Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.97 MB, 192 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Chuyên ngành : Lý luận nhà nước và pháp quyềnMã số : 5.05.01 [ Tgườ sik Ee
<small>mm. mien Ue |</small><sub>LTH 1 -= ...:</sub><small>19.16 an... ^^...</small>
Người hướng dân khoa học: PGS.TS Lê Minh Tâm
<small>TS Bùi Xuân Đức</small>
HÀ NỘI - 2002
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>lơi xin cam đoan đây là cơng trình</small>
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêutrong luận án là trung thực. Những kết luậnkhoa học của luận án chưa từng được aicơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TAC GIA LUẬN AN
Nguyễn Quốc Hoan
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cơ chế điều chỉnh
CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật
<small>Việt Nam</small>
Những ngun tắc cơ bản của q trình hồn thiện cơ chếđiều chính pháp luật Việt Nam
Phương hướng và giải pháp chủ yếu để hồn thiện cơ chế
điều chính pháp luật Việt NamKẾT LUẬN
NHỮNG CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC
<small>18]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới tồn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏichúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, trong đó hồn thiện cơ chếđiều chính pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản, bức xúc. Hơn một thậpky vừa qua, những bat cập trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện va bảovệ pháp luật đã từng bước được khắc phục, cơ chế điều chỉnh pháp luật đượcđổi mới một bước quan trọng đã và đang phát huy tác dụng góp phần đảm bảoan ninh, chính tri, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay cơ chế điều chỉnh pháp luật ở nướcta vẫn còn nhiều nhược điểm, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc đangđặt ra trong công cuộc đổi mới, các giải pháp mà chúng ta đã thực hiện cònthiếu đồng bộ, tản mạn, chắp vá và nhiều khi chỉ mang tính tình thế. Hệ thốngpháp luật chưa hồn thiện, tình trạng pháp luật vừa thiếu lại vừa thừa, nhữngmâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật vẫn cịn khá phổbiến; cơng tác tổ chức thực hiện pháp luật khơng đồng bộ dẫn đến tình trạngpháp luật không được thực thi, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban
<small>hành không phát huy được hiệu lực trên thực tế... hiệu quả pháp luật không cao.Sở dĩ có tình trạng đó là do chúng ta chưa có được cơ sở khoa học toàn diện,</small>
đầy đủ và thống nhất cho việc tổng kết, đánh giá thực tiễn pháp lý và xây dựngphương hướng, giải pháp đồng bộ để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiệnđại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước trở thành một nướccông nghiệp; mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương, chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thì địi hỏi cơ chế điều chính phápluật của nước ta phải có bước phát triển tương xứng. Vì vậy, cần phải có
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>Bên cạnh đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán</small>
và lâu dài chính sách phát triển nên kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vậnđộng theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xãhội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chunghĩa" [24, tr. 86] trong điều kiện mà nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển,
<small>cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, mô hình kinh tế mà chúng ta chủ trương xây</small>
dựng chưa có một tiền lệ trong lịch sử. Hơn nữa, kinh tế thị trường ngoài việctạo ra động lực mạnh mẽ cho việc phát triển kinh tế - xã hội thì nó cũng có sự
<small>tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội. Những tác động tiêu cực đó nếu</small>
khơng được hạn chế thì có thể sé dan đến những hậu quả khó lường. Vì vậy,
<small>việc xây dựng và hồn thiện cơ chế điều chính pháp luật thích hợp vừa pháthuy được những nhân tố tích cực của cơ chế kinh tế thị trường trong việc thúc</small>
day sự phát triển của nền sản xuất xã hội, đồng thời hạn chế tối đa những tác
<small>động tiêu cực của nó đối với xã hội là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp.</small>
Để thực hiện có kết quả những nhiệm vụ đó địi hỏi phải có sự nghiên cứu củacác ngành khoa học khác nhau nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ sở khoa họccho việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Trong đó, khoa học pháp lý phải xâydựng cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.
Những vấn đề nêu trên cho thấy sự cần thiết phải triển khai nghiên cứu
một cách toàn diện vấn đề cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam, làm sáng tỏnhững vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luật, xây dựng cơ sở khoa họccho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của cơ chế điều chỉnh pháp luật
đang đặt ra ở Việt Nam, đồng thời tổng kết, đánh giá quá trình phát triển và
thực trạng của cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ranhững phương hướng và giải pháp để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>2. Tình hình nghiên cứu đề tài</small>
<small>Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một vấn đề rất phức tạp đã được nhiều</small>
<small>luật gia nước ngoài quan tâm nghiên cứu, nhất là các luật gia của các nước xãhội chủ nghĩa, đặc biệt là ở Liên Xô trước đây như A. V. Malko; L. S. Iavich,S. S Alecxeev; V. P. Kazimirchuc, V. M. Gorshenev, C. A. Komarov, V. V. Lazareva,</small>
<small>N. I. Matuzova, V. N. Khropanhiuc... Những cơng trình khoa hoc của các tác</small>
giả này đã đề cập đến nhiều vấn đề của cơ chế điều chỉnh pháp luật như vị trí
<small>và vai trị của các thành tố trong cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng như những</small>
đặc điểm của cơ chế điều chỉnh pháp luật ở một số lĩnh vực pháp luật cụ thểnhưng nhiều điểm chưa thống nhất với nhau.
<small>Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu một cách toàn diện vềpháp luật Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến ở những mức độvà phạm vi khác nhau. Trong giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật ở bậc</small>
<small>đại học và sau đại học của các cơ sở đào tạo luật cũng như các cơng trình khoa</small>
<small>học trên các tạp chí chuyên ngành đã đề cập những vấn đề về điều chỉnh phápluật và cơ chế điều chỉnh pháp luật ở cả phương diện lý luận và thực tiễn. Có</small>
thể kể đến các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như Đào Trí Úc, Lê Minh
<small>Tâm, Lê Minh Thơng, Lê Hồng Hạnh, Trần Ngọc Đường, Hồng Phước Hiệp,Lê Xuân Thảo, Nguyễn Minh Man...</small>
<small>Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật Việt Nam có hai cơngtrình khoa học đáng chú ý, trực tiếp nghiên cứu về cơ chế điều chỉnh pháp luậtViệt Nam là: "Co chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp</small>
nước ngoài tại Việt Nam" của tác giả Hoàng Phước Hiệp và “Đổi mới và hoàn
<small>thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thitrường ở Việt Nam” của tác giả Lê Xn Thảo. Tuy nhiên, các cơng trình này</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">điều chỉnh pháp luật vì thế cịn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để.
<small>Như vậy, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một</small>
cách cơ bản, tồn điện và có hệ thống về cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
e Mục đích nghiên cứu của luận án
<small>Lam sáng tỏ những vấn dé lý luận co bản về cơ chế điều chỉnh phápluật dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, từ đó xây dựng cơ sở khoahọc cho việc đánh giá thực tiễn cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam và xây</small>
dựng những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp
<small>luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.</small>
e Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích một cách tương đối toàn diện các quan điểm khác nhau vềnhững vấn đề cơ bản của cơ chế điều chỉnh pháp luật để xây dựng khái niệmhoàn chỉnh về cơ chế điều chỉnh pháp luật; xác định rõ vi trí, chức năng, mối
<small>quan hệ tác động qua lại lẫn nhau của các thành tố trong cơ chế điều chỉnhpháp luật. Nghiên cứu các hình thái khác nhau của cơ chế điều chỉnh pháp luật</small>
cũng như các tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của cơ chế điều chỉnh
<small>pháp luật và những ảnh hưởng của kinh tế, chính trị và các quy phạm xã hội</small>
đối với cơ chế điều chỉnh pháp luật.
- Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của cơ chế điều chỉnh
<small>pháp luật Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế</small>
điều chỉnh pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để khẳng định những
bước phát triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời tìm ra những hạn chế,
nhược điểm và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>e Pham vi nghiên cứu của luận án</small>
Cơ chế điều chỉnh pháp luật có tính chất rất phức tạp và có nội dungrất rộng. Bản luận án này khơng thể đề cập đến tất cả các vấn đề mà chỉ tậptrung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế điềuchỉnh pháp luật; khái quát sự phát triển của cơ chế điều chính pháp luật Việt
<small>Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; đánh giá thực trạng của cơchế điều chỉnh pháp luật Việt Nam và xác định những phương hướng và giải</small>
pháp cơ bản để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam hiện nay.4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ đã được xác định ở trên, luận án được
<small>thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp của chủ nghĩa Mác </small>
-Lênin. Trong đó, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng,phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích và tổnghợp, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, tiếp cận hệ thống...để lý giải các vấn đề đã được đặt ra.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
<small>Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và tồndiện về cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.</small>
Trên cơ sở phân tích, so sánh đánh giá một số quan điểm khác nhau,luận án xây dựng khái niệm hoàn chinh về cơ chế điều chỉnh pháp luật, trongđó xác định chức năng và những mối quan hệ giữa các thành tố trong cơ chếđiều chỉnh pháp luật cũng như những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cơ chếđiều chỉnh pháp luật. Bên cạnh đó, luận án làm sáng tỏ một cách có hệ thốngvà toàn diện những tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của cơ chế điềuchỉnh pháp luật Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">những phương hướng và giải pháp toàn diện cho việc hoàn thiện cơ chế điềuchỉnh pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả của pháp luật trong điều kiện pháttriển của một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung và phát triển nhữngvấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luật, tạo ra cơ sở khoa học thốngnhất để nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể.
<small>Luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và giảng dạykhoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt động thực tiễn trong các cơ quan</small>
<small>pháp luật.</small>
Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận án có thể giúp íchcho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dung một chương trình và kế
luật và bảo vệ pháp luật một cách đồng bộ để từng bước hoàn thiện cơ chếđiều chỉnh pháp luật trên thực tế.
