Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.62 KB, 15 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>LỜI MỞ ĐẦU...2</b>
1. Tính cấp thiết của đề tài...2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu...2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...3
4. Phương pháp nghiên cứu...4
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn...4
6. Bố cục tiểu luận...4
<b>CHƯƠNG 1: SÁCH PHONG – TRIỀU CỐNG, SỰ RA ĐỜI VÀ Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MƠ THỨC NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC...5</b>
1. Khái niệm và sự ra đời của mô thức sách phong – triều cống...5
1.1. Quan hệ Sách phong – triều cống...5
1.2. Sự ra đời của mô thức ngoại giao Sách phong – triều cống...5
2. Quá trình phát triển của mô thức sách phong – triều cống...6
<b>CHƯƠNG 2: GIAI ĐOẠN PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SÁCH PHONG – TRIỀU CỐNG DƯỚI THỜI HẬU LÊ (1427 – 1528)...9</b>
1. Giới thiệu về thời Hậu – Lê (1428 – 1527)...9
2. Quan hệ sách phong – triều cống trước thời Hậu Lê (1428 – 1527) và q trình khơiphục...10
2.1. Ngun nhân của sự ổn định sách phong – triều cống thời Hậu Lê...10
2.2. Quá trình ổn định của quan hệ sách phong – triều cống thời Hậu Lê (1428 1527)...11
<b>-KẾT LUẬN...14</b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...15</b>
<small>1</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Sách phong, triều cống được xem là những mô thức phổ biến và được tận dụng trong cácmối quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, trong đó có ViệtNam. Trong quan hệ ngoại giao giữa nước ta và đất nước láng giềng này, Trung Quốc đãnhiều lần sử dung mô thức sách phong – triều cống để tiến hành các hoạt động ngoại giaovới đa phần các triều đại nước ta, từ thời Lý, Trần, Hậu Lê đến thời Nguyễn, Lê – Trịnh.Có thể thấy mơ thức này dần trở thành hình thức ngoại giao quan trọng được các triều đạiTrung Quốc, xuất hiện từ thời Tây Hán, và khơng ngừng phát triển, duy trì đến giai đoạnnhà Minh thì đạt mốc đỉnh cao trong quá trình hình thành và xây dựng mạnh mẽ.
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có lúc ổn định, có khi biến động, nhà Minh trở thànhmột quốc gia hưng thịnh và dần mở rộng sức ảnh hưởng của mình khơng chỉ trong khuvực mà còn cả hệ thống thế giới, đưa Trung Quốc phát triển đến một địa vị đáng mơ ước.Lúc ấy, việc quan hệ ngoại giao cũng là nhân tố mang tính quyết định thiết yếu đến vậnmệnh quốc gia và củng cố địa vị trên thế giới. Do tọa lạc tại vị trí láng giềng với TrungQuốc, lại cịn là khu vực giao thoa về mặt văn hóa và đời sống, quan hệ sách phong –triều cống giữa Đại Việt ta và Trung Quốc ln được duy trì ổn định và trở thành phươngsách ngoại giao thiết yếu trong thời phong kiến.
Có thể thấy được vai trị quan trọng của mô thức sách phong – triều cống trong quan hệViệt – Trung, đồng thời đây cũng là mối quan tâm lớn của học giả trong và ngoài nướckhi bàn đến các chính sách đối ngoại trong lịch sử. Hiện nay cũng có khơng ít học giả đãđề cập và nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này và đã để lại những tư liệu vô cùng quý báu.Tuy nhiên, theo đánh giá chung, các cơng trình nghiên cứu đa phần chỉ tập trung cụ thểvào từng quốc gia chẳng hạn như dựa vào từng thời đại được ghi chép trong thông sử ViệtNam hay Trung Quốc. Hiện tài nguyên nghiên cứu theo mặt tổng thể giữa hai nước vẫncịn hạn chế. Vì thế, với đề tài “Vấn đề sách phong - triều cống trong quan hệ Việt Nam -Trung Quốc thời Hậu Lê (1428-1527)”, em muốn tìm hiểu rõ ràng và cụ thể hơn về vấnđề sách phong – triều cống ở giai đoạn nhất định trong thời phong kiến dựa trên cả haichủ thể là Việt Nam và Trung Quốc – cụ thể ở đây là vào giai đoạn thời Hậu Lê. Bài luậnsẽ hướng tới việc tìm hiểu về các cơ sở hình thành, quá trình phát triển của sách phong –triều cống; những đặc điểm của mô thức ngoại giao này vào thời Hậu Lê.
