Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.76 KB, 45 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Bài nghiên cứu gồm ba chương, theo cấu trúc đi từ lý luận đến thực tiễn và cuối cùng là đề xuất các giải pháp. Trước hết, đề tài tập trung nghiên cứu, nêu rõ vai trò, chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực y tế đối với đời sống của con người hiện nay. Tuy nhưng vấn đề cấp bách đang gặp phải đó là tình hình tự chủ của các BVCL được thí điểm tự chủ nhưng không đạt được kết quả khi Nhà nước giao quyền tự chủ cho BVCL trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tự chủ vẫn còn đang trong tình trạng “nửa vời”, tự chủ nhưng khơng được hồn tồn tự quyết. Mục tiêu của nhóm sau khi nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đang mắc phải trong thực thi quyền tự chủ, và từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn, góp phần hồn thiện hơn trong việc ban hành, thực thi tại các BVCL.
Phần mở đầu, đề tài giúp người đọc có cái nhìn tồn diện, tổng quát về tính cấp thiết đề tài, phương pháp, đối tượng cũng như tình hình nghiên cứu hiện nay về quyền tự chủ tại các BVCL.
Chương I: đề tài làm rõ về mặt lý luận – pháp lý về cơ chế tự chủ của BVCL thông qua các khái niệm, nêu rõ đặc điểm cơ bản của BVCL và cơ chế tự chủ của BVCL. So sánh BVCL với BV tư nhân nhằm làm nổi bật nên đặc trưng của BVCL hiện nay. Các nội dung cơ bản của cơ chế tự chủ bao gồm: tự chủ tài chính, tự chủ nhân sự và tự chủ về bộ máy quản lý. Tại chương này, người đọc sẽ khái quát được nội dung tự chủ đối với BVCL bao gồm những nội dung gì và chức năng của từng nội dung đó.
Chương II: đề tài đi vào đánh giá ưu điểm và nhược điểm của 2 nội dung. Đó là thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ của BVCL: tự chủ tài chính, tự chủ nhân sự và tự chủ bộ máy quản lý. Từ kết quả đánh giá, cho người đọc thấy được sự khả quan và cải thiện về mơ hình tự chủ hiện nay. Đồng thời, làm rõ nguyên nhân tại sao, 4 bệnh viện được thí điểm tự chủ lại đề xuất xin ngừng tự chủ.
Chương III: đề tài nêu lên quan điểm cơ bản và khuyến nghị để hàon thiện cơ chế tự chủ của BVCL. Quan điểm của nhóm cho rằng cơ chế tự chủ tại BVCL là mơ hình đúng đắn và cần tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, vì mơ hình này vừa có ưu điểm và tồn tại
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">nhiều nhược điểm, qua quá trình nghiên cứu, nhóm đề xuất một số biện pháp nhằm làm hoàn thiện hơn về cơ chế này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>TĨM TẮT CƠNG TRÌNH “CƠ CHẾ TỰ CHỦ CỦA BỆNH VIỆN CƠNG LẬP </b>
<b>TẠI VIỆT NAM” ... 3 </b>
<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 7 </b>
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP TẠI VIỆT NAM ... 7
<b>1.1. Khái niệm bệnh viện công lập và cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập .. 11 </b>
<b>1.1.1. Khái niệm bệnh viện công lập ... 11 </b>
<b>1.1.2. Cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập... 12 </b>
<b>1.2. Nội dung cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập ... 15 </b>
<b>2.2.1. Thực tiễn thực hiện tự chủ tài chính... 32 </b>
<b>2.2.2. Thực tiễn thực hiện tự chủ nhân sự ... 34 </b>
<b>2.2.3. Thực tiễn thực hiện tự chủ về bộ máy quản lý ... 35 </b>
CHƯƠNG III : QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP TẠI VIỆT NAM ... 38
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>3.1. Quan điểm cơ bản về cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam . 38 3.2. Khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam ... 38 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bệnh viện công lập... 38 3.2.2. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công ... 40 3.2.3. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động của các bệnh viện công lập ... 41 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Nghiên cứu về cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập ở Việt Nam hiện nay là vấn đề vô cùng cấp bách, xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, trên phương diện lý luận:
Trước hết, bệnh viện công lập có sứ mệnh quan trọng trong cung ứng dịch vụ y tế và đảm bảo sự phát triển toàn diện của con người. Đây là những tổ chức được Nhà nước thành lập, thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực y tế, góp phần đảm bảo quyền được khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, thể hiện rõ nét tính xã hội trong bản chất của nhà nước. Trong nền kinh tế đang phát triển, bệnh viện công lập là lựa chọn hàng đầu của đa số người dân có thu nhập thấp và trung bình. Do vậy, nếu khơng có một cơ chế phù hợp để các bệnh viện công lập tồn tại và hoạt động một cách hiệu quả sẽ không thể phát huy tốt vai trò quan trọng của chúng đối với việc đảm bảo cơng bằng xã hội, khó có thể tạo điều kiện cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng và thụ hưởng các thành tựu của y học hiện đại.
Hai là, thực hiện cơ chế tự chủ đối với BVCL là tất yếu khách quan trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước cả về tổ chức và hoạt động, các bệnh viện công lập cần được trao quyền tự chủ để có thể tự quyết định về chun mơn, nhân sự và tài chính, qua đó nâng cao tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Điều này không chỉ giảm áp lực cho ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự cạnh tranh sòng phẳng giữa các cơ sở y tế trong và ngồi cơng lập, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tạo động lực để các bệnh viện công lập phát triển tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của chúng.
Ba là xác lập và thực hiện cơ chế tự chủ của các bệnh viện cơng lập là hồn tồn phù hợp với xu hướng cải cách tài chính cơng ở Việt Nam hiện nay. Bởi trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tài chính cơng hướng đến việc giải phóng nguồn lực cơng. Thay vì chỉ dùng ngân sách nhà nước để trang trải, nhà nước cần huy động đa dạng các nguồn lực của xã hội trong quá trình cung ứng các dịch vụ công. Và đơn vị sự nghiệp công lập – những chủ thể trực tiếp cung ứng các dịch
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">vụ công thiết yếu, quan trọng cho xã hội cần phải được phát huy quyền tự chủ, mà trước hết là tự chủ về tài chính để có thể phục vụ xã hội một cách chủ động và hiệu quả mà không phải bị động làm theo “đặt hàng” của nhà nước.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn.