7. Kết cấu của luận án
<small>Luận án bao gồm phần mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục tàiliệu tham khảo.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Cơ chế điều chính pháp luật là một phạm trù phức tạp và có nội dung
<small>rất rộng của khoa học pháp lý nói chung và của lý luận về nhà nước và phápluật nói riêng địi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống mới có được</small>
những kết luận đúng đắn. Chương 1 của luận án sẽ trình bày những vấn dé lý
<small>luận cơ bản về cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bao gồm: khái niệm và các thành</small>
tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật; những tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn
<small>thiện của cơ chế điều chỉnh pháp luật; những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chếđiều chỉnh pháp luật.</small>
PHÁP LUẬT
<small>1.1.1. Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật</small>
Để có được khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật, trước hết cần phân
<small>tích và làm rõ về mặt lý luận vấn đề điều chỉnh pháp luật.</small>
Trong tiếng Việt, diéu chỉnh được giải thích là “sửa đổi, sắp xếp lại ít
<small>nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn" [86, tr. 310]. Trong một số ngôn ngữ khácnhư tiếng Anh, tiếng Nga hay tiếng Latinh, diéu chỉnh đều có nghĩa là sự tác</small>
động, chỉnh đốn, điều khiển một hoạt động hay một quá trình để tạo ra mộttrật tự hài hòa, thường dựa vào những nguyên tắc hay những quy tắc nhất định.Đặc biệt, trong cuốn từ điển pháp luật bằng tiếng Anh "Black’s Law
<small>Dictionary", thuật ngữ điều chính được giải thích khá rõ ràng: "Điều chỉnh</small>
(regulate) là sắp xếp, thiết lập, hoặc điều khiển, chỉnh đốn bằng quy tắc, phươngpháp hoặc phương thức đã được định ra; chỉ đạo bằng quy tắc hoặc khnmâu; kiểm sốt bằng các nguyên tắc cai trị hoặc bằng pháp luật” [109, tr. 1286].
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Như vậy, thuật ngữ "điều chỉnh" được giải thích tương đối thống nhất, nộidung của nó là sự tác động của chủ thể đến đối tượng bằng những hình thức và
phương pháp cụ thể nhằm đạt mục đích nhất định.
Để duy trì trật tự xã hội, định hướng cho sự vận động và phát triển của
các quan hệ xã hội, trong xã hội tồn tại nhiều dạng điều chỉnh khác nhau. Đólà sự điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức, tín điều tơn giáo, phong tục, tập quán,pháp luật... Trong đó, điều chỉnh bằng pháp luật (ở đây gọi là điều chỉnh phápluật) có vai trị quan trọng nhất do tính chất và đặc điểm vốn có của pháp luật.
Pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, vì thế nhà nước
là chủ thể của điều chỉnh pháp luật. Với tư cách là một tổ chức có quyền lực
bao trùm tồn bộ xã hội, nhà nước có bộ máy cưỡng chế đặc biệt có đủ khảnăng đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực thi trên thực tế. Để thựchiện sự điều chỉnh pháp luật, nhà nước trước hết xác định mục đích, nhiệm vụcủa điều chỉnh pháp luật, xác định phạm vi, đối tượng, phương pháp điềuchỉnh của pháp luật. Trên cơ sở đó, nhà nước tiến hành các hoạt động cụ thể
để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Các hoạt động
cụ thể của nhà nước nhằm thực hiện sự điều chỉnh pháp luật thể hiện dưới cáchình thức cơ bản là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
<small>pháp luật. Trong đó, các cơ quan trong bộ máy nhà nước với những chức năng</small>
và nhiệm vụ cụ thể phối hợp với nhau để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật.
<small>Thực chất, toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước chính là</small>
các hoạt động để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật.
Đối tượng điều chỉnh pháp luật là các quan hệ xã hội. Pháp luật vớinhững thuộc tính vốn có của nó có thể tác động vào đời sống xã hội bằng nhiềuhình thức khác nhau nhờ vào các phương tiện và các phạm trù khác nhau củanó. Khi thực hiện sự tác động của mình đối với các quan hệ xã hội, pháp luật một
mặt bảo vệ và định hướng cho sự phát triển các quan hệ xã hội, bảo vệ các quyền
và sự tự do của con người, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với các
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">quy luật khách quan, mặt khác tạo ra những rao chan để hạn chế sự gia tang
<small>và loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội những quan hệ xã hội lạc hậu không phù</small>
hợp với sự phát triển khách quan của xã hội và lợi ích của giai cấp thống trị.
<small>Các quan hệ xã hội mặc dù tồn tại một cách khách quan trong quá</small>
trình hoạt động của con người nhưng mức độ ổn định và nhịp độ phát triển của
<small>chúng lại phụ thuộc vào xử sự của con người khi tham gia vào các mối quanhệ đó. Khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội, con người có nhiều phương</small>
án xử sự khác nhau. Pháp luật đưa ra cách xử sự thích hợp để các chủ thể tuântheo và đảm bảo cho chúng được thực hiện. Các chủ thể khi tham gia vào các
<small>mối quan hệ xã hội tuân theo những cách xử sự đã được xác định sẽ đảm bảo</small>
cho quan hệ xã hội này tồn tại, vận động và phát triển của theo những hướng
<small>tích cực mà nhà nước mong muốn.</small>
<small>Với chức năng phản ánh, pháp luật là sự mô hình hóa các nhu cầu xã</small>
hội khách quan, điển hình, phổ biến thành hệ thống quy phạm pháp luật để
<small>điều chính các mối quan hệ xã hội. Đó là những cách xử sự hợp lý nhất, phù</small>
hợp với ý chí và nguyện vọng chung của các chủ thể khi tham gia vào các
<small>quan hệ đó. Vì vậy, sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội được</small>
thực hiện thông qua việc xác định cách xử sự của chủ thể tham gia các quanhệ xã hội, là sự tác động có tính tổ chức, tính quy phạm và có mục đích cụ thể,
<small>rõ ràng. Thơng qua hình thức tác động này, trật tự pháp luật của đời sống xã</small>
<small>hội được hình thành, trong đó lợi ích của giai cấp thống trị cũng như những</small>
<small>giá trị xã hội được bảo đảm.</small>
Như vậy, điều chỉnh pháp luật là quá trình tác động có tổ chức,mang tính quy phạm của nhà nước đối với các quan hệ xã hội thông quahành vi của các chủ thể nhằm đạt được những mục đích nhất định.
<small>Với chức năng giáo dục, pháp luật ln có sự tác động mạnh mẽ vào</small>
nhận thức và tư tưởng của chủ thể để hình thành ở chủ thể pháp luật ý thứcpháp luật đúng đắn, làm cơ sở cho các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">với yêu cầu của pháp luật. Mặc dù, hành vi mới là cơ sở để xác định mối quan
<small>hệ giữa con người với pháp luật như Các Mác đã viết: “Ngồi những hành vicủa mình ra, tơi hồn tồn khơng tồn tại đối với pháp luật, khơng phải là đối</small>
tượng của nó” [13, tr. 27-28], nhưng con người cụ thể tham gia các quan hệ xã
<small>hội hoạt động khơng phải như một cái máy, mà đó là hoạt động có ý chí, có</small>
mục đích rõ ràng. Chính vì vậy, khơng thể địi hỏi các chủ thể thực hiện các
<small>hành vị mà nhà nước mong muốn nếu pháp luật không tác động vào nhận thức</small>
của họ bởi vì theo quan điểm mác - xít, hành vi của con người chính là biểu
<small>hiện bên ngồi của hoạt động [16, tr. 11], [48, tr. 17]. Vì vậy, khi nói sự tác</small>
động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội thơng qua hành vi của chủ thểthì đã bao hàm sự tác động pháp luật đối với nhận thức của chủ thể. Nhờ vàosự tác động đó, các chủ thể có thể biết được mình được làm gì, khơng được
<small>làm gì, phải làm gì hay phải làm như thế nào. Khi nhận thức được điều đó thì</small>
các chủ thể tiến hành cách xử sự mà pháp luật đã đưa ra.
Tuy nhiên, sự tác động của pháp luật đối với nhận thức của chủ thể cóhai cấp độ khác nhau, ở cấp độ chung đó là sự tác động của tồn bộ các bộ
<small>phận của thượng tầng chính trị pháp lý đối với nhận thức của con người về bảnchất và vai trò của pháp luật, về ý nghĩa xã hội của pháp luật nhằm mục đích</small>
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của các chủ thể pháp luật. Sự tác động nàycó thể được thực hiện cả trong quá trình điều chỉnh pháp luật cũng như các
<small>quá trình pháp luật khác như tuyên truyền pháp luật, giáo dục pháp luật. Sự tácđộng ở cấp độ chung thực chất là thực hiện chức năng giáo dục của pháp luật.</small>
<small>Xảy ra trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Sự tác động đó được thực hiện bởicác phương tiện pháp luật tham gia vào q trình điều chính pháp luật. Sự tác</small>
động này trực tiếp nhằm giúp cho chủ thể nhận thức được yêu cầu cụ thể của
pháp luật để có hành vi phù hợp với pháp luật trong điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể đã được pháp luật quy định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>Sự tác động pháp luật ở cấp độ chung có ý nghĩa rất lớn đối với sự tác</small>
động của pháp luật vào nhận thức của chủ thể pháp luật ở cấp độ cụ thể, nógiúp cho các chủ thể nhận thức đúng đắn những yêu cầu của pháp luật trongnhững điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, sự tác động của pháp luật đốivới nhận thức của chủ thể ở cấp độ cụ thể cũng có ý nghĩa giáo dục chung. Vìvậy, khi nói điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đã bao hàm nộidung của sự tác động đối với nhận thức của chủ thể ở cấp độ cụ thể nói trên.