<b>2. Tổng quan tình hình nghiên cứu</b>
Trên thế giới và trong nước hiện nay, đã có khơng ít học giả và nhà nghiên cứu dành thờigian và đặt mối quan tâm của mình đến vấn đề sách phong – triều cống. Vì thế, ngày naynhân loại được thừa hưởng rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, khơng chỉ đếntừ ngoài nước mà khoảng thời gian gần đây Việt Nam ta cũng đón nhận nhiều cơng sức
<small>2</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">nghiên cứu từ các nhà nghiên cứu với thành quả mang tính đóng góp vơ cùng to lớn. Dướiđây là một số tác phẩm, đầu sách nghiên cứu nổi tiếng trong nước và quốc tế về vấn đềsách phong – triều cống.
<b>Cơng trình của tác giả Phạm Hồng Qn – “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” đã mang đến cho độc giả cái nhìn rõ ràng và cụ thể về mối</b>
quan hệ giữa phương Bắc và Việt Nam trong suốt giai đoạn phong kiến. Cơng trình chothấy về giá trị của quyển sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷXIV-XVII” trong quá trình nghiên cứu về mặt lịch sử quan hệ ngoại giao giữa TrungQuốc – Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cịn đề cập đến những đặc điểm, sự hình thànhcủa mơ thức sách phong – triều cống. Có thể thấy đây là quyển sách nền tảng về ngoạigiao của nước ta với nhà Minh thế kỷ XIV – XVII nhằm hiểu rõ hơn về mô thức ngoạigiao phổ biến thời gian này.
<b>Cơng trình tiếp theo mang tên “On the Ch’ing tributary system” được trình bày bởi hai</b>
nhà nghiên cứu J.K.Fairbank và S.Y.Teng vào năm 1941. Cơng trình cũng đặt mối quantâm đến vấn đề triều cống nhưng chủ yếu tập trung vào nhà Thanh. Hai tác giả này phântích rõ ràng và chi tiết về nguồn gốc hình thành và quá trình tồn tại của mơ thức ngoạigiao này. Ngồi ra điểm đặc biệt của cơng trình là luận điểm về sự gắn bó giữa chính trịvà kinh tế trong hệ thống triều cống.
Ngồi ra, nhân loại cịn đón nhận một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề này như “Theearly treaty system in the Chinese World Order”, “The Tributary system – PacificCentury”, “The Tributary System in China’s Historical Imagination”. Các cơng trình trênđã để lại những đóng góp cho nhân loại khơng chỉ về mặt nghiên cứu mà cịn tạo nền tảngcơ bản giúp cung cấp thêm kiến thức dành cho những người chuyên môn và cả cho nhữngai dành mối quan tâm đến ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc.
<b>3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu</b>
<i><b>Mục đích nghiên cứu</b></i>
Vấn đề ngoại giao luôn là những vấn đề được đặt lên hàng đầu khi đề cập đến quan hệquốc tế. Đối với Việt Nam, trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, việc tiến hành cácbước giao lưu, hợp tác quốc tế luôn trở thành mối quan tâm đối với những ai theo đuổicon đường nghiên cứu khoa học. Vì thế, với đề tài về vấn đề sách phong, triều cống,thông qua bài luận này em muốn trình bày về nguồn gốc hình thành, quá trình phát triểncủa mơ thức ngoại giao đặc biệt trên. Ngồi ra, bài luận chủ yếu tập trung vào việc ứngdụng mô thức này vào quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời Hậu Lê.Qua đó, em mong muốn được trình bày về những đặc điểm, tính chất và cả những sự kiệnquan trọng khi hai nước tiến hành ngoại giao theo cách thức độc đáo như trên của phươngBắc nhằm lý giải về sự bền vững của sách phong – triều cống khi đưa vào quan hệ giữahai nước láng giềng.