Các bệnh viện công lập ở Việt Nam đã và đang thực hiện cơ hế tự chủ ở những mức độ nhất định, với những thành quả đáng ghi nhận. Song, nhìn chung, pháp luật về cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập còn chưa đầy đủ, tương đối lạc hậu và thiếu. Các bệnh viện điợc giao quyền tự chủ nhưng khá nửa vời, không được tự quyết về giá viện phí, về cung cấp dụng cụ dùng trong hoạt động y tế, về mức lương cho nhân viên y tế và những khó khăn khác trong việc thu chi nguồn tài chính từ tiền khám, chữa bệnh của người dân, tổ chức bộ máy nhân sự của bệnh viện.
Thực trạng nói trên đã làm cho BVCL thực hiện cơ chế tự chủ khơng được như kỳ vọng. Thậm chí, có 4 BVCL lớn đã xin từ bỏ mức tự chủ cao nhất.
Từ tình hình đáng quan ngại nói trên, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài
<i><b>“Cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam” để tiếp tục nghiên cứu, với mong </b></i>
muốn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và pháp lý về cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập, chỉ ra nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập và đề xuất những giải pháp phù hợp góp phần hồn thiện chúng.
<b>2. Phương pháp nghiên cứu. </b>
Đề tài được triển khai dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Ngoài ra, để đạt mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp nghiên cứu lý thuyết kinh tế- luật, phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê.
Chương 1: sử dụng phương pháp lý thuyết kinh tế - luật và phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để nghiên cứu. Phương pháp kinh tế- luật cung cấp một lý thuyết khách quan và thực tế cho cơ chế tự chủ trong nền kinh tế thị trường. Phương pháp so sánh cho phép nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài để tham khảo cho Việt Nam.
Chương 2: sử dụng phương pháp tổng hợp , phân tích để thu thập kết quả đạt được khi thực hiện cơ chế tự chủ của BVCL tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, phân tích những bất cập và nguyên nhân của nó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>3. Đối tượng nghiên cứu </b>
Đề tài nghiên cứu cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập ở Việt Nam hiện nay, tập trung vào các nội dung: cơ sở lý luận, quy định pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nhóm nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh về cơ chế tự chủ của bệnh viện cơng lập tại Việt Nam, trong đó tập trung vào mức tự chủ cao nhất được thí điểm ở bốn bệnh viện thuộc Bộ Y tế
Về thời gian: kể từ thời điểm ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ của bệnh viện cơng lập đến Nghị quyết 33/2029/NQ-Cp thí điểm tự chủ toàn diện 4 bệnh viện thuộc Bộ Y tế.
Về không gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu về cơ chế tự chủ được áp dụng tại các bệnh viện công lập ở Việt Nam. Các thông tin về cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập ở nước ngoài được đề cập ở mức độ khiêm tốn, nhằm phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu với cơ chế tự chủ đã và đang được áp dụng ở các bệnh viện công lập ở Việt Nam
<b>4. Tình hình nghiên cứu </b>
<b>4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước </b>
Ở Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều nghiên cứu về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp cơng lập nói chung và BVCL nói riêng. Có thể kể tên một số cơng trình nổi bật sau:
<i>Đề tài “Dịch vụ cơng, đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay” </i>
của Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước thuộc Bộ Nội vụ thực hiện năm 2007. Cơng trình khái qt chung về dịch vụ công và xu hướng quản lý đối với dịch vụ cơng nước ta. Trong đó, các tác giả đã đưa ra một số nhận định khách quan về xu hướng quản lý tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập nói chung.
Sách “Dịch vụ cơng- Một số vấn đề lý luận, pháp lý và thưc tiễn” do Vũ Công Giao, Bùi Tiến Đạt, Nguyễn Thị Minh Hà đồng chủ biên, xuất bản năm 2020. Cơng trình đã đề cập những vấn đề mới và đương đại về dịch vụ công và quản lý dịch vụ công theo xu hướng tự chủ.
Báo cáo “Phân tích việc thực hiện chính sách tự chủ bệnh viện trên thế giới và thực tế ở Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới và Bộ Y tế Việt Nam phối hợp thực hiện năm 2011. Cơng trình đã tập trung nghiên cứu chính sách tự chủ của BVCL tại Việt
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Nam đến năm 2011 đồng thời đưa ra những kết luận có giá trị đối với việc thúc đẩy việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện cơng lập ở Việt Nam hiện nay.
Ngồi ra, còn nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề này dưới góc độ kinh tế, tài chính.
<b>4.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước. </b>
Từ những năm 1980 đã có khá nhiều nghiên cứu về quản lý đơn vị cơng theo xu hướng tự chủ nói chung và BVCL nói riêng ở các nước phát triển. Trong số đó, có thể kể đến:
Bài báo “Managerial autonomy of state-owned enterprises: determining factor” do S. Lioukas, D. Bourantas và V. Papadakis thực hiện năm 1993 nghiên cứu lý thuyết và tình hình thực hiện cơ chế tự chủ đối với đơn vị thuộc sở hữu nhà nước tại Hoa Kỳ
Sách “Public Manegement and Administraton, An Introuction” do Owen E.Hughes thực hiện năm 2003 nghiên cứu so sánh các lý thuyết và mơ hình quản trị trong khu vực công tại các nước châu Âu
Đề tài khoa học Asia Pacific Obervatory on Health Systems and Policies, công trình “Public Hospital Governance in Asia and Pacific, Conparative Country Studies” do Viện nghiên cứu Chính sách và Hệ thống y tế châu Á Thái Bình Dương thực hiện năm 2015, trong đó nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của cơ chế tự chủ đối với BVCL của Việt đến năm 2015.
Nhìn chung, các cơng trình đều nghiên cứu toàn diện các lý thuyết về quản lý theo cơ chế tự chủ của đơn vị cơng nói chung và BVCL nói riêng. Tuy nhiên, đây là các cơng trình đã được cơng bố khá lâu, vì vậy có nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nhưng chua được đề cập và nghiên cứu một cách kịp thời, sâu sắc,
<b>5. Bố cục đề tài </b>
Chương I: Cơ sở lý luận- pháp lý về cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam. Chương II:Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam.