Như vậy, không thể đồng nhất điều chỉnh pháp luật với sự tác độngpháp luật [99, tr. 285]. Bởi vì, điều chỉnh pháp luật là sự tác động của phápluật đối với các quan hệ xã hội nhằm đạt được kết quả nhất định là trật tự xãhội và vì thế có những tác động của pháp luật khơng thể được xem là điều chỉnhpháp luật. Đó là sự tác động vào nhận thức của chủ thể để thực hiện chức năng
<small>luật là sự tác động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thực hiện bởitất cả các phương tiện pháp luật và các phạm trù pháp lý khác [99, tr. 286], bởi</small>
vì văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật khơng thể trực tiếp tác động lên các
quan hệ xã hội mà chỉ tác động lên nhận thức của chủ thể ở cấp độ chung giúpcho chủ thể có được quan điểm đúng đắn về pháp luật để chủ thể tôn trọngpháp luật, chúng không xác định cách xử sự của chủ thể khi tham gia các quanhệ pháp luật vì vậy không trực tiếp tác động lên các quan hệ xã hội để đạtđược kết quả cụ thể. Tuy nhiên, nếu tách biệt hai hình thức tác động của pháp
<small>luật là tác động đối với tư tưởng và tác động lên các quan hệ xã hội thông qua</small>
hành vi của chủ thể [81, tr. 184] thì cũng khơng hồn tồn chính xác vì ngay
cả trong q trình tác động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội cũng tồntại sự tác động của pháp luật đối với nhận thức của chủ thể các quan hệ xã hộiở các cấp độ khác nhau.
Quan niệm điều chỉnh pháp luật như vậy cho phép chúng ta chỉ ra sựkhác nhau giữa điều chỉnh pháp luật và sự tác động của pháp luật. Mặt khác,
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">quan niệm đó thể hiện được bản chất của điều chỉnh pháp luật. Quan niệm này
<small>tạo ra cơ sở cho việc làm sáng tỏ khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật cũngnhư vi trí và chức năng của các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật.</small>
Để thực hiện sự diéu chỉnh đối với các quan hệ xã hội, pháp luật xácđịnh cách xử sự của chủ thể trong những điều kiện và hồn cảnh cụ thể. Việcxác định đó được thể hiện ở những phương thức điều chỉnh cụ thể. Đó là cách
<small>thức pháp luật xác định cách xử sự của chủ thể gắn với những điều kiện vàhoàn cảnh nhất định.</small>
Phương thức điều chỉnh pháp luật được nhà nước xác lập và thể hiện
<small>trong các quy phạm pháp luật. Vì thế, với cùng một điều kiện và hoàn cảnh cụ</small>
thể, pháp luật của nhà nước này xác định cách xử sự của chủ thể bằng phương
<small>thức này, nhưng pháp luật của nhà nước khác thì lại xác định bằng phương</small>
<small>thức khác. Phương thức điều chỉnh pháp luật mặc dù do nhà nước xác lập</small>
<small>nhưng nó phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều</small>
<small>chính và mục đích của điều chỉnh pháp luật. Việc xác định những cách xử sự</small>
khác nhau cho chủ thể phải mang tính khách quan, phù hợp với hồn cảnh vàđiều kiện cụ thể. Có ba phương thức điều chỉnh pháp luật chung nhất là bắtbuộc, cấm đoán va cho phép [45, tr. 368], [94, tr. 285].
Bắt buộc là phương thức điều chỉnh pháp luật trong đó pháp luật xác
<small>định những hành vi mà chủ thể buộc phải thực hiện khi gặp những điều kiện</small>
hay hoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Ví dụ, pháp luật quy định cơng
<small>dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động cơng ích, phải tố giác tội phạm...</small>
<small>Cấm đoán là phương thức điều chỉnh pháp luật trong đó pháp luật xác</small>
định những hành vi mà chủ thể không được phép thực hiện khi gặp một điều kiệnhay hoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Chẳng hạn, Đoạn 1, Điều 17,
<small>Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 quy định: “Cán bộ, công chức không</small>
<small>được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tácxã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tu".
Cho phép là phương thức điều chính pháp luật trong đó pháp luật xácđịnh những hành vi mà chủ thể được phép thực hiện khi gặp một điều kiện hayhoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Ví dụ, Khoản 1, Điều 1, Luật khiếu
nại, tố cáo năm 1998 quy định: “Cơng dân, cơ quan tổ chức có quyền khiếu
<small>nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà</small>
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căncứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi
<small>ích hợp pháp cua minh".</small>
Các phương thức điều chỉnh nói trên được triển khai theo hai kiểu khác
nhau. Kiểu thứ nhất dựa trên nguyên tắc: "Được lam tất những gi mà phápluật khơng cấm”. Theo đó, chủ thể được tiến hành bất kỳ một hoạt động nào
miễn là không rơi vào những trường hợp mà pháp luật cấm đoán. Kiểu thứ hai
dựa trên nguyên tắc “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” tức là chủ
thể chỉ được tiến hành những hoạt động mà pháp luật quy định [94, tr. 286].
Mỗi kiểu điều chỉnh nói trên có những ưu thế riêng của mình. Nếu nhưkiểu thứ nhất mở ra một phạm vi rộng lớn cho tính tích cực, chủ động của các
chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì kiểuthứ hai có thể xác định phạm vi các quyên được trao cho các chủ thể. Vì thế,
việc sử dụng kiểu điều chỉnh nào cho mỗi loại quan hệ xã hội phụ thuộc vàođặc điểm của chủ thể cũng như mục đích và ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật
<small>đối với các quan hệ xã hội đó.</small>
của điều chỉnh pháp luật là phương pháp mệnh lệnh - phục tùng và phương
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">pháp phối hợp bình đẳng [45, tr. 363], [76, tr. 518]. Phuong pháp mệnh lệnh phục tùng thừa nhận sự khơng bình đẳng của các bên chủ thể trong quan hệ xã
-hội, trong đó một bên có chủ thể có quyền đặt ra những mệnh lệnh phù hợpvới pháp luật còn chủ thể kia phải phục tùng những mệnh lệnh đó. Các quanhệ phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước thường được điều chỉnh bằngphương pháp này. Còn phương pháp phối hợp - bình đẳng thừa nhận sự bìnhđẳng giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ xã hội, trong đó các bên tham giaquan hệ xã hội phối hợp, thỏa thuận với nhau để định đoạt quyền và nghĩa vụpháp lý của mình trên cơ sở pháp luật. Các quan hệ dân sự được điều chỉnh bằngphương pháp này, như quan hệ hợp đồng... Trong những trường hợp khác lại
<small>có sự kết hợp hai phương pháp điều chỉnh trên tạo ra phương pháp hỗn hợp</small>
nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và vận động của các quan hệ xã hội theo mục
<small>đích mà nhà nước mong muốn [45, tr. 363]. Ví dụ, trong quan hệ giữa ngườilao động và người sử dụng lao động, khi ký kết hợp đồng lao động, các bên chủ</small>
thể dựa trên cơ sở sự bình đăng, thỏa thuận để xác định các quyền và nghĩa vụcủa mình, nhưng khi thực hiện hợp đồng thì bên sử dụng lao động có quyềnđặt ra quy chế, mệnh lệnh trong khuôn khổ pháp luật và sự thỏa thuận trong hợp
<small>đồng buộc người lao động phải thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,</small>
các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc thay đổi các điều khoản của hợp đồng.Những vấn đề được phân tích ở trên về điều chỉnh pháp luật sẽ là cơ sở
<small>đề xây dựng và hoàn thiện các vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luật.</small>
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một trong những khái niệm cơ bảntrong hệ các khái niệm khoa học của lý luận về nhà nước và pháp luật. Do tínhchất phức tạp của vấn đề và nhiều lý do khác nên cho đến nay cịn có nhiều ý
kiến rất khác nhau về khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật, thể hiện ở nhữngquan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật chính là cơ
chế tác động của pháp luật. Theo đó, cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu là
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">tóng thể các phương tiện, các hình thái tác động khác nhau của pháp luật lên
<small>các quan hệ xã hội, bao gồm: quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, các quá</small>
<small>trình thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật và hoạt động</small>
tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Với cách tiếp cận như vậy, quan điểm này
<small>có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn là, nó tạo ra khả năng tìm kiếm các giải</small>
pháp trên nhiều hướng khác nhau để đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Tuy
<small>nhiên, do xuất phát từ sự đồng nhất "điều chỉnh pháp luật" với "tác động pháp</small>
luật", cho rằng: "Điều chỉnh pháp pháp luật cần được hiểu là nó được thựchiện bằng pháp luật và tồn bộ các phương tiện tác động của pháp luật lêncác quan hệ xã hội" [93, tr. 5], nên quan điểm này đã mở rộng phạm vi của
<small>khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật tới mức dung hợp vào đó cả những yếu</small>
tố nằm ngoài nội dung của khái niệm điều chỉnh pháp luật; chưa phân định rõ
<small>chức năng điều chỉnh với chức năng giáo dục của pháp luật và do đó, việc xácđịnh các thành tố hợp thành cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng như xác định vàgiải quyết các mối quan hệ giữa chúng đã gặp phải những khó khăn nhất định.</small>
theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, cơ chế điều chỉnh pháp luật baogồm toàn bộ các hiện tượng pháp lý mà sự vận động của chúng có ảnh hưởngđến nhận thức và hành vi của chủ thể pháp luật. Theo nghĩa hẹp, cơ chế điềuchỉnh là q trình mà nhờ đó có được sự tác động của pháp luật đối với cácquan hệ xã hội mà cụ thể là sự tác động bằng các quy phạm pháp luật và đượcbảo đảm bằng quyền lực nhà nước [99, tr. 286]. Quan điểm này đã chú trọngđến các khía cạnh tâm lý, xã hội của điều chỉnh pháp luật. Như vậy, nếu xét
theo nghĩa rộng thì khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu tương tự
như quan điểm thứ nhất; còn nếu xét theo nghĩa hẹp thì lại có mâu thuẫn là đã
quá để cao vai trò của nhà nước, chưa tính đến tích tích cực của các chủ thểpháp luật khác, dẫn đến khó khăn khi đi giải quyết những vấn đề. cé-tính thống
<small>Í TRƯƠNG De LÍ Ứ Đi</small>
Quan điểm thứ ba cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm haibộ phận là: phương thức điều chỉnh pháp luật, được thể hiện trong các quyphạm pháp luật, là cơ sở để các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp với yêucầu của pháp luật (cho phép, bat buộc hoặc cấm đoán) và phương thức thựchiện hành vi, thể hiện trong các xử sự cụ thể của con người, trong đó chủ thểpháp luật chủ động thực hiện, phải thực hiện hoặc phải kiểm chế việc thựchiện một hành vi nào đó. Đồng thời, theo quan điểm này, giữa hai phươngthức đó lại tồn tại các khâu trung gian: chủ thể pháp luật, sự kiện pháp lý,quan hệ pháp luật [97, tr. 55]. Quan điểm này đã nhấn mạnh tính cấu trúc củaphạm trù cơ chế điều chỉnh pháp luật, xác định đặc điểm riêng của các bộ
<small>phận trong cấu trúc đó, tạo ra cơ sở cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề</small>
cơ bản thuộc nội dung của khái niệm này. Tuy nhiên, do quan điểm này phân lậpphương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức thực hiện hành vi pháp luậtcủa chủ thể và xác định chủ thể pháp luật, sự kiện pháp lý và quan hệ pháp luật
<small>chỉ là khâu trung gian giữa hai phương thức đó, nên chưa giải quyết được mối</small>
quan hệ tương tác giữa các thành tố cấu thành cơ chế điều chỉnh pháp luật.Một quan điểm khác cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống
<small>các phương tiện pháp luật đặc thù có quan hệ mật thiết với nhau, được nhà</small>
nước sử dụng để tác động lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra một trật tự pháp
<small>lý nhất định, làm cho khoảng cách giữa pháp luật trên giấy, pháp luật thựcđịnh và pháp luật trên thực tế, pháp luật trong cuộc sống ngày càng thu nhỏ lại</small>
và tiến tới xóa bỏ hồn tồn [35, tr. 26]. Quan điểm này có nhiều yếu tố hợplý, nhất là đã chú trọng tính hiệu quả của pháp luật, tạo cơ sở cho việc tiếp cậnvà giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý khác để đề xuất nhữnggiải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật. Tuy nhiên, nếu chỉ quanniệm cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống phương tiện pháp luật... đượcnhà nước sử dụng, thì chưa đầy đủ, chưa thấy hết tính tồn diện và trạng thái"dong" của của cơ chế điều chính pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>Ngồi ra, cơ chế điều chỉnh pháp luật cịn được tiếp cận dưới các góc</small>
độ khác. Chẳng hạn, dưới góc độ tâm lý học, cơ chế điều chỉnh pháp luật làcơ chế tác động đến ý chí của con người nhằm tạo ra xử sự thích hợp của chủthể [78, tr. 240]; dưới góc độ xã hội, cơ chế điều chỉnh pháp luật nằm trong cơ
<small>chế xã hội, tức là cơ chế tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ</small>
xã hội [38, tr. 434], [78, tr. 241]; dưới góc độ chức năng, cơ chế điều chỉnh
<small>pháp luật là hệ thống các phương tiện pháp luật tác động đến các quan hệ xã</small>
hội thông qua chủ thể [38, tr. 434], [78, tr. 240]...
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: Cơ chế điều chỉnh pháp luậtlà hệ thống các biện pháp pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội, bao gồm
<small>toàn bộ những mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành: chủ</small>
thể pháp luật, quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý. Thơng qua đó, các bộphận cấu thành của quá trình điều chỉnh pháp luật liên kết với nhau trong quanhệ pháp luật cu thể với những quyền và nghĩa vụ pháp ly [36, tr. 612].
Mỗi quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý, nhưng cũng có
những hạn chế nhất định. Để có quan niệm đúng về cơ chế điều chính pháp luật,
theo chúng tơi cũng cần làm rõ nội dung ngữ nghĩa của nhóm từ cơ chế điềuchỉnh pháp luật; xác định rõ cấu trúc nội dung của khái niệm; phân tích một cách
tồn diện những đặc trưng chung của khái niệm đó cũng như những đặc điểm
riêng của từng bộ phận hợp thành và mối quan hệ tương tác cơ bản giữa chúng.
<small>Trước hết, thuật ngữ “cơ chế” thường được sử dụng cùng với các thuật</small>
ngữ khác để tạo nên những khái niệm chuyên môn của các lĩnh vực khoa họckhác nhau. Chang hạn, kinh tế học có "cơ chế kinh tế"; "cơ chế quan lý kinh
tế”, tâm ly học có "co chế kích thích - phản ứng”, trong lĩnh vực cơ khí có "cochế vận hành của một hệ thống máy móc”, chính trị học có "co chế thực hiện
quyền lực"... và trong khoa học pháp lý chúng ta có "co chế điều chỉnh pháp
luật", "cơ chế áp dụng pháp luật"... Tuy nhiên, nội dung của thuật ngữ "co
<small>chế” được giải thích rất khác nhau.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><small>Trong tiếng Nga, cơ chế (MexanW3M) được giải thích theo hai nghĩa,thứ nhất là cơ cấu bên trong của máy móc hoặc thiết bị mà làm cho máy móc</small>
hoặc thiết bị đó hoạt động và thứ hai là cấu trúc bên trong, phương thức vậnhành của một bộ máy của một kiểu hoạt động nào đó [105, tr. 203]. Trong
<small>tiếng Anh, thuật ngữ này cũng được giải thích với hai nghĩa khác nhau: "Co</small>
chế (mechanism) là hệ thống các bộ phận hoạt động cùng nhau trong một cỗ
<small>may" và "Cơ chế là một quá trình tự nhiên hoặc được thiết lập nhờ đó một</small>
hoạt động nào đó được tiến hành hoặc được thực hiện” [123, tr. 1148-1149].
<small>Trong tiếng Việt, cơ chế được các nhà ngơn ngữ học giải thích là cách thức</small>
<small>theo đó một quá trình được thực hiện [86, tr. 207]. Tuy nhiên, nghiên cứu</small>
<small>trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là khi xây dựng khái niệm "cơ chế kinh tế” và</small>
"cơ chế quan lý kinh tế”, các nhà kinh tế học cho rằng: "Co chế là khái niệmdùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành một hệ thống mà nhờ đó hệthống có thể hoạt động" [54, tr. 6].
Như vậy, cơ chế ln được giải thích gắn liền với hoạt động của mộthệ thống các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình hoạt động của
<small>chúng. Vì vậy, theo chúng tơi, thuật ngữ “cơ chế” chứa đựng hai nội dung đó</small>
là cấu trúc của một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau hợp thành cómối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động của chỉnhthể đó, tức là sự tương tác giữa các bộ phận trong cấu trúc của chỉnh thể theonhững nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định.
Như đã phân tích ở phần trước, điều chỉnh pháp luật được thực hiệnthông qua hành vi của các chủ thể tham gia các mối quan hệ xã hội, vì thế
mục đích của điều chỉnh pháp luật chỉ có thể đạt được khi nó được thể hiệnthành hành vi thực tế của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, để có được hành vi
xử sự thực tế của các chủ thể, điều chỉnh pháp luật được tiến hành thông qua
các quá trình phức tạp từ việc mơ hình hóa hành vi của chủ thể gắn với những
điều kiện và hoàn cảnh nhất định đến việc cá biệt hóa các mơ hình hành vi đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">thành những xử sự trong những điều kiện và hoàn cảnh cu thể va thực hiện cácbiện pháp để các chủ thể tiến hành đúng các xử sự đó trên thực tế. Q trìnhnày phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại, nhóm và từng mối quan hệ xã hội
<small>mà pháp luật điều chỉnh cũng như mục đích mà nhà nước mong muốn đạtđược khi thực hiện sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội đó.</small>
Để tiến hành các hoạt động này, đòi hỏi nhà nước với tư cách là chủ
thể của quá trình điều chỉnh pháp luật phải dựa vào các phương tiện pháp luậtkhác nhau. Nhờ vào các phương tiện này, nhà nước có thể đạt được mục đích
<small>của mình khi thực hiện việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời các</small>
chủ thể pháp luật cũng thỏa mãn được lợi ích của mình khi tham gia vào các
<small>mối quan hệ xã hội trên cơ sở sự đảm bảo của nhà nước.</small>
<small>Các phương tiện pháp luật có vi trí và vai trị rất khác nhau trong q</small>
<small>trình điều chỉnh pháp luật. Thông qua sự tác động qua lại giữa các phương tiện</small>
<small>đó, pháp luật từng bước đi vào đời sống xã hội.</small>
<small>Với ý nghĩa đó, cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống các phương</small>
tiện pháp luật có mối quan hệ mat thiết, tác động qua lại với nhau trongmột thể thống nhất theo một quá trình nhất định để điều chỉnh các quan hệxã hội với sự đảm bảo của nhà nước nhằm đạt những mục đích xác định.