<i><b>Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>
<small>3</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Nhiệm vụ nghiên cứu của bài tiểu luận này nhằm hướng tới mối quan hệ Việt – Trunggiai đoạn Hậu Lê từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XV. Ngoài ra tiểu luận này hướng đến việcđánh giá, khai thác các thông tin cơ bản từ các nguồn tài liệu, công trình có sẵn để tạo nêncái nhìn tổng quan nhất sau khoảng thời gian tự nghiên cứu, tìm hiểu. Thơng qua đó cóthể nghiên cứu tình hình và thực trạng mối quan hệ Việt – Trung khi tiến hành áp dụngmô thức ngoại giao sách phong – triều cống. Cuối cùng, tiểu luận cũng mang đến nhữnggóc nhìn của các nhà học giả, nghiên cứu thời đại mới về vấn đề ngoại giao trong sử họcxưa thông qua chủ thể là sách phong – triều cống.
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
Đề tài được mở đầu bằng phương pháp nghiên cứu từ những khái niệm, bản chất và đặcđiểm chung để hiểu rõ về vấn đề đang tìm hiểu. Sau đó tiểu luận áp dụng chủ nghĩa duyvật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm hiểu và nghiên cứu về các giai đoạn sử dụng môthức ngoại giao sách phong – triều cống, các sự kiện tiêu biểu xảy ra trong giai đoạn HậuLê. Ngoài ra, đề tài hướng đến sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử vì những tu liệu,nội dung được trình bày sắp tới đây đều thuộc cột mốc thời điểm trong quá khứ. Biệnpháp logic và phân tích cũng được vận dụng để hiểu được bản chất của vấn đề và rút rabài học, kiến thức cho riêng bản thân.
<b>5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn</b>
<i><b>Ý nghĩa lý luận</b></i>
Bài tiểu luận nghiên cứu và khẳng định vai trò ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốctrong suốt giai đoạn thời phong kiến, cụ thể là thời Hậu Lê từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XV.Tiêu biểu là đề cập đến mô thức sách phong – triều cống thông qua các ghi chép từ sử liệuViệt Nam và Trung Quốc. Từ đó giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về hình thức ngoại giaonày cũng nhưng những quá trình áp dụng, hiệu quả mà nó mang lại cho cả hai chủ thểngoại giao.
<i><b>Ý nghĩa thực tiễn</b></i>
Bài tiểu luận giúp làm nền tảng cho các bạn học sinh, sinh viên đánh giá được hiểu biếtcủa mình về lịch sử ngoại giao Việt Nam. Đối với những ai dành sự quan tâm đến ViệtNam – Trung Quốc thời xưa, đây cũng là một bài tổng hợp những hoạt động ngoại giaotiêu biểu của nước ta với quốc gia hùng mạnh này.
<b>6. Bố cục tiểu luận</b>
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài tiểu luận bao gồm 2chương và được chia thành 4 tiết
<small>4</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>CHƯƠNG 1: SÁCH PHONG – TRIỀU CỐNG, SỰ RA ĐỜI VÀ Q TRÌNHPHÁT TRIỂN CỦA MƠ THỨC NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC</b>
<i><b>1.1.Quan hệ Sách phong – triều cống</b></i>
Quan hệ sách phong – triều cống là hệ thống truyền thống của Trung QUốc để quản lýquan hệ đối ngoại. Bằng cách thiết lập các quy tắc và kiểm sốt các hình thức ngoại giaomà các quốc gia khác sử dụng để tham gia và tiến hành mối quan hệ của những nước nàyvới Trung Quốc. Người Trung Quốc đã tìm thấy một cơ chế hiệu quả buộc các quốc giavà dân tộc láng giềng phải tuân theo những vấn đề quan trọng của đất nước cường quốcnày như về mặt chính trị, phịng thủ, kinh tế,...
Một nước nhỏ đồng ý chịu “sắc phong” tức là họ sẽ tiến hành ngoại giao với Trung Quốcvới vị thế như một nước chư hầu. Họ phải công nhận uy đức của Thiên triều, và hàng nămphải tiến hành nộp cống. Cống, được hiểu là sự lệ thuộc, nhằm chỉ việc các nước chư hầuphục tùng cho Thiên triều. Trong quan hệ ngoại giao, sách phong – triều cống còn đượcxem là phương thức duy trì ổn định chính trị của chính quốc gia đó.