Chương III: Quan điểm cơ bản và khuyến nghị hoàn thiện cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP TẠI VIỆT NAM </b>
<b>1.1. Khái niệm bệnh viện công lập và cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập 1.1.1. Khái niệm bệnh viện công lập </b>
Bệnh viện là cơ sở khám chữa bệnh, thực hiện chức năng chăm sóc sức khỏe. Căn cứ chế độ sở hữu, có thể chia bệnh viện thành hai loại: bệnh viện công lập và bệnh viện tư nhân. Trong đó,
bệnh viện cơng lập thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động dưới hình thức pháp lý là đơn vị sự nghiệp công lập, tức các đơn vị do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng, thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, phục vụ quản lý nhà nước.
Có thể định nghĩa về bệnh viện công lập như sau:
<i>Bệnh viện công lập là loại hình đơn vị sự nghiệp cơng lập do Nhà nước thành lập, thuộc sở hữu cùa Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực y tế, chuyên thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ sự nghiệp công về khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. </i>
Bệnh viện cơng lập có các đặc điểm cơ bản sau:
<i>Thứ nhất, bệnh viện công lập được thành lập bởi cơ quan nhà nước có thẩm </i>
quyền. Với các bệnh viện tuyến trung ương như Bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Việt Đức ở Hà Nội, bệnh viện Chợ Rẫy ở thành phố Hồ Chí Minh…, thẩm quyền thành lập thuộc về Bộ trưởng Bộ Y tế. Với các bệnh viện ở địa phương, thẩm quyền thành lập thường thuộc về Uỷ ban nhân dân các cấp. Đây là một trong những điểm khác biệt nổi bật giữa các bệnh viện công lập với các bệnh viện tư nhân – những cơ sở y tế hoạt động dưới hình thức pháp lý là các doanh nghiệp, thuộc sở hữu của cá nhân hay pháp nhân ngoài nhà nước, được đăng ký thành lập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật Doanh nghiệp .
<i>Thứ hai, bệnh viện công lập thực hiện chức năng khám chữa bệnh và chăm sóc </i>
sức khỏe cho nhân dân, cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực y tế khơng nhằm mục đích lợi nhuận. Trong khi đó, các bệnh viện tư nhân, với đặc thù hoạt động của một doanh nghiệp, ln tìm kiếm lợi nhuận khi cung cấp các dịch vụ y tế cho khách hàng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>Thứ ba, kinh phí của BVCL đến từ ngân sách nhà nước và phí dịch vụ sự nghiệp. </i>
Căn cứ NĐ 60/2021/NĐ-CP, dịch vụ sự nghiệp y tế thuộc một phần là dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước và một phần không sử dụng ngân sách nhà nước.
<i>Thứ tư, đội ngũ bác sĩ và nhân viên y tế sau khi được tuyển dụng sẽ thực hiện </i>
hoạt động nghề nghiệp tại các bệnh viện công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, quyền và nghĩa vụ của họ được điều chỉnh bởi pháp luật viên chức. Đây cũng là một trong những nét khác biệt cơ bản giữa bệnh viện công lập và bệnh viện tư nhân. Vì mặc dù cùng tiến hành các hoạt động nghề nghiệp, cung cấp các dịch vụ khám chữa bênh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân nhưng lực lượng bác sĩ và nhân viên y tế làm việc tại các bệnh viện ngồi cơng lập theo chế độ hợp đồng lao động, chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động.
<b>1.1.2. Cơ chế tự chủ của bệnh viện cơng lập </b>
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức nào về cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập trong các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới, khái niệm cơ chế tự chủ đã được tiếp cận tương đối cụ thể.
Theo Ngân hàng Thế giới, “Tự chủ hóa” hoặc “Doanh nghiệp hóa” là những cải cách nhằm đảm bảo cho các cơ quan cung ứng dịch vụ cơng có quyền tự chủ nhiều hơn và dựa vào những khuyến khích của thị trường để thúc đẩy việc cải thiện và phát triển các hoạt động của mình.
Quyền tự chủ của các đơn vị công để vừa tự chủ và tự chủ chịu trách nhiệm theo kinh nghiệm của Ấn Độ gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, xác định đúng chức năng và vai trị của đơn vị cơng.
Thứ hai, năng lực của đơn vị công phải phù hợp với chức năng của nó. Thứ ba, năng lực của cơ quan chủ quản phải được xác định phù hợp.
Thứ tư, hoạt động chuyên môn của đơn vị công phải độc lập với hoạt động hành chính- chính trị.
Thứ năm, đơn vị công phải tạo được lợi nhuận hợp lý và tái đầu tư đê mở rộng quy mô.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Thứ sáu, đơn vị công phải báo cáo thường xuyên về hoạt động cho cơ quan quản lý.<small>1</small>
Theo kinh nghiệm Hoa Kỳ, mơ hình SOEs (state-owned enterprise) về tự chủ được hiểu là tạo nên một pháp nhân độc lập, đặt các quyết định của đơn vị cơng ngồi hoạt đơng chính trị và hoạt động hành chính để khuyến khích năng suất của các đơn vị cơng và chính quyền<small>2</small>.
Thứ nhất, đánh giá về quyền lực là yếu tố quan trọng bởi vì vị trí quản lý của nhà nước. Weber trong đề tài đề suất hai mơ hình trong quản lý đơn vị công:
i. Nguyên tắc quyền uy- phục tùng (to command and duty to obey) ii. Nguyên tắc đơi bên cùng có lợi<small>3</small>
Trong đó, đơn vị cơng tự chủ và chính quyền cần tuân theo nguyên tắc đơi bên cùng có lợi.
Thứ hai, đánh giá về khía cạnh kinh tế liên quan đến hiệu quả kinh tế và kỹ thuật quản trị, áo dụng các quy tắc thương mại trong vận hành. Dưới nguyên tắc này, cơ quan nhà nước không trực tiếp tham gia vào hệ thống. Nhà nước quản lý trong trường hợp này bằng các nguyên tắc kinh tế đến quyết định của đơn vị công.