Khái niệm này thể hiện ba nội dung cơ bản của cơ chế điều chỉnh
<small>pháp luật:</small>
<small>Thứ nhất, cơ chế điều chính pháp luật là một hệ thống các phương tiện</small>
pháp luật có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau trong một thể
<small>thống nhất, theo một quá trình xác định.</small>
Để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật, nhà nước phải dựa vào các quy
<small>phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật... Thơng qua đólàm cho pháp luật có "cuộc sống thực” trong đời sống xã hội chứ không phảilà pháp luật "trên giấy", tức là nhà nước dựa vào các phương tiện pháp luật cụ</small>
thể để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>Các phương tiện pháp luật tham gia vào quá trình điều chỉnh các quanhệ xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất,mỗi phương tiện đó như là một bộ phận cấu thành của hệ thống có chức năng</small>
riêng để đảm bảo cho pháp luật từng bước đi vào đời sống xã hội. Trong đó,quy phạm pháp luật là khuôn mẫu chung cho hành vi của chủ thể; quan hệpháp luật là quan hệ xã hội cụ thể mà nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lýcủa chủ thể đã được pháp luật quy định... Khi các chủ thể tham gia vào các
<small>quan hệ pháp luật một cách hợp pháp thì các khn mẫu chung trở thành</small>
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể; việc thực hiện pháp luật là làm chocác quyền và nghĩa vụ đó trở thành hành vi thực tế của các chủ thể.
Mối liên hệ mật thiết giữa các phương tiện pháp luật được biểu hiện ở
<small>vai trò của các phương tiện đó đối với nhau và đối với tồn bộ sự vận hành của</small>
<small>cơ chế, trong đó phương tiện này là tiền đề cho sự tham gia của các phương tiện</small>
khác trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Nhờ mối liên hệ tác động qua lại giữa
<small>các phương tiện pháp luật mà quá trình điều chỉnh pháp luật được thực hiện.</small>
Thứ hai, sự tác động lẫn nhau giữa các phương tiện pháp luật trong cơchế điều chỉnh pháp luật được thực hiện thông qua hoạt động của các chủ thể
<small>tham gia các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.</small>
Như đã phân tích ở trên, kết quả của điều chính pháp luật chỉ đạt đượckhi chủ thể thực hiện trên thực tế hành vi cụ thể mà pháp luật quy định. Mặc
<small>dù pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhưng pháp luật chỉ</small>
đi vào đời sống xã hội thông qua hoạt động của các chủ thể. Hoạt động củacác chủ thể pháp luật như tham gia quan hệ pháp luật, thực hiện quyền và
<small>nghĩa vụ pháp lý... làm cho các quy phạm pháp luật từng bước trở thành cách</small>
xử sự cụ thể và cuối cùng là được thể hiện thành hành vi cụ thể của các chủthể đó trên thực tế. Nhờ những hoạt động đó mà q trình điều chỉnh pháp luậtdiễn ra, đồng thời cũng nhờ vào hoạt động của các chủ thể pháp luật mà cácphương tiện pháp luật có mối liên hệ tác động lẫn nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Vai trò của các chủ thể trong cơ chế điều chỉnh pháp luật không chỉđược biểu hiện ở tính tích cực của các chủ thể trong việc thực hiện quyền vanghĩa vụ pháp lý của mình mà trong một chừng mực nào đó, các chủ thể cịnđược nhà nước trao quyền để tiến hành những hoạt động cụ thể (chẳng hạn,
<small>trong trường hợp áp dụng pháp luật) hoặc được chủ động trong việc xác định</small>
các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy phạm pháp luật (ví dụ,
<small>tham gia quan hệ hợp đồng). Chính những hoạt động đó làm cho cơ chế điềuchính pháp luật được vận hành tạo ra trật tự xã hội theo mục đích đã định trước.</small>
Thứ ba, nhà nước với tư cách là chủ thể của điều chỉnh pháp luật lànhân tố dam bao cho cơ chế điều chỉnh vận hành trên cơ sở tính tích cực củacác chủ thể pháp luật.
Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản
<small>chứa đựng các quy phạm pháp luật. Hoạt động ban hành pháp luật của các cơ</small>
quan này khơng chỉ khởi động cho cơ chế điều chính pháp luật vận hành màcòn định hướng cho các chủ thể tham gia quan hệ xã hội thực hiện các quy
phạm pháp luật. Hoạt động đó của nhà nước cùng với tính tích cực của chủ thể
và các điều kiện cần thiết làm cho các quy phạm pháp luật có thể được thực hiệntrên thực tế. Chẳng hạn, việc quy định quyền của chủ thể hay các nghĩa vụ gắnliên với lợi ích của họ nhằm kích thích chủ thể tự giác thực hiện trên cơ sở sự
<small>đảm bảo của nhà nước mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào đối với họ.</small>
Nhà nước xác định những phương pháp, phương thức và các kiểu điềuchỉnh cụ thể của pháp luật đối với các quan hệ xã hội để định ra phương thứcvận hành của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Chẳng hạn, đối với các quan hệphục tùng, với một bên chủ thể của quan hệ mang quyền lực nhà nước, sẽ dẫnđến việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh phục - tùng và việc xác định quyềnvà nghĩa vụ của bên mang quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc "chỉ đượclàm những gì mà pháp luật cho phép". Trên cơ sở đó bên mang quyền lực nhànước sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể kia. Ngược lại, trong quan hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">bình đẳng (chẳng hạn, các quan hệ dân sự) thì việc điều chỉnh của pháp luật đốivới các quan hệ này được thực hiện bằng phương pháp phối hợp - bình đẳng và
dua trên nguyên tắc "chủ thể được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm".
<small>Nhà nước đảm bảo cho sự vận hành của cơ chế theo các phương thức đó.</small>
Nhà nước khơng chỉ khởi động cho sự vận hành của cơ chế điều chỉnhpháp luật mà còn đảm bảo cho sự vận hành của cơ chế. Việc đảm bảo đó đượcthể hiện ở hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong
những trường hợp cần thiết. Dựa vào những căn cứ nhất định, chẳng hạn, khicân phải cá biệt hóa các quyền và nghĩa vụ đối với một chủ thể cụ thể nào đó,hay phải xác định địa vị pháp lý cho một chủ thể cụ thể hoặc cần phải cá biệthóa chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật, các cơ quan có thẩmquyền tiến hành áp dụng pháp luật đối với những trường hợp cụ thể để tạo
điều kiện pháp lý thuận lợi cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp
lý của mình. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, giámsát việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp luật đó để đảm bảo cho q
trình điều chỉnh pháp luật đạt được kết quả mong muốn.
Bên cạnh đó, vai trị của nhà nước đối với sự vận hành của cơ chế điềuchỉnh pháp luật còn được thể hiện bằng những biện pháp nhằm kích thích chủthể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tích cực như các biện pháp khuyến
khích về vật chất hoặc tinh thần của nhà nước đối với các chủ thể pháp luật.
Mặc dù nhà nước là chủ thể của điều chỉnh pháp luật, nhưng bản thânnhà nước cũng là chủ thể của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nóicách khác, hoạt động của nhà nước cũng chịu sự tác động của pháp luật. Tồn
bộ q trình xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp
đều chịu sự quy định của pháp luật.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội ở nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Trong mỗi lĩnh vực hoạt động đó, các quan hệ xã hội có
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">những đặc điểm riêng của nó. Vì vậy, khi thực hiện sự điều chỉnh đối với các
<small>quan hệ xã hội này, pháp luật cũng có những hình thức tác động khơng giống</small>
<small>điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh pháp luật của các lĩnh vực pháp luật</small>
quy định. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể tiếp cận ở gócđộ chung của tồn bộ hệ thống pháp luật, cũng có thể tiếp cận ở phạm vi mộtngành luật và cũng có thể tiếp cận ở phạm vi một chế định pháp luật hoặc thậm
<small>chí ở một phạm vi hẹp hơn. Việc nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp luật ở những</small>
phạm vi khác nhau đó đều phải xuất phát từ những nguyên tắc chung của cơ chếđiều chỉnh pháp luật đồng thời gắn với đặc điểm về đối tượng điều chỉnh vàphương pháp điều chỉnh của pháp luật mới có được kết luận đúng đắn khoa học.
Quan niệm như trên về cơ chế điều chỉnh pháp luật khắc phục đượcnhững hạn chế của các quan niệm đã được phân tích ở trên về cơ chế điều chỉnhpháp luật. Nó cũng có một số nét tương tự với quan niệm về cơ chế điều chỉnhpháp luật trong một số sách báo pháp lý là xem cơ chế điều chỉnh pháp luật như
<small>một hệ thống các phương tiện pháp luật thông qua đó nhà nước thực hiện sự tác</small>
động của pháp luật lên các quan hệ xã hội [68, tr. 440]. Tuy nhiên, điểm khác
<small>biệt giữa quan niệm của tác giả với các quan niệm đó là xác định rõ các thànhtố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau trong</small>
một thể thống nhất theo một quá trình xác định và sự tác động qua lại giữa cácthành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật được thực hiện thông qua hoạt độngcủa các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội được pháp luật điều chính. Quanniệm như vậy cho thấy được tính chất động của cơ chế điều chỉnh pháp luật
<small>chứ không phải là một hệ thống tĩnh như khái niệm "hệ thống” thơng thường.</small>
Tóm lại, "cơ chế điều chính pháp luật" là một khái niệm hàm chứatrong đó những nội dung về cấu trúc, nguyên tắc vận hành, các mối quan hệ
<small>và sự tác động qua lại giữa các phương tiện pháp luật trong tồn bộ q trình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">điều chỉnh pháp luật. Để thấy được nội dung của tồn bộ vấn đề, địi hỏi phải
tiếp tục đi sâu tìm hiểu cấu trúc, sự vận hành của cơ chế cũng như vị trí, vai
<small>trị của từng thành tố trong cơ chế đó.</small>
1.1.2. Các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật
<small>Việc xác định các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng còn</small>
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp
<small>luật bao gồm quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, văn bản cá biệt, ý thức</small>
pháp luật, trách nhiệm pháp lý, pháp chế, chủ thể pháp luật [76, tr. 520]; có
quan điểm cho rằng cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm quy phạm pháp luật,
chủ thể, sự kiện pháp lý [78, tr. 241]; [35, tr. 26]. Một quan điểm khác lại cho
rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm: quy phạm pháp luật, quan hệ pháp
luật và các hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và các biệnpháp đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể [58, tr. 39]. Để
có thể xác định được các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật, theo chúngtôi, trước hết cần phải xác định được các giai đoạn của q trình điều chỉnhpháp luật.