<i><b>1.2.Sự ra đời của mơ thức ngoại giao Sách phong – triều cống</b></i>
Sách phong là một trong những cơ sở chủ yếu trong quá trình xây dựng quan hệ ngoạigiao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt giai đoạn phong kiến. Có thể nói đây làmột trong những bước đệm khởi đầu cho những đường lối quan hệ ngoại giao giữa nướcta với đất nước láng giềng này. Thuở xa xưa, khi Trung Quốc dần chứng minh vị thế vàtầm quan trọng của mình trong khu vực và cả thế giới, Việt Nam – đôi khi đã phải chịunhững sức ép từ những hoạt động của nước này đưa ra. Thế nên, trước “con cá lớn” làTrung Quốc, Việt Nam đã linh hoạt áp dụng các biện pháp ngoại giao khác nhau nhằm cóthể duy trì mối quan hệ này nhưng vẫn không đánh mất cái tôi của mình. Điều này cónghĩa là chúng ta sẵn sàng tiếp đón Trung Quốc, tuy nhiên khi nước láng giềng này cónhững hoạt động thiếu tơn trọng, Việt Nam ta sẵn sàng đấu tranh lại, sau đó là nhữngphương thức ngoại giao mềm mỏng để các vương triều Trung Quốc vẫn dành sự tơn trọng
<i>cho nước ta. Có thể nói sách phong là “một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên thế</i>
<i>giới chỉ thấy có trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng mà Việt Namthường được xem là một thí dụ điển hình, với tất cả tính chất phức tạp, nhiều mặt củanó“. </i><small>1</small>
Cùng với sách phong, triều cống cũng là một hình thức ngoại giao đóng vai trị quantrọng. Đây là hình thức ngoại giao phổ biến và cần thiết trong các mối quan hệ giữa TrungQuốc với các nước láng giềng vào thời phong kiến, Việt Nam là một trong các số đó. Như
<small>1Nguyễn Thế Long, Bang giao Đại Việt triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Nhà xuất bản Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội, 2005.</small>
<small>5</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">đã đề cập nhiều lần trước đó, Trung Quốc đã chứng minh vị thế và sức ảnh hưởng củamình trên thế giới về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa,... Vì thế họ tự cho mình làcó quyền hành và tự phong cho mình quyền phong tước cho các vị vua nước nhỏ. Vì thếđể có thể phong vương, các nước nhỏ phải thiết lập và duy trì mối quan hệ với các vươngtriều Trung Quốc qua các giai đoạn khác nhau. Một trong những cách duy trì trên chính làtriều cống, ngồi ra vua các nước cịn cần phải cầu phong và thực thi các nghĩa vụ riêngvới “thiên triều”.
Thơng qua các tư liệu sử, ta có thể thấy rằng, Trung Quốc là một cường quốc lớn về nhiềumặt. Vì thế, để có thể duy trì mối quan hệ với các vương triều của quốc gia này, khơng ítcác nước nhỏ đã phải tiến hành nhiều phương pháp. Đại Việt ta cũng thế, đứng trước việchòa hợp rất nhiều yếu tố để đưa đất nước đi lên, nước ta đã phải cân nhắc kỹ lương để đưa
<i>ra những tính tốn chính xác và hợp lý nhất. Phan Huy Chú đã nói rằng “Nước ta từ thời</i>
<i>Hùng Vương mới bắt đầu thơng hiếu với Trung Quốc, nhưng danh hiệu cịn nhỏ, khôngđược dự vào hàng chư hầu triều hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu Đà kiêm tính, nhàHán phong Đà làm Nam Việt Vương, chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chứchưa từng được nêu là một nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thànhquận huyện. Đến khi Đinh Tiên Hồng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi,bấy giờ điển lễ sách phong của Trung Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước“</i><small>.</small><sup>2</sup>Thựctế cho thấy, trải qua các triều đại khác nhau, nước ta ln có những bước đi cụ thể và hợplý trong việc duy trì mối quan hệ với Trung Quốc, đó chính là làm thế nào để có thể sốnghịa hợp với một quốc gia láng giềng lớn mạnh như thế nhưng vẫn giữ được trọn vẹnnhững nét riêng của quốc gia về ngoại giao, văn hóa, kinh tế, chính trị,...đồng thời vẫnduy trì được đoàn kết toàn dân tộc, cuộc sống người dân ấm no và ổn định. Nguyên nhânViệt Nam xin sắc phong từ Trung Quốc là do ta chỉ là một nước nhỏ, Trung Quốc lại lớnhơn gấp ba, bốn lần tính về cả địa lý lẫn kinh tế, chính trị. Thế nên cái lý ở đây là do tađang nằm cạnh một cường quốc lớn như thế, nên không thể tránh khỏi những mưu đồthơn tính, xâm lược. Vậy làm thế nào để có thể ổn định lịng dân ở trong nước nhưng vẫnduy trì được quan hệ hịa hữu với cường quốc này? Các vua Việt ta đã tiến hành đường lốiquan hệ ngoại giao “lấy nhu, thắng cương”, xin sách phong Trung Quốc.
