyết. Việc phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự và Thẩm phándự khuyết phải bảo đảm nguyên tắc độc lập, vô tư, khách quan trong giải quyết vụ án dân sự.
<b>Thứ hai, thông</b> báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về
nội dung đơn khởi kiện. Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, Tồ án cần nhanh chóng
thơng báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về nội dung đơn khởi
kiện. Vấn đề đặt ra là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần được thơng báo những gì? về ngun tắc, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì kèm theo đơn
khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Trước hết, Tồ án cần phải có thơng báo bằng văn bản trong đó có nêu u cầu của nguyên đơn đối với bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời trong văn bản này Tồ án cũng
cần u cầu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến bằng văn bản
22
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">trong một thời hạn do Toà án ân định (phù hợp với quy định cùa pháp luật). Tiêptheo, kèm theo văn bản thông báo là bản sao đơn khởi kiện. Bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan cần được biết toàn bộ nội dung đơn khởi kiện. Do đó, Tồ án cần phải gửi kèm theo thông báo bằng văn bản là bản sao đơn khởi kiện. Theo quy
tắc 4(c)(1) của Bộ quy tắc tố tụng dân sự liên bang Hoa Kỳ thì đi kèm theo thơng báo (summon) phải là bản sao đơn khởi kiện [51, p.25]. Vậy, Tồ án có phải gửi
kèm theo thông báo bản sao các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn nộp không? Các tài liệu, chứng cứ do các đương sự nộp cho Toà án thường khá nhiều, thậm chí là rất nhiều. Nếu địi hỏi Tồ án phải gửi cho các đương sự các tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác nộp sẽ gây tốn kém chi phí khơng cần thiết cho Nhà nước. Án phí
dân sự sơ thẩm nhiều khi không đủ để chi trả cho các khoản sao chụp này. Hơn nừa, việc cán bộ Toà án mất thời gian vào việc sao chụp tài liệu để gửi đi cho các đương
sự sẽ làm cho các cán bộ Toà án xao nhãng, thiếu tập trung vào cơng việc chính. Vì
vậy, giải pháp họp lý là khơng buộc Tồ án phải gửi kèm theo bản sao các tài liệu, chứng cứ cho đương sự nộp. Qua nghiên cứu, pháp luật tố tụng dân sự nhiều nước thì thấy khơng có nước nào buộc Tồ án phải gửi kèm theo bản sao tài liệu, chứngcứ cho đương sự nộp.
<b>Thứ ba, </b>bị đon, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp văn bản ý
kiến về nội dung đơn khởi kiện cùa nguyên đơn trong thời hạn luật định. Đây vừa làquyền cũng vừa là nghĩa vụ của đương sự. Rõ ràng, bị đơn, người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan đã được thông báo về nội dung đơn khởi kiện. Tiếp theo, họ cần
phải bày tỏ ý kiến của minh với Toà án cũng như các đương sự. Quy định bắt buộc
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp văn bản ý kiến về nội dung
đơn khởi kiện của nguyên đơn kèm theo tài liệu, chứng cứ trong thời hạn luật định
có ý nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của các đương sự này. vấn đề đặt ra lànếu như họ khước từ thực hiện nghĩa vụ này thì sao? Pháp luật tố tụng dân sự HoaKỳ tương đối dứt khoát về vấn đề này. Theo pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Hoa Kỳ và các bang, nếu như bị đơn không nộp văn bản ý kiến đúng hạn và các
chứng cứ và yêu cầu của nguyên đơn là đầy đủ, Toà án sẽ ra bản án mà khơng cần
23
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">có ý kiến của bị đơn (default judgment) [50, p.37]. Tương tự như vậy, ở Hàn Quốc,nếu quá thời hạn luật định mà bị đơn không nộp văn bản ý kiến cùa minh cho Toà
án thỉ Toà án cơi như bị đơn đã đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, và Toà án sè ra
bản án mà không cần phải mở phiên xét xử [49, p. 17].
Bị đơn, người cỏ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thê chấp nhận tồn bộ hoặc một phần nội dung đơn khởi kiện hoặc khơng chấp nhận tồn bộ hoặc một
phần đơn khởi kiện. Bên cạnh đó, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan nếu:
+ Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
+ Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập;
+ Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn [46, tr.257].