Kết quả thu được cho thấy tỉ lệ thuận giữa độ phụ thuộc của đơn vị công vào các nguồn lực quan trọng như tài chính, bổ nhiệm quản lý, và vào mức độ xã hội (đi ngược với quy tắc thương mại), định hướng sản phẩm và chiến lược cung ứng.<small>4</small>
Thuật ngữ "tự chủ" đề cập đến mức độ phân cấp trong việc ra quyết định cho nhiều lĩnh vực khác nhau, bao g ồm: quản lý mang tính chiến lược, tuyển dụng nhân lực, quản lý tài chính, quản lý nguồn nhân lực, điều hành hoạt động và quản lý chất lượng dịch vụ và tạo được lợi nhuận thông qua hoạt động sự nghiệp. BVCL tự chủ phải tuân theo các nguyên tắc thị trường và thương mại.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một định nghĩa chính thức về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và bệnh viện cơng lập nói riêng, mặc dù thuật
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">ngữ “cơ chế tự chủ” xuất hiện khá nhiều trong các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của nhà nước.
Nếu chiết tự thuật ngữ “cơ chế tự chủ”, có thể bắt gặp hai thành tố - “cơ chế” và “tự chủ”. Trong đó, tự chủ được hiểu là “tự điều hành, quản lí mọi cơng việc của
vận hành, biến hố của một hiện tượng.<small>5</small>
<i>Vậy nên, có quan điểm cho rằng: cơ chế tự chủ của BVCL về bản chất là một </i>
<i>hình thức phân cấp trong đó phân chia quyền lực và trách nhiệm về kinh tế và hành chính giữa cơ quan thành lập và đơn vị sự nghiệp công lập (BVCL). </i>
<i>Theo chúng tôi, cơ chế tự chủ của bệnh viện công lập là: tổng thể các quy định </i>
<i>về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cách thức tổ chức, vận hành bệnh viện công lập nhằm đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của họ. </i>
<i>Từ quan điểm khoa học có thể rút ra, cơ chế tự chủ của BVCL về bản chất là </i>
<i>một hình thức phân cấp trong đó phân chia quyền lực và trách nhiệm về kinh tế và hành chính giữa cơ quan thành lập và đơn vị sự nghiệp công lập (BVCL). </i>
Cơ chế tự chủ của BVCL có ý nghĩa quan trọng trong mối liên hệ với chức năng của nhà nước và quyền được chăm sóc sức khỏe của người dân. Trong chiến lược phát
<i>triển của ngành y tế giai đoạn 2011 - 2020, Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định: "Đổi </i>
<i>mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính theo hướng tự chủ, cơng khai, minh bạch. Mục đích cuối cùng của thực hiện cơ chế tự chủ đó là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân”. </i>
Thứ nhất, cơ chế tự chủ của BVCL quyết định khả năng tồn tại và phát triển của BVCL trong nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ kinh tế, dịch vụ y tế là loại hàng hóa và bệnh viện (cơng lập và tư nhân) là một chủ thể cung cấp hàng hóa. Kinh tế thị trường được Đảng và Nhà nước coi là công cụ để thực hiện “dân giàu, nước mạnh”. Để thực hiện chủ trương tách chức năng hành chính khỏi hoạt động chuyên môn, vận dụng các nguyên tắc kinh tế thị trường có vai trị quyết định sự tồn tại và phát triển của BVCL.
Thứ hai, cơ chế tự chủ của BVCL nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung và sức khỏe của người dân nói riêng. Trao nhiều quyền tự chủ để BVCL tăng hiệu quả của
<small>5 Tử điển tiếng Việt số, </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">BVCL. Kết quả tự chủ của đơn vị công tại Hoa Kỳ cho thấy mối liên hệ giữa hiệu quả hoạt động và khả năng tự chủ. Thứ nhất, hoạt động càng tốt thì càng tự chủ. Ngược lại, mức độ tự chủ càng cao thì hoạt động càng tốt.<small>6</small>
Thứ ba, cơ chế tự chủ của BVCL về mặt chính trị tạo sự tín nhiệm của người dân đối với nhà nước. Khả năng đáp ưng nhu cầu thiết yếu của người dân càng nhiều thì mức độ hài lịng và tín nhiệm của người dân đối với Nhà nước càng lớn. Từ đó, tạo cơ sở cho sự đồng thuận của người dân và thành công của phúc lợi nhà nước. Dịch vụ y tế công là một phần của nhà nước phúc lợi ở các phát triển và dân chủ.<small>7</small>
Thứ tư, cơ chế tự chủ của BVCL giúp giảm tải cho Nhà nước để tập trung vào các lĩnh vực mới và cần thiết khác. Tự chủ đơn vị sự nghiệp là cách để nhà nước khắc phục những thất bại của thị trường đối với một số lĩnh vực. Trong định hướng cải cách hành chính của Trung Quốc khi đổi mới hệ thống các đơn vị sự nghiệp là tách hệ thống đơn vị sự nghiệp ra khỏi cơ quan hành chính và phân biệt quản lý giữa cơ quan hành chính và đơn vụ sự nghiệp.Vận dựng kinh tế thị trường thành công đối với cung ứng hàng hóa có nhiều lợi ích: “Hàng hóa được phân bố cơng bằng; Hàng hóa được phân bố hiệu quả; Năng suất sản xuất đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng”<small>8</small>. Kết hợp quản lý nhà nước hợp lý và nguyên tắc thị trường phù hợp để dần dần xã hội hóa hoạt động y tế phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nước.
Như vậy, tự chủ của đơn vị sự nghiệp cơng lập nói chung và của BVCL nói riêng là xu thế của thế giới trong chuyển đổi nền hành chính nhà nước để tăng cường hiệu quả và phúc lợi cho người dân.
<b>1.2. Nội dung cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập 1.2.1. Tự chủ tài chính </b>
Tự chủ tài chính là một nội dung trong cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp nói chung và bệnh viện cơng lập nói riêng. Việc thực hiện tự chủ ln gắn liền với quản lý tài chính là việc quản lý toàn bộ các nguồn vốn (vốn do ngân sách của chính phủ cấp, vốn viện trợ, vốn vay và các nguồn vốn khác), tài sản, vật tư của bệnh viện để phục vụ nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
<small>6 S. LIOUKAS, D. BOURANTAS AND V. PAPADAKIS, tlđd, trang 660. </small>
<small>7 T. Eikemo, C. Bambra, The welfare state: A glossary for public health, Journal of Epidemiology and Community Health, Vol 62, Issue 1, 2007. </small>
<small>8 N. Gregory Mankiw, Khoa Kinh tế trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh dịch , Kinh tế học vĩ mô, Nxb Hồng đức, năm </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp nói chung và của bệnh viện cơng lập nói riêng là tập trung vào mức độ tìm kiếm nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động của mình.