Từ những các lý do thực tiễn trong quan hệ ngoại giao lịch sử, ta có thể hiểu được vì saoviệc xin sắc phong lại được nước ta kéo dài từ thời Ngô ( từ Ngô Xương Ngập<small>3</small>) đến tậnthời Nguyễn. Ngay từ khi lên ngôi, đa phần các vị vua thời phong kiến đều tiến hành xinphong vương từ Trung Hoa. Ngay từ những giai đoạn các triều đại giành độc lập, nước tađã bắt đầu việc. Từ thế kỷ thứ X dưới thời Ngô qua các nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đến
<small>chung đó là thời Hậu Ngơ Vương.</small>
<small>6</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">tận thời Nguyễn, hầu như không một triều đại nào bỏ qua việc tiến hành sách phong khingoại giao với Trung Hoa.
Trong suốt quá trình tiến hành mối quan hệ sách phong – triều cống, nước ta đã đôi lầntrải qua những bước ổn định, đôi lần đứng chững lại do những hành động sai lệch trongquan hệ ngoại giao với Trung Hoa. Khởi đầu từ Triều Ngô, khi ấy Ngô Quyền chưa sangTrung Hoa xưng vương. Mãi đến năm 954, Ngô Xương Ngập cho Lưu Xưởng (sứ vuaNam Hán thời bấy giờ) sang xin phong vương với vị trí là Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Đâycũng là cột mốc đánh dấu bước khởi đầu của quan hệ sách phong Việt Nam – TrungQuốc. Nối tiếp từ thời Ngơ, Đinh Tiên Hồng ở thời Đinh cũng hai lần sang xin phongvương vào năm 972 và năm 975, cùng con trai là Đinh Liễn. Sau đó, triều Lê cũng nhanhchóng tiến hành mơ thức ngoại giao sách phong. Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt độngđến năm 980, triều Lê đã nhiều lần cử các sứ sang Trung Hoa để xin phong vương. Tuynhiên, vào các triều đại trên, quan hệ sách phong – triều cống giữa hai bên chưa thật sựđạt được sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững. Do lúc ấy, nước ta cần phải cân đogiữa lòng dân trong nước, ổn định xã hội và quan hệ ngoại giao Trung Hoa, nên việc xinsách phong đã đôi lần không thỏa lòng dân. Mãi đến thời Lê Sơ cùng với nhà Minh –Trung Quốc (1428 – 1527), ta mới thấy được giai đoạn ổn định lâu dài nhất của quan hệsách phong – triều cống giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có thể đánh giá rằng đây là giaiđoạn quan hệ ngoại giao hai nước diễn ra ổn định nhất, những vấn đề gây xung đột trướcđây cũng khơng cịn là điều đáng kể trong quá trình hai quốc gia thiết lập quan hệ.