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu độc lập khi có đủcác điều kiện sau:
+ Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
+ Yêu Cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
+ Yêu cầu độc lập cùa họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho
việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn [46, 257, 268].
Nếu như cả bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều đồng ý với
các yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình, đồng thời bị đơn khơng có u cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
khơng có u cầu độc lập thì sao? Pháp luật Hàn Quốc có một giải pháp khá tiện
lợi, đó là Tồ án sẽ ra bản án mà khơng cần phải mở phiên tồ sơ thẩm [49, p. 17].
<b>Thứ tư, </b>yêu cầu của đương sự và giải quyết yêu cầu của đương sự: Tronggiai đoạn chuẩn bị xét xử, các đương sự có thể đưa ra các yêu cầu bằng văn bản đối
24
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">với Toà án đế yêu cầu Toà án thực hiện một hoặc một số hành vi tố tụng nhất định.Ví dụ: ngun đon có thể nộp đon u cầu Tồ án áp dụng biện pháp khẩn Cấp tạm
thời; bị đon có thể nộp đon yêu cầu Toà án đỉnh chỉ giải quyết vụ án dân sự vì Tồ án khơng có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự;... . Khi các đuong sự nộp đơn yêu cầu Toà án thực hiện một hành vi tố tụng nào đó, đương sự phải nộp kèm theo vănbản, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình. Ngồi ra, đương sự còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác theo quy định của pháp luật. Ví dụ: trongtrường hợp, nguyên đơn yêu cầu Toà án ra quyết định buộc tạm dừng thơng quanmột lơ hàng hố, thì ngun đơn phải ký quỹ một khoản tiền tương đương với giá
trị của lô hàng hàng bị yêu cầu tạm dừng thông quan. Tiếp theo, Tồ án sẽ xem xét xem có căn cứ để ra quyết định hoặc thực hiện hành vi theo yêu cầu của đương sự hay không? Nếu thấy u cầu của đương sự có căn cứ, Tồ án sẽ ra quyết định hoặcthực hiện hành vi theo yêu cầu của đương sự. Ngược lại nếu xét thấy u cầu cùa đương sự khơng có căn cứ, Tồ án sẽ ra văn bản không chấp nhận yêu càu của đương sự có giải thích rõ lý do. Khi một đương sự có yêu cầu bằng văn bản nộp cho
Tồ án, Tồ án phải thơng báo nội dung u cầu này cho các đương sự còn lại và yêu cầu các đương sự cịn lại có ý kiến bằng văn bản theo thời hạn do Toà án ấn định (phù họp với quy định của pháp luật). Khi Toà án ra quyết định hoặc thực hiện
hành vi theo yêu cầu của đương sự hoặc từ chối yêu cầu cùa đương sự thì cũng phải
thơng báo bàng văn bản cho tất cả các đương sự. Tuỳ theo, tính chất của quyết định hoặc hành vi cũng như tuỳ theo quy định của pháp luật mà đương sự có quyền khiếu
nại hoặc kháng cáo quyết định, hành vi trên của Toà án.
<b>Thứnăm, </b>giao nộp, cung cấp chứng cứ và tiếp cận chứng cứ: về nguyêntắc, trong tố tụng dân sự, đương sự có u cầu thì phải có chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của minh. Ngay cả bản thân đương sự khơng có u cầu mà chỉ có ýkiến phản bác yêu cầu của đương sự khác, để thuyết phục được Toà án bác yêu cầu của đương sự khác, đương sự phản bác cũng phải cung cấp chứng cứ. Trong tố tụng
dân sự, các đương sự phải tự mình thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tồ án. Ĩ cánước thơng luật như Hoa Kỳ, Tồ án khơng có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Ở Việt
25
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nam, Tồ án chỉ tự mình thu thập chứng cứ trong các trường hợp đặc biệt được quy định trong BLTTDS, còn trong các trường hợp thơng thường, đương sự phải tựmình thu thập và giao nộp chứng cứ cho Toà án.
