Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bình luận vụ án “công chức đòi lương, tòa hành chính xử?”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.24 KB, 8 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Chương I: Tóm tắt sự việc và một số khái niệm cơ bản </b>

- Tháng 12-2012, TAND TP Nha Trang đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do “vụ án khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của tịa án”. Không đồng ý, bà V. kháng cáo quyết định này lên TAND tỉnh Khánh Hòa. Tháng 3-2013, TAND tỉnh Khánh Hòa đã mở phiên họp để xét đơn kháng cáo của bà Vinh và bác bỏ đơn của bà Vinh với cùng lý do.

- Nhận được quyết định phúc thẩm, bà Vinh đã khởi kiện Trường ĐH Nha Trang bằng một vụ án hành chính nhưng yêu cầu khởi kiện thì vẫn giữ nguyên như ban đầu. Cuối năm 2013, bà nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện từ TAND TP Nha Trang. Trong thông báo này, tịa đưa ra lý do là vụ kiện cũng khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Khơng đồng tình, bà Vinh đã khiếu nại lên TAND tỉnh Khánh Hòa nhưng bị chánh án TAND tỉnh Khánh Hòa bác đơn.

<b>2. Khái niệm </b>

<b>2.1. Công chức </b>

Căn cứ Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008 (Sửa đổi, bổ sung

<i>2019) quy định về khái niệm công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” </i>

<i><b>2.2. Về lương và phụ cấp của công chức </b></i>

Lương của công chức được cơ quan lãnh đạo, quản lý trả cho công chức theo ngân sách mà nhà nước đã đầu tư cho cơ sở công lập của cơ quan lãnh đạo, quản lý đó. Căn cứ vào điểm d) và điểm đ), khoản 3 điều 3 Nghị định 204/2004/NĐ-CP Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang:

<i>“…d) Thực hiện việc xếp lương, chế độ phụ cấp lương, nâng bậc lương, trả lương, quản lý tiền lương và thu nhập phải theo đúng đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, điều kiện, chế độ được hưởng và các quy định khác của cơ quan có thẩm quyền. </i>

<i>đ) Thực hiện chế độ tiền lương phải gắn với cải cách hành chính; bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề và giữa các loại cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.” </i>

Chế độ phụ cấp của công chức được cơ quan quản lý, lãnh đạo thực hiện đối với công chức trên cơ sở được quy định tại Điều 6 Nghị định 204/2004/NĐ-CP Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang

<b>Chương II: Bình luận về vụ án </b>

<b>I. Về phạm vi điều chỉnh của bộ luật </b>

Có hai luồng quan điểm chủ yếu được các học giả đề xuất:

<b>1. Đối tượng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của luật Lao động: </b>

Theo Th. S Cao Vũ Minh (giảng viên khoa Hành chính trường ĐH Luật Tp.HCM), các tranh chấp về tiền lương đều phải chịu sự điều chỉnh của bộ Luật Lao động và các bên giải quyết tranh chấp bằng thủ tục khởi kiện án lao động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Căn cứ theo Điều 1 Bộ luật Lao động, phạm vi điều chỉnh chủ yếu của bộ luật Lao động xoay quanh các mối quan hệ lao động, được hình thành nên thơng qua hợp đồng lao động. Xét mối quan hệ giữa công chức và nhà nước, công chức được phân công, làm việc tại các cơ quan nhà nước thông qua quyết định tuyển dụng cơng chức, khơng phải hình thức mua bán sức lao động giống như hợp đồng lao động. Căn cứ theo khoản 6, điều 3, cơng chức có thể hiểu là người làm việc khơng có quan hệ lao động. Vì vậy, vụ án này khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật lao động.

Về bản chất lương của người có quan hệ lao động và cơng chức cũng khác nhau. Người có quan hệ lao động được trả lương dựa trên quan hệ mua – bán sức lao động là chủ yếu. Nhưng đối với công chức, ngồi lương, họ cịn có những chế độ đãi ngộ và chính sách đối với cơng chức của nhà nước đối với họ. Mặc dù trên thực tế, có nhiều mối quan hệ lao động có những chế độ đãi ngộ đi kèm, nhưng đồng thời cũng tồn tại các mối quan hệ lao động đơn thuần dựa trên sự mua – bán sức lao động. Mặt khác, lương của người lao động phụ thuộc vào người dùng lao động, nhưng đối với công chức, lương của họ được căn cứ dựa trên bậc lương và vốn mà nhà nước đầu tư cho cơ quan đó. Do đó, khơng thể đồng hóa bản chất lương của người lao động bình thường và công chức.

<b>2. Đối tƣợng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính: </b>

Phần lớn các học giả cho rằng đối tượng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng hành chính.

Theo một kiểm sát viên cao cấp Viện Phúc thẩm 3 VKSND Tối cao, khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án gồm “khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính… và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức”.

Đối chiếu lại phần giải thích từ ngữ tại Điều 3 Luật Tố tụng hành chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó”.