Tuy nhiên, đến thời Mạc Đăng Dung dưới triều Mạc, quan hệ sách phong – triều cống trởthành vấn đề bị phản đối gay gắt vì những đường lối không mang đến kết quả ổn định chocả hai phía. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lên ngơi vua sau khi lật đổ được Triều Lê, mở ramột vương triều mới trong giai đoạn phong kiến Việt Nam – vương triều Mạc. Hành độngcủa Mạc Đăng Dung đã nhận phải những phản kháng gay gắt không chỉ đến từ nhân dânmà còn cả các cựu thần triều Lê và Thiên triều Trung Hoa. Trước đây, Mạc Đăng Dung lànhân vật đã gắn bó hầu hết với khoảng thời gian triều Lê tồn tại, nên những việc làm nàycủa ông đã khơng nhận được sự hài lịng và ủng hộ từ nhiều phía. Thiên triều Trung Hoacũng khơng đồng ý với việc này, vì thế, họ chưa chính thức thừa nhận sự tồn tại củavương triều Mạc. Điều này dẫn đến việc quan hệ ngoại giao giữa hai bên cũng dẫn đếnnhững vấn đề mâu thuẫn đáng kể. Nhà Mạc luôn vấp phải sự phản kháng, chống đối quânsự của vua quan nhà Minh. Mãi đến 23 năm sau, Mạc Đăng Dung mới cho người sangYên Kinh cầu pphong. Tuy nhiên, lần này triều đình Mạc và Mạc Đăng Dung lại tiếp tụcvấp phải những đấu tranh từ nhân dân nước Việt ta. Các vương triều trước đó, dù tiếnhành quan hệ sách phong – triều cống, nhưng hầu hết các vị vua phong kiến đều chủtrương quan hệ ngoại giao mềm dẻo. Tức là ta thần phục Thiên Triều, nhưng khi TrungHoa có những hành vi xâm lược tổn hại đến nước ta, ta sẽ sẵn sàng “tiễn chúng đi”. Nhờvào đó, khơng chỉ giữ được cái tơi của riêng mình, mà Trung Hoa cịn giữ được sự tơntrọng dành cho nước Đại Việt. Không giống như thế, Mạc Đăng Dung lại đi theo con
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">đường “hạ thấp cái tơ của mình”. Trong tờ biểu được nhà Mạc mang sang Yên Kinh đểxin sách phong, có đoạn:
<i>“Thần là tiểu dân ở xa, trí thức chưa được mở mang. Nhưng mỗi khi núp ở phương Nam,trông về phương Bắc, thấy trời quang đất tĩnh, biển lặng sông trong, biết là Trung Quốcđã có thánh nhân. Huống chi oai hùng của nhà vua đã vang vọng khắp thiên hạ và lịngnhân huệ của nhà vua lại như khí hịa mùa xn, tấc lịng vừa mừng vừa sợ, khơng thểnói lên hết được. Thần nghĩ: Dịng họ Lê là quốc vương của thần trước, vận nước đã suy,ngày càng chìm đắm. Đến khi quan trị lên nối ngơi, coi việc nước chưa được mấy ngày,thì lại bị bệnh chết. Trong khi thảng thốt, tạm theo tục rợ, giao phó việc nước cho thần.Thần lại giao cho con là Đăng Doanh. Chưa kịp thỉnh mệnh tâu lên, thực đã tự chuyệnphạm tội. Tuy cửa khuyết cách xa muôn dặm khôn nỗi tỏ bày, nhưng tội lớn tày trời, thếnào giấu nổi.<small>4</small></i>
Chúng ta thấy từ những ngôn từ như trên, nhà Mạc đã sử dụng những lời lẽ nhún nhường,và hạ thấp giá trị của mình để đề cao cơng lao của Thiên Triều. So với các lần phongvương của những triều đại trước, nhà Mạc được xem là một bước lùi trong quan hệ sáchphong – triều cống của phong kiến Việt Nam. Qua đó ta có thể hiểu rõ được lý do vì saohành động xin sách phong của triều Mạc đã bị lên án gay gắt và là điều chưa từng xảy ratrong lịch sử ngoại giao của dân tộc.