Điều chỉnh pháp luật ln ln được thực hiện theo một q trìnhtrong đó các phương tiện pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác độngqua lại lẫn nhau nhằm đạt được mục đích nhất định. Q trình điều chỉnh phápluật diễn ra rất phức tạp, bao gồm các giai đoạn khác nhau và giữa chúng lncó mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghiên cứu tồn bộ q trình điều chỉnh
pháp luật, chúng ta có thể phân chia nó thành các giai đoạn sau:
Thứ nhất, giai đoạn thiết lap các khuôn mau cho hành vi của chủ
Để thực hiện sự tác động của mình đối với các quan hệ xã hội, trước
quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong đó xácđịnh những điều kiện và hồn cảnh có thể xảy ra trên thực tế cũng như cách xửsự của chủ thể khi gặp những điều kiện hay hoàn cảnh đó. Giai đoạn này đượcthể hiện ở sự ra đời các quy phạm pháp luật với tư cách là các chuẩn mực, khuônmẫu cho hành vi của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.Thực chất đây chính là hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, giai đoạn xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể(giai đoạn cá biệt hóa các khn mẫu của hành vi thành cách xử sự cụ thé).
Thực chất, đây là giai đoạn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lýcụ thể của chủ thể. Khi xuất hiện sự kiện pháp lý tương ứng (có thể là hành vipháp luật của chủ thể hoặc sự biến pháp lý) đã được ghi nhận trong quy phạmpháp luật thì sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật.
<small>Trong giai đoạn này, tùy thuộc vào nội dung của quy phạm pháp luật</small>
mà quyền và nghĩa vụ của chủ thể có thể xuất hiện theo những phương thứckhác nhau. Có hai phương thức cụ thể sau:
<small>mình trên cơ sở quy phạm pháp luật thông qua việc tham gia quan hệ pháp</small>
luật. Đối với những quy phạm pháp luật trong đó chỉ rõ quyền và nghĩa vụ chochủ thể thì chủ thể có thể tự xác định các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ
sở các quy phạm pháp luật trong trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, các chủ thể ký
kết một hợp đồng mua bán, chuyển nhượng tài sản... Nội dung của quan hệ
pháp luật chính là quyên và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Phương thức thứ hai, quyền và nghĩa vụ của chủ thể được xác định trêncơ sở một quyết định cá biệt của cơ quan có thẩm quyền. Nội dung của quyếtđịnh cá biệt đó chứa đựng quyền và nghĩa vụ của chủ thể phù hợp với quy phạmpháp luật. Theo quy định của pháp luật, trong những trường hợp nhất định, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật nhằm cá biệt hóa các quy tắcxử sự chung thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể cụ thể. Ví dụ, cơ
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dung đất cho một cá nhân
Thứ ba, giai đoạn chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý
(giai đoạn hiện thực hóa mơ hình hành vi của chủ thé).
Khi quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể đã được xác lập, chủ thể
<small>thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo phương thức được pháp luật đặt ra</small>
bằng hành vi cụ thể. Trong giai đoạn này, tính tích cực pháp luật của chủ thể
<small>đóng vai trị quan trọng.</small>
Có hai khả năng có thể xảy ra:
- Nếu chủ thể thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình
<small>đã được hình thành ở giai đoạn thứ hai của quá trình điều chỉnh pháp luật thì</small>
quá trình điều chỉnh pháp luật đã hồn thành, mục đích mà nhà nước đặt ra khi
<small>tiến hành điều chỉnh pháp luật đã đạt được.</small>
- Ngược lại, nếu chủ thể không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và
<small>nghĩa vụ của mình (trường hợp vi phạm pháp luật) thì xuất hiện một giai đoạnmới đó là giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lý, trong đó vi phạm pháp luật</small>
đóng vai trò là sự kiện pháp lý làm phát sinh trách nhiệm pháp lý của chủ thểvi phạm pháp luật. Trong giai đoạn này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ căncứ vào quy phạm pháp luật ra văn bản áp dụng chế tài pháp luật đối với chủ thểvi phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, chủ thể vi phạm pháp luật phải thực hiện chếtài đã được xác định đó. Khi đó q trình điều chỉnh pháp luật mới hoàn thành.
Như vậy, để thực hiện được toàn bộ quá trình trên, nhà nước phải dựa
<small>vào những các phương tiện pháp luật là quy phạm pháp luật, quan hệ pháp</small>
luật, văn bản áp dụng pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>Trong đó, mỗi thành tố như là một bộ phận của "cỗ máy" pháp luật. Nhờ sựtác động giữa chúng mà quá trình điều chỉnh pháp luật được thực hiện.</small>
Tuy nhiên, để quá trình điều chỉnh pháp luật được thực hiện cũng nhưđể giai đoạn này chuyển sang một giai đoạn khác trong q trình điều chỉnh
<small>pháp luật, địi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Trong đó, để các quy</small>
phạm pháp luật có thể được cá biệt hóa thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể,địi hỏi phải có sự kiện pháp lý tương ứng thì mới có thể phát sinh quan hệ
<small>pháp luật hoặc mới có hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có</small>
thẩm quyền. Hon nữa, như đã phân tích ở trên, tính tích cực của các chủ thể có
<small>ý nghĩa quan trọng trong quá trình điều chỉnh pháp luật, vì thế, ý thức pháp</small>
luật cũng là điều kiện cần thiết để các giai đoạn của quá trình điều chỉnh phápluật được thực hiện. Mặt khác, quá trình điều chỉnh pháp luật chỉ có thểchuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác khi nó được thực hiện trong một
<small>mơi trường pháp chế. Vì vậy, bên cạnh các thành tố của cơ chế điều chỉnhpháp luật nêu trên, sự kiện pháp lý, ý thức pháp luật và pháp chế là những điều</small>
kiện cần thiết cho sự vận hành của cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Các thành tố tham gia vào quá trình điều chỉnh pháp luật có mối liênhệ mật thiết tác động qua lại với nhau nhờ cầu nối là các điều kiện cụ thể. Nhờ
<small>mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau giữa các thành tố đó mà q</small>
trình điều chỉnh pháp luật diễn ra theo một trật tự nhất định, làm cho các quanhệ xã hội tồn tại và phát triển theo hướng mà nhà nước mong muốn khi thực
<small>hiện điều chỉnh pháp luật.</small>
Các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật diễn ra rất phức tạp.Mỗi giai đoạn trong quá trình điều chỉnh pháp luật có thể tồn tại như một qtrình điều chỉnh pháp luật với những giai đoạn cụ thể. Do đó, việc xác địnhcác giai đoạn của q trình điều chính pháp luật như đã trình bày ở trên là sựkhái qt hóa để rút ra một mơ thức chung, cơ bản nhất làm cơ sở cho việcnghiên cứu và làm sáng tỏ các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Trên
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">thực tế, các giai đoạn và quá trình điều chỉnh pháp luật đan xen lẫn nhau, sựkết thúc một giai đoạn hay một quá trình này lại là sự bắt đầu một giai đoạn
hoặc một quá trình khác. Chẳng hạn, trong giai đoạn thứ hai, khi chủ thể tự
mình cá biệt hóa các quyền và nghĩa vụ cụ thể trên cơ sở các quy phạm phápluật thông qua việc tham gia các quan hệ pháp luật, các chủ thể cũng xuất phát
từ các quy phạm pháp luật để thực hiện các hành vi nhằm thiết lập quan hệpháp luật hoặc khi áp dụng pháp luật, cơ quan có thẩm quyền cũng phải thực
hiện các quy phạm pháp luật thủ tục để ra các quyết định áp dụng pháp luật.
<small>Vì vậy, khi xem xét quá trình điều chỉnh pháp luật trong những trạng huống</small>
cụ thể, bên cạnh những điểm chung đã được phân tích ở trên, cần phải đặt cácgiai đoạn của của q trình đó trong hồn cảnh xác định với những giới hạn về
<small>thời gian, khơng gian nhất định.</small>
Tóm lại, xét về cấu trúc, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm bốn
<small>thành tố cơ bản là quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, văn bản áp dụng</small>
pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể, bên cạnh đó, điều kiệncần thiết cho sự vận hành của cơ chế điều chỉnh pháp luật là sự kiện pháp lý, ý
<small>thức pháp luật và pháp chế. Các thành tố của cơ chế vị trí và chức năng khác</small>
nhau trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, trong đó thành tố này ảnh hưởng đến
<small>các thành tố khác trong quá trình điều chỉnh pháp luật.</small>
<small>Quy phạm pháp luậi.</small>
Quy phạm pháp luật là phương tiện pháp luật có vi trí và vai trị hết sứcquan trọng trong q trình điều chỉnh pháp luật, nó là thành tố khởi nguyêncủa cơ chế điều chỉnh pháp luật. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhànước có thẩm quyền ban hành tạo thành một hệ thống thống nhất có mối liênhệ chặt chế với nhau làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của nhà nước và các chủthể pháp luật.