Như vậy các quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của tịa bằng vụ kiện hành chính. Việc lãnh đạo cơ quan, tổ chức không trả lương, phụ cấp hay trả không đầy đủ cho công chức là hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Công chức không được trả lương, phụ cấp hoặc bị trả thiếu có quyền khởi kiện hành vi hành chính.

Luật sư Nguyễn Đức Chánh (Đồn Luật sư TP.HCM) phân tích: Bà Vinh là người thuộc biên chế của Trường ĐH Nha Trang, được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập nên được xác định là công chức (Điều 2 Nghị định 06/2010 của Chính phủ về căn cứ xác định công chức). Theo quy định, việc trả lương cho bà Vinh được thực hiện theo quy chế trả lương của Trường ĐH Nha Trang, nơi bà Vinh đang làm việc (khoản 1 Điều 8 Nghị định 204/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang). Hành vi trả lương, phụ cấp không đầy đủ cho bà Vinh theo quy chế trả lương của Trường ĐH Nha Trang (nếu có) là hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức (khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính). Hành vi hành chính này là đối tượng khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa (khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính)

Căn cứ theo khoản 3 và khoản 4 quy định về giải thích từ ngữ trong Luật tố tụng hành chính:

<i>“3. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>4. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại khoản 3 Điều này mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” </i>

Và khoản 1, điều 7 Bộ luật TTHC:

<i>“1. Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời u cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra.” </i>

Mối quan hệ giữa bà Vinh và ĐH Nha Trang là mối quan hệ giữa công chức và cơ quan, nhưng không phải là mối quan hệ lao động. Hành vi trả lương, phụ cấp không đầy đủ của ĐH Nha Trang là hành vi hành chính bị kiện, vì nó xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của bà Vinh – một người công dân. Do đó, đối tượng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của bộ luật TTHC.

<b>3. Đối tƣợng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật khiếu nại </b>

Ngoài hai luồng quan điểm phổ biến kể trên, vẫn cịn có thể kể đến luồng quan điểm ít phổ biến hơn cho rằng đối tượng của vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật khiếu nại. Tuy nhiên, luồng quan điểm này còn nhiều lỗ hổng.

<i>Khoản 8 Điều 2 của Luật Khiếu nại quy định: QĐHC là văn bản do CQHCNN hoặc người có thẩm quyền trong CQHCNN ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. </i>

<i>Khoản 9 Luật Khiếu nại quy định: HVHC là hành vi của CQHCNN, của người có thẩm quyền trong CQHCNN thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. </i>

Trong khi đó, Điều 3 Luật TTHC quy định:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. </i>

<i>2. HVHC là hành vi của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. </i>

Ta có thể thấy rằng, về phạm vi đối tượng, Luật khiếu nại tập trung vào các cơ quan hành chính nhà nước, cịn Luật tố tụng hành chính bao gồm cả các cơ quan, tổ chức khác. Mà trong vụ việc, ĐH Nha Trang là một đơn vị cơng lập của Tỉnh Khánh Hịa. Vì vậy, bà Vinh hồn tồn có thể lựa chọn khởi kiện ĐH Nha Trang bằng một vụ án hành chính.

<b>II. Về thẩm quyền của Tịa </b>

Xét tình tiết ban đầu của vụ án, bà Vinh đã kiện ĐH Nha Trang ra Tòa án nhân dân TP. Nha Trang. Tuy nhiên, TAND đã đình chỉ giải quyết vụ án với lý do “khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của tịa án”. Sau đó, bà tiếp tục kháng cao quyết định này lên TAND Tỉnh Khánh Hòa và tiếp tục bị bác đơn. Như đã chứng minh ở trên, mối quan hệ giữa bà Vinh và ĐH Nha Trang là giữa công chức và cơ quan, không phải một mối quan hệ lao động phổ thông được ràng buộc bởi hợp đồng lao động. Vì vậy, bà Vinh bị đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp về lương do “không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án” là đúng.

Sau đó, bà Vinh tiếp tục khởi kiện ĐH Nha Trang bằng một vụ án hành chính. Trong mối quan hệ giữa bà Vinh và ĐH Nha Trang, bà Vinh cho rằng hành vi hành chính của ĐH Nha Trang – cụ thể ở đây là việc trả lương và phụ cấp – là chưa đầy đủ. Việc trả lương là việc nội bộ của cơ quan, và là đối tượng khiếu kiện hành thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Khoản 1 Điều 28 Bộ luật TTHC). Do đó, bà Vinh hồn tồn có quyền khởi kiện hành chính ĐH Nha Trang.

Việc TAND Tp. Nha Trang không giải quyết và trả lại đơn kiện cho bà Vinh là bất hợp lý. Căn cứ theo luật TTHC, bà Vinh có quyền khởi kiện nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân khi ĐH

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Nha Trang – nơi bà cơng tác – có hành vi hành chính khơng đáp ứng đủ công vụ, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Danh sách nguồn tham khảo

<small>chức và lực lượng vũ trang </small>

<small>(lapphap.vn)</small>

</div>

×