Ở Hoa Kỳ và nhiều nước thuộc hệ thống thơng luật, mơ hình tố tụng dân sự của họ là mơ hình tranh tụng. Ớ đó, Tồ án chỉ đóng vai trị như trọng tài, ngồi và
nghe các bên trình bày và xuất trình chứng cứ. Vì vậy, các bên phải tự mình thuthập và xuất trinh chứng cứ để chứng minh cho quan điểm của mình. Các bên có thềthu thập chứng cứ thơng qua gửi bảng hỏi cho bên đối tụng để yêu cầu bên đối tụngtrả lời theo bảng hỏi này. Ngoài ra, đương sự có thế gửi vàn bản yêu cầu bên đối
tụng cung cấp tài liệu, vật chứng. Cuối cùng, luật sư của đương sự có thể tiến hành lấy lời khai của người làm chứng dưới sự chứng kiến của cán bộ Toà án. Cán bộToà án sè ghi lại tồn bộ q trình lấy lời khai bao gồm lời nói, trình bày của cả luật
sư và người làm chứng. Nếu trong quá trình thu thập chứng cứ, một bên đương sự
có hành vi khơng hợp tác, từ chối cung cấp chứng cứ một cách khơng chính đáng hoặc cố ý cản trở bên đối tụng thu thập chứng cứ thỉ một bên đương sự đang thuthập chứng cứ có quyền u cầu Tồ án buộc bên đang cản trở cung cấp chứng cứ hoặc chấm dứt hành vi cản trở bên đối tụng thu thập chứng cứ. Nếu bên đương sự
này vẫn tiếp tục không tuân theo lệnh của Tồ án thì Tồ án có quyền áp dụng mộttrong các biện pháp chế tài sau:
(i) quyết định rằng vấn đề được nêu trong lệnh hoặc các chứng cứ được
xác định khác được coi là chứng cứ hợp pháp cho yêu cầu của bên bị viphạm;
(ii) cấm bên vi phạm ủng hộ hoặc phản đối yêu cầu hoặc biện hộ hoặc
cung cấp chứng cứ;
(iii) bác toàn bộ hoặc một phần yêu cầu của bên vi phạm;
(iv) tiếp tục gia hạn thủ tục cho đến khi lệnh được tuân thủ;
(v) bác một phần hoặc toàn bộ yêu cầu hoặc đình chỉ một phần hoặc tồnbộ q trình tố tụng;
(vi) ban hành bản án khơng có lợi cho bên vi phạm;
26
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">(v) coi hành vi khơng tn theo lệnh của Tồ án là tội khơng châp hànhlệnh cùa Toà án” (qui tác 37(b)2(A) của Bộ quy tắc tố tụng dân sự Liên bang Hoa Kỳ) [51, p.102].
Bên cạnh đó, đối với hành vi cản trở bên đối tụng thu thập chứng cứ, Tồ án có quyền xử phạt đương sự vi phạm hoặc áp dụng các biện pháp chế tài thích hợp.
Trong một số trường họp, Tồ án có quyền ra bản án khơng có lợi cho bên vi phạm.
Ví dụ, theo quy tắc 37(e)(2) của Bộ quy tắc tố tụng dân sự Liên bang Hoa Kỳ, nếu
một bên đương sự cố ý huỷ thông tin được lưu trữ ở dạng điện tử để ngăn cản bên
đương sự khác sử dụng thông tin này trong tố tụng dân sự, Tồ án có quyền:
(A) coi rằng thong tin này bất lợi cho bên vi phạm;
(B) hướng dẫn bồi thẩm đồn có quyền và có nghĩa vụ coi rằng thông tin này bất lợi cho bên vi phạm;
(C) bác yêu cầu của bên này hoặc ra bản án khơng có lợi cho bên vi
Như vậy, mặc dù việc thu thập và xuất trình chứng cứ là nghĩa vụ của đương
sự. Nhưng trong trường hợp cần thiết đế bảo vệ lợi ích của một bên đương sự nhằm
bảo đảm công bằng, công lý, các Tồ án Hoa Kỳ vẫn có thể can thiệp vào q trìnhthu thập chứng cứ. Tuy nhiên, các Tồ án Hoa Kỳ không trực tiếp thu thập chứngcứ mà chỉ can thiệp buộc các các bên cung cấp chứng cứ hoặc chấm dứt hành vi cảntrở bên đương sự khác cung cấp chứng cứ. Ngoài ra, Toà án Hoa Kỳ cịn có nhừngbiện pháp chế tài khá mạnh đề buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ.
về quyền can thiệp của Tồ án trong q trình thu thập chứng cứ, các luậtgia Hàn Quốc cũng cách nhìn như sau:
Điều 136 BLTTDS Hàn Quốc quy định rằng Thẩm phán chủ toạ có
quyền hỏi các đương sự, và khuyến khích các đương sự chứng minh để
làm rõ mối quan hệ pháp lý ở khía cạnh chứng cứ và pháp lý. Quy địnhnày cũng nêu rõ Toà án cần tạo cho các bên cơ hội bày tỏ ý kiến về vấn
đề pháp lý mà có chứng cứ thấy ràng các bên đà bỏ qua.