“Nguồn tài chính của BVCL bao gồm nguồn ngân sách; nguồn thu sự nghiệp; nguồn thu phí được để lại đơn vị sự nghiệp công để chi theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; nguồn vốn vay; vốn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật<small>9</small>; nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có)<small>10</small>.” Khái quát chung, nguồn tài chính của BVCL bao gồm nguồn thu tự chủ và nguồn ngân sách nhà nước. Trong đó, tỉ trọng nguồn thu sự nghiệp chiếm đa số trong nguồn tài chính tự chủ của BVCL.
Như vậy, tự chủ tài chính được định nghĩa đầy đủ là khả năng tìm kiếm, quản lý và sử dụng nguồn tài chính của BVCL sao cho tỉ lệ nguồn tài chính tự chủ lớn hơn nguồn ngân sách nhà nước. Công thức khái qt hóa:
Chi phí cấu thành giá DVYT là tồn bộ các khoản chi phí mà bệnh viện phải bỏ ra để hoàn thành việc cung cấp một hay một số danh mục kỹ thuật DVYT cho người sử dụng DVYT<small>11</small>. Đối chiếu với 4 mức độ tự chủ thì hai mức độ tự chủ cao nhất khơng nhận được nguồn ngân sách từ chủ sở hữu có thể xảy ra ba trường hợp:
Giá DVYT - chi phí sản xuất > 0 (1); BVCL có lợi nhuận và BVCL có khả năng tự phát triển dựa trên nguồn thu tự chủ.
Giá DVYT - chi phí sản xuất < 0 (2); BVCL không đủ để bù đắp chi phí. Giá DVYT - chi phí sản xuất = 0 (3); BVCL khơng có lợi nhuận, chỉ đủ bù đắp chi phí, khả năng phát triển phụ thuộc vào nguồn thu ngân sách.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Giá của dịch vụ y tế phải thỏa mãn hai điều điện đó là đảm bảo cho bệnh viện công lập bù đắp được chi phí sản xuất, ngồi ra cịn phải có được nguồn đầu tư, phát triển và người tiêu thụ phải có được mức giá chấp nhận được.
Đối với dịch vụ y tế, để xác định giá theo giá thị trường thì bệnh viện cơng lập cũng phải cạnh tranh công bằng với tất cả các nhà cung ứng dịch vụ khác trên thị trường. Giá thị trường có thể bị tác động bởi những yếu tố như lượng cung, lượng cầu, chính sách pháp luật nhưng khơng thể được xác định ngoài lực cung và lực cầu.
Như vậy, cơ sở của tự chủ tài chính của BVCL gắn liền với xác định chi phí sản xuất dịch vụ y tế và giá DVYT sao cho nguồn thu tự chủ chiếm đa số và tiến tới không phụ thuộc nguồn thu ngân sách. Tương xứng vơi mỗi mức độ tự chủ đó là quyền xác định mức giá dịch vụ khác nhau, trong đó tính tự chủ tăng dần từ giá thị trường; giá tính đủ và giá chưa tính đủ.<small>12</small>
Nội dung của tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp cơng lập được tự chủ tài chính hay nói cách khác là có quyền sở hữu tài sản (bao gồm chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) trong các vấn đề nhất định được quy định bao gồm:
Thứ nhất, tự chủ tự chịu trách nhiệm về giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Đây là nội dung quan trọng nhất đặt cơ sở cho các nội dung còn lại. Chỉ khi tạo được nguồn thu tự chủ thì mới có khả năng chi trả và đầu tư phù hợp.
Thứ hai, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phân loại mức độ tự chủ tài chính; Đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính được trao quyền nhiều hơn trong các lĩnh khác. Do đó, tự xác định mức độ tự chủ tài chính để có cơ chế thuận lợn nhưng BVCL phải tự chịu rủi ro trê quyết định của mình.
Thứ ba, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng nguồn tài chính. Đảm bảo nguồn tài chính và sử dụng hợp lý nguồn tài chính là hai vấn đề gắn liền trong quản lý tài chính của BVCL. BVCL phải sử dụng phù hợp và có trách nhiệm giải trình minh bạch về chi tiêu của mình.
Thứ tư, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý và sử dụng tài sản. Tài sản của BVCL là tài sản cơng, được sử dụng vì hoạt động của BVCL. Trao quyền tự chủ, tự tạo nguồn thu gắn liền với kiểm soát của Nhà nước đối với sử dụng tài sản thông qua các biện pháp về tổ chức bộ máy.
<small>12 Điều 9 NĐ 60/2021/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Thứ năm, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động liên doanh, liên kết;<small>13</small>
Căn cứ vào tỉ trọng nguồn thu tài chính của đơn vị sự nghiệp cơng lập mà mức độ tự chủ của mỗi nhóm là khác nhau. Nguồn thu sự nghiệp càng cao; mức giá được xác định theo cơ chế thị trường và ít phụ thuộc vào ngân sách nhà nước thì mức độ tự chủ càng cao. Có bốn mức độ tự chủ của đơn vị sự nghiệp bao gồm
(I) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (đơn vị nhóm 1). Đặc điểm là khơng sử dụng ngân sách nhà nước, giá dịch vụ sự nghiệp xác định theo cơ chế thị trường<small>14</small>. Kết quả có lợi nhuận.
(II) Đơn vị sự nghiệp cơng tự bảo đảm chi thường xun (đơn vị nhóm 2)<small>15</small>
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước, được nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp<small>16</small>. Giá dịch vụ theo giá tính đủ chi phí. Kết quả khơng có lợi nhuận.
(III) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (đơn vị nhóm 3).
(IV) Đơn vị sự nghiệp cơng khơng có nguồn thu sự nghiệp.