Sau khi nhà Mạc sụp đổ, về sau các hoạt động sách phong – triều cống dần trở lại ổn địnhvà được kéo dài đến tận thời Nguyễn. Có thể thấy, các vua nước ta đã nhiều lần nhúnnhường bằng cách đón tiếp sứ bộ Trung Hoa, thực hiện nghi lễ long trọng với mong muốnđược nhận sắc phong từ Trung Hoa. Tuy nhiên sự nhún nhường này cũng nhằm duy trìquan hệ tốt đẹp giữa hai nước, lại còn đảm bảo quyền hành quốc gia để phục vụ cho cácgiai cấp về sau. Tuy các vị vua phong kiến đều lựa chọn sách phong – triều cống để duytrì ngoại giao với Trung Quốc, nhưng vào các giai đoạn và hoàn cảnh khác nhau đều dựavào sự tương quan về tiềm lực và vị thế của hai bên. Cụ thể hơn, trong suốt q trình lịchsử, khơng phải chỉ có mỗi Việt Nam ta mới sang Trung Quốc xin phong vương, mà nhiềulần dưới thời Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung, Thiên triều Trung Quốc đã chủ động gửi sứsang sách phong cho các vua nước Việt. Như vậy vào mỗi thời kỳ khác nhau, mức độtương quan lực lượng có tác động khơng hề nhỏ đến quan hệ bang giao giữa hai bên.
<small> Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Hoạt động sách phong, triều cống trong quan hệ bang giao giữa triều Mạc (Việt Nam) và triều Minh (Trung Quốc) – Hệ quả và thực chất, Khoa Việt Nam học – Đại học Sư phạm Hà Nội, 21/11/2012</small>
<small>8</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>CHƯƠNG 2: GIAI ĐOẠN PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SÁCH PHONG –TRIỀU CỐNG DƯỚI THỜI HẬU LÊ (1427 – 1528)</b>
<b>1. Giới thiệu về thời Hậu – Lê (1428 – 1527)</b>
Nhà Hậu Lê – kéo dài từ năm 1428 và kết thúc vào năm 1789 – được xem là một triều đạiphong kiến Việt Nam tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4. Năm 1428, nghĩa quân Lam Sơngiải phóng dất nước, khơi phục độc lập nước nhà, sau đó Lê Lợi lên ngơi vua tại kinhthành Thăng Long, lập ra triều Hậu Lê. Theo thực tế lịch sử, nhà Hậu Lê được chia thànhhai giai đoạn: Lê sơ (1428 – 1527) và Lê Trung Hưng (1532 – 1789).
Khởi đầu là giai đoạn Lê sơ, kéo dài 99 năm từ khi khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợiđến khi sụp đổ dưới tay Mạc Đăng Dung. Đây được xem là giai đoạn mà trong đó chế độquân chủ chuyên chế tập quyền lần đầu tiên chạm mốc đỉnh cảo trong lịch sử Việt Nam.Thời Lê sơ có 10 vị hoàng đế, hầu hết các vị này đều nắm trọn quyền hành. Đại Việt dướithời các vị vua này phát triền rực rỡ, biên giới phía Bắc được giữ yên và lãnh thổ nước tacũng được mở rộng kéo dài tới Bình Định.
Dưới thời Lê sơ, việc phục hồi và phát triển nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng và đượcđặc biệt quan tâm. Ngay khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã cho tiến hành chế độ quân điền bằngcách kiểm kê hộ khẩu, sổ điền. Về mặt giáo dục, nhà Lê sơ đặc biệt chú ý đến việc tuyểnchọn nhân tài. Ngoài cách tiến cử, Lê sơ đã bắt đầu mở các khoa thi. Thời ấy, lựa chọn
<i>các nhân tài của quốc gia được coi là công việc cần thiết. “Hiền tài là nguyên khí của</i>
<i>quốc gia, ngun khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí suy thì thế nướcyếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh khơng đời nào không coi việc giáodục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng ngun khí quốc gia làm cơng việc cần thiết”<small>5</small></i>
Về mặt đối ngoại, dưới thời vua Lê Thái Tổ, đã nhiều lần Đại Việt ta sang Trung Quốc đểđặt bang giao với nhà Minh, cùng nhau giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. Cũng trongkhoảng thời gian này, mối quan hệ sách phong – triều cống lại được hồi sinh và Hậu Lêđược xem là giai đoạn mà mối qquan hệ này được duy trì ổn định nhất trong thời phongkiến Việt Nam.