27
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Như vậy, trong quá trình các bên thu thập, giao nộp chứng cứ, Tồ án có thê
can thiệp để bảo đảm quá trinh thu thập chứng cứ của các bên không bị cản trở bấthợp pháp. Bởi lẽ, nếu chứng cứ không được làm sáng tỏ thỉ chỉ đạt được một nửa sự thật. Một nửa sự thật không thể là sự thật và công lý không thể được sáng tỏ nếu
như sự thật khơng được làm rõ hồn toàn. Việc Toà án can thiệp buộc các bên phải cung cấp chứng cứ chính là bảo vệ cơng lý. Bên cạnh đó, như cách nhìn nhận của
các luật gia Hàn Quốc, trong thực tiễn, không phải đương sự nào cũng có đủ hiểubiết, kinh nghiệm và kỹ năng thu thập và giao nộp chứng cứ. Vì vậy, rất có thề có
trường hợp, đương sự khơng biết cần phải thu thập hay giao nộp chứng nào? Vì vậy, cần thừa nhận quyền của Toà án yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ, tài liệu cụ thể. Điều này sẽ giúp cho đương sự khơng có điều kiện kinh tế để thuê luật sư, có hiếu biết và kinh nghiệm khơng nhiều khơng bị thiệt thịi khi tham gia tố tụng.
Một vấn đề nữa cần đặt ra là, khi đương sự giao nộp chửng cứ cho Toà án.Toà án có phải thơng báo cho đương sự khác khơng? Chứng cứ liên quan đến tranh
chấp, liên quan đến quyền và lợi ích của các đương sự. Vì vậy, các đương sự cần
phải biết chứng cứ đã được giao nộp. Nhưng phải chăng Tồ án phải có nghĩa vụ
thơng báo cho các đương sự? Nếu buộc Toà án phải thông báo cho các đương sự sẽ
gây quá tải trong cơng việc của Tồ án. Vì vậy, khơng nên buộc Tồ án phai thơng
báo về việc chứng cứ đã được giao nộp. Thay vào đó, các đương sự phải công khai,
minh bạch chứng cứ cho nhau. Điều này có nghĩa là, khi giao nộp cho Tồ án bất kỳ chứng cứ, tài liệu nào thì đương sự cũng phải gửi các chứng cứ, tài liệu đó cho các đương sự cịn lại. Nếu một bên đương sự khơng thực hiện đúng nghĩa vụ này thì
chứng cứ cần không được công nhận.
Việc công khai chứng là rất cần thiết vì nó bảo đảm sự cơng bằng cho tất cả
các bên đương sự. Vì vậy, cần loại bỏ hiện tượng, một bên đương sự chờ đến phiên toà sơ thẩm, thậm chí là đến phiên tồ phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ mới gây ra “cái chết bất ngờ” cho bên đối tụng. Việc một bên đương sự chờ đợi đến tận phiên xử mới xuất trình chứng cứ sẽ gây bất ngờ cho bên đối tụng và các đương sự
còn lại. Bên đối tụng và các đương sự khác sẽ lúng túng và khơng có nhiều thời
28
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">gian, cơ hội đế nghiên cứu kỹ lưỡng chứng cứ này. Nếu như, trên cơ sở chứng cứ bất ngờ này, Toà án ra bản án hoặc quyết định bất lợi cho bên đối tụng thì rõ ràngđây một sự khơng cơng bằng. Vỉ vậy, chứng cứ phải được giao nộp cho Toà án
trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thấm. Các chứng cứ được giao nộp
sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thâm không được công nhận.