Đối với mức độ tự chủ nhóm 3 và nhóm 4 phụ thuộc nhiều vào nguồn tài chính của nhà nước. Nhóm tự chủ 1 và 2 đã đảm bảo được nguồn thu và có khả năng tạo ra lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng quy mô, chất lượng của dịch vụ y tế.
Tự chủ về tài chính giữ vài trị quyết định tới các vấn đề cịn lại được phân tích. Hệ số K càng lớn thì quyền tự chủ càng mạnh.
<b>1.2.2. Tự chủ về nhân sự </b>
Nhân tố con người quyết định sự thành công trong chiến lược phát triển hơn bất cứ cơ chế nào. Bởi vì con người học cách xác định vấn đề quản lý và định hình chiến lược. Do đó, phải tập trung phát triển nguồn nhân lực là chìa khóa trong chiến lược quản lý. <small>17</small>
Tự chủ nhân sự là một nội dung của cơ chế tự chủ nên có bản chất tương tự. Tự chủ nhân sự là một hình thức phân quyền cho BVCL được quyết định và chịu trách
<small>13 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định về phân loại mức tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công.</small>
<small>14 Quy định mới về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (daklak.gov.vn) </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">nhiệm trong vấn đề nhân sự của mình. Những vấn đề bao gồm quy định vị trí việc làm; số lượng làm việc và mức lương của người làm việc để nhân sự làm việc hiệu quả.
Tự chủ về nhân sự có mối quan hệ mật thiết với khả năng tự chủ tài chính của bệnh viện công lập.
Thứ nhất, mức độ tự chủ tài chính của BVCL quyết định “lượng” quyền được phân cấp trong quản lý và sử dụng nhân sự. BVCL là đơn vị sự nghiệp, người lao động theo chế độ viên chức nên cơ quan hành chính về quản lý nhân lực cùng BVCL chia sẻ thẩm quyền trong quản lý nhân sự. Hệ số tự chủ K càng lớn thì BVCL có quyền tự quyết càng lớn.
Thứ hai, hiệu quả cung cấp dịch vụ sự nghiệp làm tăng khả năng tự chủ về nhân sự và ngược lại. Nguồn thu tự chủ có tỉ trọng chủ yếu đến từ hoạt động cung ứng DVYT, do đó BVCL có chất lượng tốt và tạo được lợi nhuận được chủ động trong xây dựng, mở rộng quy mô. Lý thuyết mức lương trên cân bằng cho rằng cho rằng một doanh nghiệp có khả năng tạo ra lợi nhuận để trả lương cao hơn bởi vì như vậy sẽ làm tăng năng suất của người lao động.<small>18</small> Năng suất lao động cao sẽ cho nguồn thu cao và do đó cũng tác động ngược lại đến khả năng chi trả của đơn vị đó.
Thứ ba, điều tiết chậm trong xây dựng lương và cơ sở tính lương của Nhà nước giới hạn khả năng tự chủ nói chung, tự chủ nhân sự nói riêng của BVCL. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy sự kiểm soát tiền tệ dai dẳng đã tạo nên nhiều sự bóp méo giá cả trong hệ thống y tế Trung Quốc và tăng tiền lương cho khu vực y tế làm giảm động cơ kê đơn quá mức và tăng động cơ nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ y tế.<small>19</small>
Thứ tư, cơ sở tính lương thúc đẩy đến động cơ người lao động và thu hút nhân sự. Cơ sở tính lương của cơ quan hành chính khơng tạo được động lực dài hạn cho phát triển nhân lực đủ để BVCL tạo ra nội lực cho tự chủ. Trường hợp chính phủ Trng Quốc, mặc dù đã thi hành chinh sách tăng tổng mức tiền lương, nghĩa là lương của viên chức y tế được cải thiện nhưng vẫn giữ nguyên hệ thống tính lương cũ. Mặc dù tăng tổng mức tiền lương cho các đơn vị y tế là một chính sách hiệu quả để giải quyết nguồn cung lao động thiếu thốn ở Trung Quốc. Nhưng bởi vì lương của đơn vị sự nghiệp y tế bị quy
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">định bởi chính phủ, được trả dựa trên bảng làm việc tiêu chuẩn, do đó lượng cung lao động không phản ứng đối với tổng lương.
Biên chế là hình thức sử dụng lao động được áp dụng đối với công chức. Đặc trưng của biên chế là thời hạn lao động suốt đời và nguồn lương của người lao động trong biên chế là từ ngân sách nhà nước. Điểm hấp dẫn của biên chế không phải là lương. Mức lương của công chức trong biên chế nhà nước căn cứ và ngạch, bậc và được tăng định kỳ. Lương vì vậy khơng có sự thỏa thuận và khơn có sự đột phá, mang tính chất cào bằng giữa những lao động khác nhau. Nhưng những chế độ khác như lương hưu, chế độ bảo hiểm,… thu hút người lao động làm việc trong biên chế.
Nội dung của tự chủ về nhân sự tập trung vào quyết định vị trí việc làm, chê độ lương và hình thức làm việc.
Thứ nhất, quyền tự chủ xây dựng cơ cấu việc làm tỉ lệ thuận với khả năng tự chủ tài chính. BVCL tự chủ tài chính mạnh được phân cấp trọn vẹn trong quyết định vị trí việc làm, khả năng đảm bảo tài chính càng ít thì quyết định của BVCL phải chia sẻ với cơ quan hành chính quản lý về người lao động trong đơn sự nghiệp. Vị trí việc làm là căn cứ xác định số người làm việc.
Thứ hai, quyền thỏa thuận hợp đồng. Viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc<small>20</small>. Những vấn đề về vị trí việc làm, lương, phúc lợi đều được thể hiện linh hoạt trong hợp đồng. Mức tự chủ cao cho phép BVCL có khả năng đưa ra nhiều lựa chọn để thu hút nhân lực.
Thứ ba, quyền tự chủ xây dựng bảng lương và cơ sở tính lương.
Nguồn trả lương cho viên chức bao gồm: nguồn ngân sách nhà nước, nguồn thu sự nghiệp và các nguồn khác được tạo lập<small>21</small>.Mức độ tự chủ càng cao thì nguồn ngân sách ngân sách càng ít, nguồn lương cho viên chức khi tiến dần tới tự chủ toàn diện thì hồn tồn phụ thuộc vào nguồn thu sự nghiệp.