<small>9</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i><b>2.1.Ngun nhân của sự ổn định sách phong – triều cống thời Hậu Lê </b></i>
Giai đoạn Hậu Lê được đánh giá là thời kỳ tiến hành quan hệ bang giao với Trung Quốctheo phương thức ổn định và duy trì lâu dài nhát, thậm chí những vấn đề giữa hai nướccũng khơng trở nên đáng kể. Vậy, cần tìm hiểu xem vì sao mãi đến tận thời Hậu Lê, cụthể là vào giai đoạn Lê sơ (1428 – 1527) thì quan hệ sách phong – triều cống mới ổn định.Dựa theo thực tiễn lịch sử, ta có thể thấy rằng vào giai đoạn này, nhà Minh đang đối mặtvới sự bất ổn tình hình chính trị tại Trung Quốc, bên cạnh đó là những sức ép từ phía lựclượng phịng thủ biên giới. Từ thời Minh Tun Tơng (1425), tình hình chính trị TrungQuốc đã khơng cịn ổn định như trước. Nguyễn Trãi từng nói: “So trước với giờ, mạnhhay yếu thì biết rõ được. Huống chi ở nước ngươi, quốc chúa liền năm tử táng, cốt nhụctàn hại lẫn nhau. Bắc khấu xâm lăng, đại thần lấn át; gia dĩ mùa màng mất ln, thổ mộclàm mãi, chính lệnh hà khác, giặc cướp như ong”. Thật mà nói, tình thế của ta lúc bấy giờ,theo Nguyễn Trãi, là vị trí của người chiến thắng. Thời ấy, Trung Quốc còn phải đối mặtvới nạn hoạn quan hoành hành quanh năm. Trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, nạnhoạn quan hay còn gọi là nạn thái giám xuất hiện ở hầu hết các triều đại, một trong số cáchiện tượng ấy đã gây nên thảm kịch “họa quốc ương dân”. Do vậy, đứng trước một hiệntượng xấu hồnh hành như thế, lại có số lượng tăng nhanh và thế lực cũng theo chiều đilên, các thái giám thời Minh đã liên kết với nhau nhằm thâu tóm quyền lực. Đặc biệt, dướithời Minh Thành Tổ (1402), các thái giám do được bảo bọc và trưng dụng bởi các hoàngđế trong triều, nên đã cùng nhau lên kế hoạch giết hại những quan lại, làm cho nhà Minhrơi vào cảnh hỗn loạn. Có thể thấy việc sụp đổ của nhà Minh cũng bắt nguồn từ nguyênnhân là do sự cấu kết của các thái giám thời bấy giờ. Trong tình thế đó, nhà Minh tiếp tụcđối mặt với các vấn đề về an ninh biên giới, đó là những cuộc xung đội với các bộ tộc,tiếu quốc. Chẳng hạn như bộ tộc Maw Shan ở Lộc Xuyên, dẫn đến việc nhà Minh phảiđưa quân sang tận tiểu quốc này để tấn công. Đứng trước sự tấn công bởi kế hoạch “chiađể trị” của nhà Minh, bộ tộc Maw Shan vẫn không từ bỏ và từng bước đấu tranh khôiphục lại độc lập. Đến năm 1436, nhà Minh bị tấn công bởi kế hoạch xâm lược của ngườiMaw Shan. Cuộc tấn công kéo dài khiến cho nhà Minh loay hoay tìm kiếm sự giúp đỡ từcác tỉnh khác, thậm chí cịn đến cả Miến Điện. Sau hơn một thập kỉ, nhà Minh giànhthắng lợi nhưng lại đối mặt với sự mất mắt lớn về quân sự và cả những bất ổn chính trịchưa thể giải quyết được. Trước sự suy yếu như thế, nhà Minh đã tăng cường các hoạtđộng bang giao, trong đó với Đại Việt ta nhằm khơi phục lại tình thế đất nước.
Cũng trong thời kỳ ấy, Đại Việt ta lại chứng kiến một sự phát triển vượt bậc, cường thịnhdưới các đời vua Lê. Nước ta được khôi phục và phát triển về các mặt kinh tế, chính trị,văn hóa và giáo dục, trong đó một số lĩnh vực đã chạm đến cột mốc đỉnh cao trong suốtgiai đoạn thời phong kiến. Kinh tế theo Lê sơ chủ yếu chạy theo nền kinh tế phát triểntồn diện về nơng nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp. Nhờ vào những chính sách
<small>10</small>
</div>