<b>Thứ sáu, tồ </b>chức các phiên họp trước phiên toà sơ thẩm: Theo thủ tục chung
ở nhiều nước trên thế giới, trước khi mở phiên toà sơ thẩm, trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, Toà án sẽ mở một hoặc nhiều phiên họp trước phiên toà sơ thấm. Phiên họp
trước phiên toà sơ thẩm có thành phần bao gồm Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án, thư ký Toà án, các bên đương sự và các luật sư của họ. Mục đích và nộp dung của các phiên họp này bao gồm:
- Xác định rõ và cụ thế quan hệ pháp luật đang tranh chấp; xác định rõ các
yêu cầu của đương sự. Trong trường hợp cần thiết, dưới sự chủ trì cùa Thấm phán,các bên có thể thống nhất thu hẹp và đơn giản hoá vấn đề tranh chấp. Nếu các vấn
đề tranh chấp đang bùng nhùng, phức tạp mà có thể được làm rõ hơn, tập trung hơn
và làm cho đơn giản hơn thi phiên toà sơ thẩm trước mắt sẽ hiệu quả, nhanh chóngvà chính xác hơn. Bên cạnh đó, tại phiên họp, các đương sự có thể thay đồi yêu cầu, phạm vi khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; xác định những vấn đề đã
thống nhất, những vấn đề chưa được thống nhất.
- Kiểm tra các chứng cứ, tài liệu đã được giao nộp. Tại phiên họp, các bên sẽ
cùng nhau xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ đà được giao nộp. Tại phiên họp,
các đương sự có thể cho ý kiến, quan điềm của minh về các tài liệu, chứng cứ đã
được giao nộp. Trong trường họp, có nghi ngờ về tính xác thực của chứng cứ nàođó thì ben đương sự này có thể làm thủ tục yêu cầu giám định tài liệu, chứng cứ.
Ngoài ra, nếu đương sự có thêm chứng cứ, tài liệu để cung cấp thi có thề cung cấp
ngay tại phiên họp.
- Xác định tư cách của đương sự, người tham gia tố tụng khác. Tại phiên
họp, các bên cùng thống nhất về đương sự, người làm chứng và người tham gia tố
tụng khác. Trong trường họp Cần thiết, các đương sự có thể u cầu Tồ án bố sungthêm đương sự khác, bổ sung thêm người tham gia tố tụng khác,...
29
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">- Tiên hành hoà giải: Như phân trên đã phân tích, sự hồ thuận và đồn kêttrong xã hội luôn là mục tiêu hướng tới trong một xã hội văn minh. Trong tranhchấp dân sự, mặc dù các bên có lợi ích xung đột nhưng khơng có nghĩa là các bên
khơng thế dung hồ và đồng thuận. Vì vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Toà ánphải nỗ lực giúp các bên hoà giải đế đạt được thoả thuận. Chỉ khi các bên khơng thểhồ giải với nhau thì mới đưa vụ án ra xét xử. Bởi vì, khi vụ án đã được đưa ra phiên xử thỉ dù ai thắng ai thua, mối quan hệ giữa các đương sự sẽ ít nhiều bị sứtmẻ. Khi tiến hành hồ giải, Thấm phán được phân cơng giải quyết vụ án đóng vaitrị như một hồ giải viên. Với tư cách là một hoà giải viên, Thấm phán khơng được
dùng quyền uy để áp đặt ý chí của mình lên các đương sự. Thẩm phán kliồng có
quyền buộc một bên phải tham gia phiên họp hoà giải nếu bên này khơng mong muốn hịa giải. Thẩm phán cũng khơng có quyền buộc đương sự phải đạt được sự thoả thuận. Thay vào đó, bằng kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng cùa mình, Thẩmphán phân tích những vấn đề pháp lý, những vấn đề kinh tế, xã hội, tâm lý, tình
cảm,... để chỉ ra những cái được cái mất của việc tiếp tục theo đuổi con đường tố tụng. Với vai trò là trung gian hồ giải, Thấm phán có nhừng đánh giá khách quan cũng như những tư vấn khách quan về những yêu cầu, những phản đối của các bên,
từ đó thẳng thắn và khách quan chỉ cho họ biết sự bất họp lý trong yêu cầu hay quanđiểm của họ và tư vấn cho họ những phương án thích hợp. Đồng thời, Thẩm phán cũng cần lắng nghe, tâm tư, nguyện vọng của các bên để hiểu được cặn kẽ lợi ích
của các bên. Trong nhiều trường hợp, đề các bên có thề chia sẻ hết những suy nghĩ,
những điều mong muốn của mình, Thẩm phán cần được phép tổ chức phiên họp
riêng với từng bên đương sự. Việc họp riêng này cần được thông báo cho đương sự khác biết. Sau đó, Thẩm phán tổ chức phiên họp chung để giúp các bên tìm được
tiếng nói chung. Với vai trị là trung gian hồ giải, Thẩm phán khơng có thẩm quyềnra quyết định mà chỉ có quyền đưa ra các hướng giải quyết vấn đề để các bên lựachọn. Nếu các bên đạt được sự thoả thuận thi Thấm phán sẽ ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự theo thủ tục mà pháp luật tố tụng dân sự quyđịnh. Nếu các bên chưa đạt được thoả thuận, thì theo nguyện vọng của các bên,
30
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Thẩm phán có thể tiếp tục kiên tri tổ chức thêm các phiên họp khác để giúp các bên đạt được thoả thuận.