Xét ở mức độ chung, hệ thống quy phạm pháp luật tạo nên địa vị pháplý của chủ thể trong các mối quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nhờ hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">thống quy phạm pháp luật, các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật
có thể xác định được phạm vi, nội dung và phương thức thực hiện các quyền
<small>và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, hệ thống các quy phạm pháp luật này tạo nên</small>
một môi trường pháp lý cho hoạt động của các chủ thể. Nói cách khác, hệthống pháp luật là cơ sở xác định năng lực của chủ thể khi tham gia vào các
<small>quan hệ pháp luật.</small>
Xét ở mức độ cụ thể, quy phạm pháp luật là phương tiện chứa đựng ýchí của nhà nước dưới dạng mơ hình hành vi của chủ thể pháp luật. Nó xácđịnh cách xử sự của chủ thể khi gặp những điều kiện và hoàn cảnh nhất địnhtrong đời sống, cũng như hậu quả bất lợi đối với chủ thể trong trường hợp chủthể vi phạm pháp luật.
Nội dung và cơ cấu của quy phạm pháp luật quy định sự tồn tại hoặckhông tồn tại các giai đoạn khác của quá trình điều chỉnh pháp luật. Day làcăn cứ để giải thích về các hình thái khác nhau của cơ chế điều chỉnh phápluật. Có hai hình thái cơ bản của cơ chế điều chỉnh pháp luật là hình thái đơngiản của cơ chế điều chỉnh pháp luật (gọi là cơ chế đơn giản) và hình tháiphức tạp của cơ chế điều chỉnh pháp luật (gọi là cơ chế phức tạp).
Cơ chế đơn giản: Trong quy phạm pháp luật, nếu nội dung của nó đãchỉ rõ cách xử sự cụ thể đối với chủ thể trong những điều kiện hay hồn cảnhcụ thể thì q trình điều chỉnh pháp luật khơng cần thiết phải có hoạt động cábiệt hóa các quy phạm pháp luật thành quyền và nghĩa vụ bằng hoạt động ápdụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền mà chủ thể trực tiếp xác địnhquyền và nghĩa vụ trên cơ sở các quy phạm pháp luật đó. Cơ chế điều chỉnh đơn
<small>giản này chỉ có sự tham gia của các quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật vàhành vi hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ đó. Ví dụ, đối với các quy phạm</small>
về trật tự an toàn giao thông, khi điều khiển các phương tiện giao thông chủ thểthực hiện theo các yêu cầu của pháp luật mà khơng cần có sự cụ thể hóa các quyđịnh của pháp luật đối với trường hợp cụ thể. Có hai dạng cơ chế đơn giản sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Thứ nhất, trong trường hợp quy phạm pháp luật khơng có bộ phận chế
tài tức là nội dung bộ phận quy định chỉ xác định quyền của chủ thể hoặc mộtnghĩa vụ liên quan trực tiếp đến lợi ích của chủ thể thì phần chế tài khơng cần
<small>thiết phải được đặt ra trong các quy phạm pháp luật. Trong trường hợp này cơ</small>
chế điều chỉnh pháp luật có thể vận hành rất đơn giản khơng cần có sự tham
<small>gia của văn bản áp dụng pháp luật với tư cách là phương tiện cá biệt hóa</small>
quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
Thứ hai, đối với quy phạm pháp luật mà nội dung của nó bên cạnh việcxác định cách xử sự cụ thể của chủ thể trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thểcòn xác định chế tài để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật. Trong trườnghợp này văn bản áp dụng pháp luật chỉ tham gia quá trình điều chính pháp luậtkhi cần phải truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
<small>Cơ chế phức tạp: Trong trường hợp nội dung và cấu trúc của quy</small>
phạm pháp luật xác định việc cá biệt hóa quy phạm pháp luật thành quyền vànghĩa vụ pháp lý của chủ thể phải được thực hiện thông qua hoạt động ápdụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hoặc phải có quyết định áp dụng
<small>pháp luật là căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật thì cả quan hệ pháp luật và</small>
văn bản áp dụng pháp luật đều tham gia vào giai đoạn cá biệt hoá quy phạmpháp luật trong quá trình điều chỉnh pháp luật.
Trong cơ chế này, quá trình điều chỉnh pháp luật diễn ra rất phức tạp,nhất là đối với các quy phạm pháp luật bắt buộc trong đó tồn tại bộ phận chếtài được nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật (ví dụ,pháp luật quy định cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanhcó nghĩa vụ đóng thuế). Khi đó, q trình điều chỉnh pháp luật sẽ xuất hiện
giai đoạn thứ hai là giai đoạn cá biệt hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể thông
<small>qua các quan hệ pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật (cơ quan nhà nước có</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">thấm quyền sẽ xác định thuế suất đối với chủ thể cụ thể, thời hạn nộp thuếtheo quy định của pháp luật). Nếu chủ thể vi phạm pháp luật (trong trường hợpchủ thể có hành vi trốn thuế) thì quá trình điều chỉnh pháp luật sẽ lặp lại giai
<small>đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba nhưng dưới một hình thức đặc biệt (truy cứu</small>
trách nhiệm pháp lý) đó là cá biệt hóa chế tài của pháp luật đối với chủ thể viphạm pháp luật (cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng biện pháp chếtài cụ thể đối với chủ thể có hành vi trốn thuế). Các phương tiện pháp luật
<small>tham gia giai đoạn này là quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật,</small>
hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể nhưng với một nội dung đặc biệt.Trong đó, quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luậtcủa hành vi của chủ thể vi phạm pháp luật, đồng thời nó cũng là cơ sở để xácđịnh biện pháp chế tài đã được nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể viphạm. Cơ quan có thẩm quyền cá biệt hóa biện pháp chế tài được dự kiến đóđối với chủ thể cụ thể trong một văn bản áp dụng pháp luật cụ thể và chủ thể
<small>phải thực hiện chế tài đã được xác định trong văn bản áp dụng pháp luật đó.</small>
Như vậy, tùy thuộc vào nội dung của quy phạm pháp luật cũng như
<small>các thành phần của nó mà cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể là đơn giản và</small>
cũng có thể là phức tạp. Điều đó giải thích sự cần thiết phải có các thành tố
<small>khác nhau trong cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với các loại quan hệ pháp luật</small>
<small>khác nhau.</small>
<small>Văn bản áp dụng pháp luật.</small>
Văn bản áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước, các tổ chức vàcác chủ thể có thẩm quyền (gọi chung là cơ quan có thẩm quyền) áp dụngpháp luật ban hành dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Điểm chung nhất
<small>của các văn bản này là nó chứa đựng một quyết định có tính chất cá biệt của</small>
cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, nội dung của chúng rấtđa dạng tùy thuộc vào từng trường hợp cần áp dụng pháp luật cụ thể. Các vănbản áp dụng pháp luật là phương tiện pháp luật để cá biệt hóa quy phạm pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">luật thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể hay để cá biệt hóa chế tài của phápluật đối với chủ thể vi phạm pháp luật hoặc để xác nhận sự tồn tại hoặc không
tồn tại một sự kiện thực tế nào đó có ý nghĩa pháp lý hay xác nhận tư cáchpháp lý của các chủ thể cụ thể.
Sự tham gia của văn bản áp dụng pháp luật vào cơ chế điều chính phápluật là tùy thuộc vào nội dung của các quy phạm pháp luật như đã phân tích ởtrên và tất nhiên, suy cho cùng nó phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. Mặt khác,tùy thuộc vào chức năng và nội dung của văn bản áp dụng pháp luật mà nó cóthể tham gia vào các giai đoạn khác nhau của quá trình điều chỉnh pháp luật.
- Văn bản áp dụng pháp luật xác định các quyền và nghĩa vụ cụ thểcủa chủ thể sắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định đã đượcpháp luật quy định. Trong những trường hợp mà các chủ thể khơng thể tựmình xác định được quyền và nghĩa vụ pháp lý nếu khơng có sự can thiệp củanhà nước, thì cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩmquyền. Hình thức pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật trong trường hợpnày là việc ban hành ra một văn bản áp dụng pháp luật trong đó xác địnhquyền và nghĩa vụ của chủ thể cụ thể (quyết định áp dụng các biện pháp khẩn
<small>cấp tạm thời, quyết định tạm giam, quyết định cử đi học...). Trong trường hợpđó, văn bản áp dụng pháp luật trực tiếp đóng vai trị cá biệt hóa các quy phạm</small>
pháp luật thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với chủ thể pháp luật, nó làkhâu trung gian giữa quy phạm pháp luật và việc thực hiện quyền và nghĩa vụcủa các chủ thể.