Có hai cơ sở tính lương phổ biến trong khu vực cơng là tính lương theo hệ số và tính lương theo khối lượng cơng việc.
Thứ nhất, tính lương theo hệ số là tính theo chức danh nghề nghiệp, cơ sở tính lương là thâm niên và bằng cấp; hệ thống thang bảng lương không gắn kết được việc trả
<small>20 Viên chức có được ký hợp đồng lao động với cơng ty khác không? (hanam.gov.vn) </small>
<small>21 PGS.TS. Lê Thị Thanh, Bàn về cải cách pháp luật tiền lương cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam hiện nay, Nhà nước và pháp luật số 1/2013, tr41. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">lương với trị trí cơng việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ, không tạo ra sự khác biệt trong cơ chế trả lương cho người thực hiện các loại công việc khác nhau.<small>22</small> Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy hệ số lương khơng hiệu quả để người lao động có động cơ làm việc. Tại Trung Quốc, mức lương được kiểm sốt chặt chẽ bởi quy định của chính phủ dựa trên số giờ làm việc là 40 giờ một tuần. Khảo sát cho thấy, 55% những người làm viêc một tuần 40 giờ nhưng không phản ánh được hiệu quả cơng việc thực chất<small>23</small>
Thứ hai, tính lương khối lượng cơng việc là hình thức trả lương căn cứ trên số lượng sản phẩm hoặc cơng việc đã hồn thành. Lượng cơng việc hồn thành càng nhiều thì mức lương càng cao. Điều đó là động lực cho người lao động làm việc hiệu quả và năng suất. Khuyến khích người có khả năng tham gia vào quan hệ lao động.
Để tạo động lực cho tự chủ và duy trì cơ chế tự chủ thì tính lương theo khối lượng công việc là cơ sở tiệm cận hơn với quy tắc thị trường. Tiền lương liên quan đến thu nhập, mức sống, khả năng tái sản xuất sức lao động của người lao động và là nhân tố quan trọng cho sự thành công hay thất bại trong sản xuất của người sử dụng lao động<small>24</small>. Thay đổi cơ sở tính lương tác động đến tăng tổng nguồn thu sự nghiệp do đó anh hưởng đến hệ số tự chủ K. Tăng hệ số K lớn hơn. Có thể nói, chính sách lương của viên chức là động lực cơ bản để tăng nội lực tự chủ <small>25</small>.
<b>1.2.3. Tự chủ về bộ máy quản lý </b>
Tự chủ bộ máy quản lý là những biện pháp tổ chức bộ máy quản lý để BVCL thực hiện nhiệm vụ hiệu quả và độc lập với cơ quan hành chính chủ quản trong quản trị nội bộ.
Nghiên cứu so sánh với pháp luật về công ty, cấu trúc bộ máy quản lý được thiết kế để công ty có thể trở thành một cơng cụ thu hút vốn đầu tư hiệu quả từ cơng chúng<small>26</small>. Tính hồn thiện của pháp luật về công ty tỉ lệ thuận với khả năng hoạt động hiệu quả của nó. Hệ quả là làm tăng lợi nhuận và thu hút vốn đầu tư vào một mơi trường kinh doanh có quy chế pháp lý an toàn và hiệu quả.
<small>24 Cải cách tiền lương tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP (soctrang.gov.vn) </small>
<small>25 Cải cách tiền lương tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP (soctrang.gov.vn). </small>
<small>26 Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Trường ĐH Luật TPHCM, Nxb Hồng Đức, năm 2022, trang 321, </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">BVCL chuyển đổi từ chủ thể mang tính hành chính sang chủ thể cung cấp dịch vụ mang tính thị trường nên phải tiếp nhận những nguyên tắc quản trị hiện đại. Bước đầu là nâng cao hoạt động tự chủ, kiểm sốt tốt; sau đó có thể thu hút đầu tư sinh lợi.
Quản trị cơng ty có nguồn gốc từ lâu, đã được định hình và phát triển. Thực tiễn hoạt động cũng chứng minh các mơ hình đó hoạt động ổn định và mang lại hiệu quả.
Tựu trung lại, ta có thể nhận dạng hai cấu trúc tổ chức quản lý công ty tiêu biểu đó là cấu trúc một hội đồng (unity board structure) ở nhiều quốc gia thuộc hệ luật Anh- Mỹ và cấu trúc hai hội đồng (two tier system) được xây dựng, duy trì và phát triển một cách có truyền thống ở Đức và được một số nước châu Âu tiếp nhận.<small>27</small>
<small>Cấu trúc một hội đồng Cấu trúc hai hội đồng Cơ quan quản lý Cơ quan quản lý giữ vai trị kiểm </small>
<small>sốt nội bộ. </small>
<small>Chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý. </small>
<small>thiệp đối với các cơ quan quản lý. </small>
Hai mơ hình quản trị cơng ty khác nhau về hình thức kiểm sốt nội bộ.
Một là, cấu trúc một hội đồng có hình thức tự kiểm sốt. Cơ quan quản lý giữ ln vai trị kiểm sốt mà khơng có cơ quan kiểm sốt độc lập.
Hai là mơ hình hai hội đồng tách chức năng kiểm soát ra khỏi cơ quan quản lý và có thẩm quyền can thiệp vào hoạt động của cơ quan quản lý nếu cần thiết.
Điểm chung của chúng là đều tách bộ máy quản lý ra khỏi chủ sở hữu. Chủ sở hữu có quyền quyết định những mục tiêu, kế hoạch, quyết sách lơn tuy nhiên nhiệm vụ điều hành, quản lý thuộc về bộ máy quản lý chuyên nghiệp. Bộ máy quản lý được quyền tự chủ trong hoạt động nghiệp vụ nhưng phải chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu.
Tổ chức bộ máy quản lý từ vĩ mô là quản lý nhà nước đến vi mô là quản lý nội bộ đều tập trung vào vấn đề chính là quan hệ giữa chủ sở hữu và bộ máy thi hành- quan hệ theo chiều dọc và quan hệ trong bộ máy thi hành- quan hệ chiều ngang. Trong BVCL là mối quan hệ giữa đơn vị chủ quản – BVCL (chiều dọc) và mối quan hệ quản trị nội bộ (chiều ngang).