<b>Thứbảy, </b>các quyết định tố tụng Tồ án có thể ban hành trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự: sTrong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự, Tồ án nỗ lực tơ chức hồ giải cho các bên với mong muốn các bên đạt được
thoả thuận về một giải pháp giải quyết tranh chấp trên tinh thần các bên đều chiến thắng. Nếu như các đương sự đạt được thoả thuận và trong quá thời hạn luật định màkhông bên nào thay đổi ý kiến về thoả thuận này, thì Thẩm phán chủ trì phiên hồ giải
sẽ ra quyết định cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này không
những chấm dứt giai đoạn chuẩn bị xét xử mà còn chấm dứt tồn bộ tiến trình tố tụngdân sự của vụ án. Đây là điều mà các Thẩm phán mong muốn. Tuy nhiên, nếu các bên
không đạt được sự thoả thuận thì tiến trình tố tụng lại phải tiếp tục.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu như xảy ra trường hợp đương sự là cánhân chết mà chưa chưa có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; đương sự là tổ
chức bị giải thể, phá sản mà chưa có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là
phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; hoặc
trường họp khác theo quy định của BLTTDS, thì Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án dân sự sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được ban hành trong giai đoạnchuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự chỉ tạm dừng quá trình tố tụng tại giai đoạnchuẩn bị xét xử vụ án dân sự mà không chấm dứt giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự cũng như tồn bộ quy trình tố tụng dân sự của vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xảy ra trường họp: nguyên đơn hoặc bị
đơn là cá nhân chết mà khơng có người thừa kế; cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá
sản mà không có cơ quan, tồ chức, cá nhân nào kể thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của
cơ quan, tố chức đó; người khởi kiện rút tồn bộ u cầu khởi kiện hoặc nguyên
đơn đã được triệu tập họp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; đương sự có
31
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thấm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết; hoặc các trường hợp khác được quy định
trong BLTTDS, thi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
chấm dứt toàn bộ quy trinh tố tụng dân sự đối với vụ án dân sự.
Nếu như các bên không đạt được thoả thuận và khơng có căn cứ để đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự, thì Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án dân sự phải
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử chấm dứt giai
đoạn chuẩn bị xét xử và chuyển vụ án sang giai đoạn tố tụng mới.
Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, nếu thuộc
trường hợp pháp luật quy định, Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khơng chấm dứt tồn bộ quy trình tố tụng dân sự đối với vụ án dân sự mà chỉ tạm dừng việc giải quyết vụ án dân sự trong một thời gian.