- Văn bản áp dụng pháp luật xác nhận sự tồn tại hay khơng tơn tại mộtsự kiện thực tế nào đó, là căn cứ phát sinh, thay doi hay chấm dứt quan hệpháp luật. Đây là trường hợp quyền và nghĩa vụ của của chủ thể trên cơ sở
<small>pháp luật không tự phát sinh hoặc chấm dứt do thiếu một sự kiện thực tế nào</small>
đó cần phải được xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyền. Khi tiến hành việc xácnhận này, cơ quan có thẩm quyền cũng ban hành một văn bản áp dụng pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">luật trong đó không xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể mà chỉ xácnhận sự tồn tại hay không tồn tại một sự kiện thực tế nào đó mà thôi (quyếtđịnh khởi tố vụ án, quyết định giải thể một tổ chức...). Văn bản áp dụng phápluật thuộc loại này khơng trực tiếp cá biệt hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thểmà chỉ là cơ sở để cá biệt hóa quyền và nghĩa vụ đó thơng qua các quan hệ
<small>pháp luật mà thơi. Vì thế trong trường hợp này, văn bản áp dụng pháp luật lại</small>
<small>là khâu trung gian giữa các quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật.</small>
- Văn bản áp dụng pháp luật xác định địa vị pháp lý của chủ thể trongtừng trường hợp cụ thể. Mặc dù hệ thống quy phạm pháp luật đã xác định địavị pháp lý của chủ thể nói chung, nhưng trong nhiều trường hợp, để chủ thểpháp luật có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật thì cơ quan có thẩmquyền phải xác nhận tư cách chủ thể của một cá nhân hay một tổ chức nào đó,
<small>và chỉ trên cơ sở văn bản áp dụng pháp luật đó, chủ thể pháp luật mới có thểtham gia vào các quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ nhất định đã</small>
được pháp luật quy định. Chẳng hạn, quyết định thành lập một cơ quan nhà
nước, thành lập một tổ chức kinh tế, quyết định công nhận tốt nghiệp đối với
<small>sinh viên, giấy phép kinh doanh... của các cơ quan có thẩm quyền. Các vănbản áp dụng pháp luật loại này nhìn chung khơng trực tiếp làm phát sinh, thay</small>
đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật mà có vai trị trực tiếp trong việc đảm bảocho chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Thông qua văn bản áp dụng
<small>pháp luật thuộc loại này, chủ thể có thể bằng những hành vi tích cực của mình</small>
tham gia vào các quan hệ pháp luật cũng như có thể thực hiện các quyền và
<small>nghĩa vụ của mình. Cũng giống văn bản xác định ý nghĩa pháp lý của một sựkiện thực tế nào đó, văn bản áp dụng pháp luật trong trường hợp này là khâu</small>
<small>trung gian giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật.</small>
- Văn bản áp dụng pháp luật xác định biện pháp chế tài cụ thể đối vớichủ thể vi phạm pháp luật. Khi tham gia vào giai đoạn đặc biệt, tức là giai
<small>đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lý, văn bản áp dụng pháp luật làm nhiệm vụ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">cá biệt hóa các biện pháp tác động đã được nhà nước dự kiến trong bộ phận
chế tài của quy phạm pháp luật với biện pháp và mức độ cụ thể đối với chủ thể
vi phạm pháp luật. Cơ quan có thầm quyền dựa vào chế tài trong quy phạmpháp luật và theo thủ tục do pháp luật quy định ban hành văn bản áp dụng
pháp luật để xác định biện pháp chế tài cụ thể đối với chủ thể vi phạm pháp
luật (bản án, quyết định ky luật, quyết định xử lý vi phạm hành chính...).Trong trường hợp này, cũng giống với văn bản cá biệt hóa quyền và nghĩa vụcủa chủ thể, văn bản áp dụng pháp luật này là khâu trung gian giữa quy phạmpháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể. Đó là hành vi thực hiệnchế tài pháp luật của chủ thể vi phạm.
<small>Như vậy, tùy thuộc vào nội dung của từng văn bản áp dụng pháp luật</small>
(do những yêu cầu khác nhau của các quy phạm pháp luật) mà chúng có thểcó chức năng khác nhau trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Văn bản áp dụngpháp luật có thể là cầu nối giữa quy phạm pháp luật với hành vi của chủ thểnếu nội dung của nó chứa đựng quyền và nghĩa vụ cụ thể hoặc biện pháp chế
<small>giữa quy phạm pháp luật với quan hệ pháp luật nếu nội dung của nó chỉ xác</small>
nhận một sự kiện thực tế nào đó để làm cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ củachủ thể hay xác định năng lực của chủ thể cụ thể.
<small>Quan hệ pháp luật.</small>
Quan hệ pháp luật là quan hệ mà nội dung của nó là quyền và nghĩa vụpháp lý của chủ thể tham gia được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước. Trong
<small>cơ chế điều chỉnh pháp luật, quan hệ pháp luật đóng vai trị là phương tiện</small>
thơng qua đó, mơ hình hành vi của chủ thể được cá biệt hóa thành các quyềnvà nghĩa vụ pháp lý cụ thể của chủ thể.
Các quy tắc xử sự được nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận là khn mẫu,là mơ hình hành vi của chủ thể được xác định gắn với những điều kiện và hoàn
<small>cảnh nhất định (những điều kiện hay hoàn cảnh này được xác định trong bộ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">phận giả định của quy phạm pháp luật). Khi những điều kiện và hồn cảnh đó
xuất hiện trên thực tế (các sự kiện pháp lý) cùng với chủ thể có năng lực chủ
thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi), thì quan hệ pháp luật với nội
dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thé sẽ phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý với tư cách là nội dung của quan hệ phápluật chính là sự cụ thể hóa mơ hình hành vi trong quy phạm pháp luật. Khi các
<small>mơ hình hành vi được xác định trong bộ phận quy định của quy phạm pháp</small>
luật được cụ thể hóa thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể trongquan hệ pháp luật cụ thể có nghĩa là pháp luật đã đi dần vào đời sống xã hội.
Quan hệ pháp luật là khâu trung gian, là chiếc cầu nối giữa quy phạmpháp luật và hành vi thực tế của chủ thể. Nhờ có các quan hệ pháp luật mà cácmơ hình hành vi trong các quy phạm pháp luật chuyển thành các quyền và nghĩavụ cụ thể của chủ thể. Các quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ phápluật là cách xử sự cụ thể của chủ thể với điều kiện và hoàn cảnh xác định.
<small>Trong một số trường hợp, giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp</small>
luật cân có các văn bản áp dụng pháp luật làm khâu trung gian. Chẳng hạn,
<small>theo quy định của pháp luật trong những trường hợp nhất định cần phải có sự</small>
xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về một sự kiện nào đó là căn cứ để làmphát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật thì văn bản áp dụng pháp
<small>luật sẽ đóng vai trị trung gian giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật.</small>
Tất nhiên, văn bản áp dụng pháp luật trong trường hợp này khơng phải là đểcá biệt hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể mà văn bản này có nội dung là sự
<small>xác nhận chính thức của nhà nước về một sự kiện thực tế nào đó có ý nghĩa</small>
pháp lý làm căn cứ để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật.Sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật còn phụ thuộc
vào đặc điểm của đối tượng và phương pháp điều chỉnh pháp của pháp luật.
Nếu quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh - phục tùngthì quá trình phát sinh, thay đổi hay chấm đứt quan hệ pháp luật thường phụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">thuộc vào ý chí của một bên chủ thể. Ví dụ, quan hệ pháp luật hành chính lànhững quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước được điềuchỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh, các quan hệ pháp luật này phát sinh do
<small>yêu cầu hợp pháp của bất kỳ bên nào, sự thỏa thuận của bên kia không phải là</small>
điều kiện bắt buộc [72, tr. 38]. Ngược lại, nếu các quan hệ xã hội được điều
chỉnh bằng phương pháp tự định đoạt với sự bình đẳng của các bên tham gia
quan hệ pháp luật thì quá trình phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp
luật lại phụ thuộc vào ý chí của các bên, chẳng hạn các quan hệ dân sự, như
hợp đồng... trong đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể do chính các chủ thể
<small>tham gia quan hệ pháp luật tự định đoạt trên cơ sở quy phạm pháp luật.</small>
<small>Như vậy, quan hệ pháp luật là phương tiện thơng qua đó, ý chí của nhà</small>
nước dưới dạng mơ hình hành vi của chủ thể (quy phạm pháp luật) được cụ thểhóa trong quan hệ xã hội thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể. Vịtrí của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội
<small>dung và cấu trúc của quy phạm pháp luật.</small>
Hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể là phương tiện pháp luật khơngthể thiếu được trong các hình thái khác nhau của cơ chế điều chỉnh pháp luật.
<small>Nó tham gia vào cơ chế điều chỉnh pháp luật với chức năng khác nhau tùy</small>
thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể có thể tham gia trong giai
hành vi tích cực của mình chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằmxác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong các quan hệ pháp luật.Trong trường hợp này hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể đóng vai trị làsự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quan hệ pháp luật mà nội dung của nólà các quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể. Ví dụ, hành vi ký kết hợp đồnglàm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong hợp đồng; hành vi
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">khiếu nại của cơng dân có thể làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa ngườikhiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Trong trường hợp cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật để xác định
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể cá biệt thì các văn bản áp dụng phápluật của các cơ quan có thẩm quyền ban hành cũng là kết quả của hành vi thựchiện pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Hành vi này,một mặt, xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho một chủ thể cá biệt, mặt
<small>khác, bản thân nó cũng là một hành vi thực hiện pháp luật bởi vì các cơ quan</small>
có thẩm quyền áp dụng pháp luật cũng phải thực hiện pháp luật khi tiến hành
<small>hoạt động này.</small>
Chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình là khâu cuối cùngcủa quá trình điều chỉnh pháp luật. Kết quả của điều chỉnh pháp luật đạt đượclà nhờ vào việc chủ thể thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình thể
của chủ thể đóng vai trị là phương tiện để đưa các khuôn mẫu hành vi được
xác định trong quy phạm pháp luật trở thành hiện thực bằng việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ cụ thể trên thực tế.
Đặc điểm quan trọng nhất của hành vi với tư cách là phương tiện phápluật là nó được chính các chủ thể quan hệ xã hội xác lập chứ không phải do
<small>nhà nước xác lập. Tất nhiên, nhà nước có những biện pháp đảm bảo cho chủ</small>
thể thực hiện các hành vi đó. Tính tích cực của chủ thể có ý nghĩa quan trọngđể chủ thể xác lập hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, hành vi của chủ thể có thể thựchiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo các căn cứ khác nhau:
- Hành vi của chủ thể trực tiếp thực hiện các quy phạm pháp luật nếunội dung các quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể cách xử sự của chủ thể.
- Hành vi của chủ thể trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thểtrong các văn bản áp dụng pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
</div>