Bozeman and Straussman cho rằng có ba yếu tố chính để tiếp cận chiến lược phát triển đó là xác định mục tiêu và đối tượng; phát triển kế hoạch hành động cân bằng giữa tổ chức và môi trường và thiết kế phương pháp tiến hành hiệu quả.<small> 28</small>
<small>27 Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, trnag 322, Trường ĐH Luật TPHCM </small>
<small>28</small><i><small> Hughes, Owen E. Tlđd. Tr 146 </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Có hai nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược hoạt động của chủ thể cơng là đề ra mục đích, phát triển kế hoạch hành động và thiết kế phương pháp thi hành hiệu quả<small>29</small>. Chiến lược quản lý bao gồm hai mặt đó là chiến lược thực thi và chiến lược kiểm soát. Hai nhiệm vụ này được trao cho hai cơ quan là cơ quan thực thi và cơ quan kiểm sốt trong mơ hình hai hội đồng.
Ở Đức các công ty lớn theo mô hình hai hội đồng bao gồm hội đồng quản lý (management board) và hội đồng giám sát (supperior board)<small>30</small>
Hội đồng giám sát có ba chức năng.
Thứ nhất, hội đồng giám sát hoạt động như một ủy ban để đánh giá hoạt động của hội đồng quản lý tiếp nhận đánh giá và ý kiến thường xuyên sẽ tăng chất lượng quản lý của hội đồng quản lý.
Thứ hai, hội đồng giám sát xem xét lại các quyết định quan trọng của hội đồng quản lý. Hội đồng quản lý phải chịu trách nhiệm giải trình trước hội đồng giám sát nếu không họ sẽ bị đánh giá bất tín nhiệm..
Thứ ba, quan trọng nhất, hội đồng giám sát có chức năng thúc đẩy chất lượng của hội đồng quản lý, đặc biệt là chủ tịch hội đồng.<small>31</small>
Trong mơ hình hai hội đồng, hội đồng quản lý bao gồm ba đến năm thành viên, nhiệm kỳ bổ nhiệm là 4 năm bởi hội đồng giám sát. Hội đồng giám sát bao gồm 3 đến 24 thành viên được chỉ định bởi cổ đông. Hội đồng giám sát họp thường xuyên mà chỉ họp 3 đến 4 lần một năm và gửi báo cáo hoạt động của hội đồng quản lý cho cổ đơng
“Mơ hình hai hội đồng được đánh giá cao trong các công ty lớn. Aste (1999) tóm tắt những điểm mạnh của mơ hình hai hội đồng.”
Thứ nhất, tính chịu trách nhiệm cao và rõ ràng giữa hội đồng quản lý và hội đồng giám sát.
Thứ hai, quy mô nhỏ gọn của các giám độc (3 đến 5 thành viên) cho phép ra quyết định nhanh.
Thứ ba, mơ hình hai hội đồng giúp những ứng viên mới thăng tiến tạo tính đa dạng và mới mẻ trong cơ cấu quản lý.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Tuy nhiên, mô hình hai hội đồng cũng có mặt trái do phải chi tiêu nhiều hơn cho cơ cấu quản lý nhìn chung có phần nặng nề và phức tạp hơn so với mơ hình đơn nhất.
“Pháp luật của Pháp cho phép công ty lựa chọn hai kiểu cấu trúc công ty thứ nhất bao gồm chủ tịch và giám đốc điều hành; thứ hai là mơ hình hai hội đồng hội đồng giám sát, hội đồng quản lý.”<small>32</small> Vai trò của hội đồng giám sát là theo dõi và đánh giá hoạt động của hội đồng quản lý mỗi ngày. “Thực tế, nhiều công ty ở Pháp lựa chọn mô hình một hội đồng (cấu trúc cơng ty thứ nhất). Tuy nhiên, các cơng ty lớn thường thích mơ hình hai hội đồng hơn.<small>33</small>”
Trong mơ hình một hội đồng, hội đồng quản lý có ít nhất 3 thành viên và nhiều nhất 24 thành viên bao gồm thường trực và không thường trực.Hội đồng quản lý bầu ra một PDG đảm nhận cả hai chức vụ chủ tịch hội đồng và giám đốc điều hành. Mặc dù luật yêu cầu các cổ đông chỉ định thành viên của hội đồng quản lý nhưng trong thực tế PDG lựa chọn thành viên để cổ đông phê chuẩn trong phiên họp thường xun. <small>34</small>
Mơ hình một thành viên tạo sự gọn nhẹ, thống nhất trong quản lý. Việc cho phép người đứng đầu hội đồng thành viên được lựa chọn thành viên tạo thế chủ động cho người đứng đầu thành lập đội ngũ phù hợp với phong cách làm việc của mình.
Một mơ hình thứ ba được sử dụng trong quản trị đó là mơ hình hai hội đồng không thuần túy (semi- two- tier board) được sử dụng trong Luật Công ty Đan Mạch
Lý thuyết về ban quản lý. Đặc điểm của mơ hình này tương tự như mơ hình hai hội đồng được sử dụng tại theo dịng họ mơ hình Pháp- Đức. Điểm khác biệt là thành viên hội đồng quản lý có thể đảm nhận một nửa số ghế trong hội đồng giám sát, trong khi trong dịng họ mơ hình Pháp- Đức thì khơng.
Điểm mạnh của kiểu mơ hình thứ ba đó là hội đồng giám sát có nhiều quyền lực hơn và hội đồng quản lý phải chịu trách nhiệm nhiều hơn trước hội đồng giám sát. Hội đồng giám sát khơng chỉ có nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt động hoặc đưa ý kiến mà cịn có khả năng can thiệp trực tiếp vào công việc của hội đồng quản lý. “Hệ quả là hội
<small>32 Millet-Reyes, B., & Zhao, R. (2010). A Comparison Between One-Tier and Two-Tier Board Structures in France. Journal of International Financial Management & Accounting, 21(3), 279–310. doi:10.1111/j.1467-646x.2010.01042.x </small>
<small>33 Millet-Reyes, B., & Zhao, R. (2010). Tlđd </small>
<small>34 Millet-Reyes, B., & Zhao, R. (2010). Tlđd </small>
</div>