<b>1.3. Cácyếu tố chi phối hiệuquả của việc thực hiện hoạt động chuẩnbị xétxử </b>
<b>SO’thẩm vụ án dânsự</b>
Có nhiều yếu tố chi phối đến hiệu quả của việc thực hiện các hoạt động
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trong luận văn này, học viên xin trình bày một số yếu tố chù yếu như sau:
<b>Thứ nhất,</b> yếu tố pháp luật: Yếu tố pháp luật là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố đầu tiên chi phối hiệu quả của các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Sự tác động của yếu tổ pháp luật lên các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thể hiện ở những điểm sau:
<i><b>Một là, </b></i>nếu hệ thống pháp luật có tính thống nhất, minh bạch và rõ ràng thì việc thực hiện các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
sẽ gặp thuận lợi và hiệu quả. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật được thế hiệnở sự thống nhất về thứ bậc hiệu lực trong cấu trúc các văn bản quy phạm pháp luậttrong toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều đó có nghĩa là, trong cấu trúc hình thức củahệ thống pháp luật, không tồn tại sự mâu thuẫn, chồng chéo giừa các văn bản quy
32
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">phạm pháp luật. Nếu như, hệ thống pháp luật đạt được sự thống nhất cao, Tồ án sẽkhơng gặp khỏ khăn khi áp dụng pháp luật. Ngược lại, nếu tồn tại bất kỳ sự mâu thuẫn, chồng chéo nào trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng sẽ dẫn đến
những khó khăn, vướng mắc trong áp dụng. Nếu tồn tại sự mâu thuẫn giữa văn bản
quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn với văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lựcthấp hơn thì đương nhiên văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn sẽ có hiệu lực áp dụng. Nhưng đó là lý thuyết. Thực tiễn, nguyên tắc này không dễ gì áp
dụng. Bởi lẽ, văn bản có hiệu lực thấp hơn mặc dù trái với văn bản có hiệu lực cao
hơn nhưng nó quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn. Trong khi đó, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn lại chung chung, khó áp dụng. Nếu như cơ quan áp
dụng pháp luật lựa chọn văn bản có hiệu lực cao hơn để áp dụng thì khơng biết phải áp dụng như thế nào đối với tình huống cụ thế khi mà các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn lại chung chung, thiếu cụ thể. Ngồi ra, nếuvăn bản có hiệu lực thấp hơn chưa được bãi bở bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì cơ quan áp dụng cũng sẽ lúng túng trong việc quyết định có hay khơng áp
dụng văn bản này. Tính thống nhất cịn địi hỏi sự thống nhất trong cách hiếu và vận
dụng các quy phạm pháp luật vào thực tiễn. Có nghĩa là trong tồn bộ hệ thống Toà
án, các quy định của pháp luật phải được giải thích và áp dụng thống nhất. Nếu
ngược lại, việc các Tồ án khác nhau có quan điếm khác nhau là không tránh khởi. Điều này dẫn đến một hiện tượng, cùng một vụ án nhưng mỗi cấp Tồ án lại có quyết định khác nhau.
Ngồi ra, các quy phạm pháp luật minh bạch, rõ ràng cũng góp phần giúp
cho các cơ quan áp dụng hiểu đúng được nội dung của quy phạm pháp luật và cũngtránh được nhiều cách hiểu khác nhau. Như vậy để bảo đảm cho hoạt động áp dụng
pháp luật được thống nhất, chính xác và hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là hệ thống pháp luật phải thống nhất, minh bạch và rõ ràng.
phạm pháp luật trước hết phải xuất phát lý thuyết gốc. Theo lý thuyết gốc, quyphạm pháp luật bao gồm giả định, quy định, chế tài (trừ một số dạng quy phạm đặc
33
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">biệt như quy phạm định nghĩa, quy phạm xung đột). Như vậy, nêu một quy phạm thiếu một trong các thành phần trên sẽ dẫn đến méo mó, q cụt. Ví dụ, nếu quyphạm thiếu phần giả định, thì chủ thể khơng thể biết trường hợp nào họ được làm
hoặc không được làm một hành động cụ thể. Nếu quy phạm thiếu phần chế tài thì chú thế có vi phạm thì cũng khơng thế xử lý được chủ thế và như vậy quy định cũngtrở nên vô nghĩa. Như vậy, khi quy định một nghĩa vụ nào đó cho chủ thể thì cần
phải quy định rõ chế tài. Nghĩa là nếu chủ thề không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì phải chịu chế tài. Đây là tính đầy đủ về mặt cấu trúc. Tính đầy đủ về cấu trúc
chưa đủ mà cịn phải có tính đầy đủ về mặt nội dung. Ví dụ, các quy định của pháp
luật về chuẩn bị xét xử so thẩm vụ án dân sự cần phải có đầy đủ nội dung về thờihạn chuẩn bị xét xử, các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, quyền và nghĩa vụ của các chủ thế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các chế tài cho trường hợp viphạm nghĩa vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc khuyết thiếu bất kỳ nội dung
nào cũng sẽ gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
<i><b>Ba là,</b></i> tính hợp lý của pháp luật cũng ảnh hường đến hiệu quả áp dụng. Ví
dụ, giả sử như pháp luật quy định Toà án phải cung cấp bản sao các chứng cứ, tài
liệu do một đương sự giao nộp cho các đương sự còn lại là một quy định bất hợp lý
gây gánh nặng cho cơng việc của Tồ án và tăng chi phí hoạt động của Tồ án. Quy định như vậy sẽ gây rất nhiều khó khăn cho Toà án. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự mang tính tự định đoạt của đương sự mà lại quy định buộc Toà án phải thuthập, xác minh chứng cứ cũng rất bất hợp lý và tạo gánh nặng cho Toà án.
<b>Thứ hai, </b>yếu tố nhân lực: Bên cạnh yếu tố pháp luật, yếu tố nhân lực đóng
vai trò rất quan trọng đến việc thực hiện các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bi xét xử sơ thấm vụ án dân sự. Các quy định của pháp luật dù thống nhất, hợp lý và đầy
đủ đến mấy mà nhân lực áp dụng yếu kém thì việc áp dụng cũng khơng tránh khỏisai sót. Vì vậy, một đội ngũ Thẩm phán và thư ký Toà án giỏi nghiệp vụ chunmơn, kinh nghiệm và kỹ năng tốt sẽ góp phần không nhỏ cho việc thực hiện các
hoạt động chuẩn bị xét xử hiệu quả, nhanh chóng và đúng luật. Ví dụ, nếu Thẩm
phán là người giỏi kiến thức pháp luật, am hiểu phong tục tập quán địa phương,
34
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hiểu thấu tâm lý của người địa phương,... sẽ có tỷ lệ thành cơng trong việc giúp các
bên hoà giải thành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự hơn cácThẩm phán thiếu am hiểu phong tục tập quán địa phương, hiểu thấu tâm lý của người địa phương,... Tương tự như vậy, nếu Thẩm phán, ngoài kiến thức pháp luật cịn có kinh nghiệm và am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn liên quan đến tranh chấp sẽ có những yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ xác đáng giúp các bên làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, ...
Ngược lại, nếu Thẩm phán yếu kém về chun mơn, có kỹ năng giao tiếp
kém, khả năng điều phối công việc thấp,... sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cơng tác
chuẩn bị xét xử. Bên cạnh Thẩm phán, thư kỷ Toà án là người giúp việc cho Thẩm
phán. Vì vậy, nếu thư ký Tồ án là người có năng lực chun mơn tốt, năng nồ, có trách nhiệm, nhạy bẹn trong cơng việc, kỹ năng giao tiếp tốt, am hiểu phong tục tập
quán địa phương, am hiểu ngành lĩnh vực liên quan đến tranh chấp, am hiểu tâm lý của các đương sự,... sẽ là trợ thủ đắc lực cho Thẩm phán trong việc thực hiện hiệu
quả, nhanh chóng và chính xác các hoạt động chuẩn bị xét xử.
<b>Thứ ba,</b> yếu tố cơ sở vật chất: yếu cơ sờ vật chất cũng có ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động chuấn bị xét xử. Việc thu thập chứng cứ, tài liệu ở khu vực
thành thị chắc chắn sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn so với việc thu thập chứng cứ tại khu vực miền núi, hải đảo. Bên cạnh đó, nếu trụ sở của Tồ án đủ rộng rài đế có thê chia thành nhiều phịng xử, nhiều phịng họp thì việc xếp lịch họp trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sẽ thuận lợi hơn và nhanh chóng hơn.
<b>Thứ tư,</b> yếu tố ý thức pháp luật cùa người dân: Cuối cùng, ý thức pháp luật của người dân cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử. Nếu đương sự là những người có hiểu biết pháp luật, có trinh độ nhận thức cao thì việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của họ trong giai đoạn chuấn bị xét xử sơ thấm vụ án dân sự sẽ hiệu quả hơn. Bản thân Toà án, Thẩm phán cũng gặp thuận lợi hơn khilàm việc với những đương sự có trình độ nhận thức cao. Ngược lại, nếu đương sự có trình độ nhận thức thấp, Thẩm phán và thư ký phiên toà phải rất vất vả để hướng dẫn họ thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình để bảo đảm tối đa quyền, lợi íchhợp pháp của họ.
35
</div>