Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức các cơ quan hành chính thuộc uỷ ban nhân dân huyện tam đường, tỉnh lai châu theo tiếp cận phát triển cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.98 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ TRỌNG THI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CHO CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC ỦY BAN
NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU
THEO TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
MÃ SỐ: THÍ ĐIỂM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ TRỌNG THI

HÀ NỘI- 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ TRỌNG THI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TAM
ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU THEO TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
MÃ SỐ: THÍ ĐIỂM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Từ Đức Văn

HÀ NỘI - 2020
2


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tôi đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp. Với tình cảm chân thành, tác giả
luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã trang bị vốn kiến thức lý luận về khoa học giáo dục, giúp cho em nghiên
cứu và hoàn thiện đề tài.
Đặc biệt, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Từ Đức
Văn, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ cũng như tạo cho em
sự tự tin trong quá trình tiến hành nghiên cứu để hoàn thành luận văn này theo kế
hoạch.
Tác giả luận văn cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới bạn bè, gia
đình và đồng nghiệp trong thời gian qua đã động viên và giúp đỡ, tạo điều kiện
giúp tác giả nghiên cứu, khảo sát và cung cấp thông tin, tư liệu cho luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu song luận văn không
tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý quý báu của các thầy
giáo, cô giáo, các nhà khoa học trong Hội đồng và các bạn đồng nghiệp để luận văn
được hoàn thiện hơn.
TÁC GIẢ

Đỗ Trọng Thi


3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC
ĐCSVN
CNXH
HĐND
UBND
QPPL
CV
ĐĐCV
GDĐĐ
LLCT
ĐTBD
CNH- HĐH
KT- XH
CT- XH
MTTQ

Cán bộ, công chức
Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Quy phạm pháp luật
Công vụ
Đạo đức công vụ
Giáo dục đạo đức
Lý luận chính trị

Đào tạo bồi dưỡng
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
Kinh tế - xã hội
Chính trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ ĐỐI VỚI
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THEO TIẾP
CẬN
PHÁT
TRIỂN
CỘNG
ĐỒNG…………………………………………………....11
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề…………………...………………………...…..11
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài……………….…………………………...13
1.2.1. Cán bộ, công chức cơ quan hành chính………………………………….....13
1.2.2. Giáo dục đạo đức công vụ…………………………………………………..19
1.3. Cơ sở pháp lý về đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức…………………..29
1.4. Lý luận về đạo đức công vụ và giáo dục đạo đức công vụ cho cán bộ, công
chức cơ quan hành chính cấp huyện theo tiếp cận phát triển cộng
đồng…………33
1.4.1. Cơ sở về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức……….…………………33
1.4.2. Giáo dục đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính
thuộc UBND huyện theo tiếp cận cộng đồng……………………………………..37
1.5. Yêu cầu giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức trong cơ quan

hành chính thuộc UBND cấp huyện theo tiếp cận cộng đồng trong giai đoạn hiện
nay………………………………………………………………………………….41
1.6. Kinh nghiệm giáo dục đạo đức công vụ của một số quốc gia………………..43
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC UỶ BAN NHÂN
DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU THEO TIẾP CẬN PHÁT
TRIỂN CỘNG ĐỒNG……………………………………………………………46
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Tam Đường, cơ cấu tổ chức bộ máy
tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam Đường,
tỉnh Lai Châu……………………………………………………………………….46
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Tam Đường…………………….46
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính
thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu…………………………………..48
2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan hành chính
thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu……………………………….….49
2.2.1. Số liệu thống kê……………………………………………………………...49
2.2.2. Phân tích số liệu thống kê…………………...………………………………51
2.3. Thực trạng thi hành công vụ và giáo dục đạo đức công vụ cho cán bộ, công
chức các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu…..53
2.3.1. Tổ chức tiến hành khảo sát…………………………………………………..53
2.3.2. Kết quả khảo sát, đánh giá…………………………………………………..55
2.4. Đánh giá thực trạng……………………………………………………………70
2.4.1. Những ưu điểm…………………………………………...…………………70
2.4.2. Những tồn tại cần khắc phục………………………………………………..71
5


2.4.3. Nguyên nhân của thực trạng……………………………………………...…71
Chương 3. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC ỦY BAN NHÂN

DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU THEO TIẾP CẬN PHÁT
TRIỂN CỘNG ĐỒNG…………………………………………………….
……...74
3.1. Mục tiêu và nguyên tắc……………………………...………………………...74
3.1.1. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể (13)……………………………………..74
3.1.2. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp……………………..…………………….75
3.2. Biện pháp giáo dục đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức các cơ quan hành
chính thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận phát triển cộng
đồng…………………………………………...……………………………………77
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và các lực lượng cộng đồng về vai
trò của giáo dục đạo đức cho cán bộ, công chức trong thực thi công vụ………….77
3.2.2. Giáo dục pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức..78
3.2.3. Tổ chức bồi dưỡng các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và vận dụng phương pháp nêu gương của Người để giáo
dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức…………………………………..80
3.2.4. Giáo dục đạo đức công vụ thông qua sinh hoạt tập thể cơ quan……………88
3.2.5. Chú trọng giáo dục ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức công vụ của cán bộ,
công chức thông qua hoạt động trải nghiệm tại cộng đồng……………………….90
3.2.6. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức mới
bổ nhiệm, tuyển dụng……………………………………………………………...93
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp………………………………………….…..95
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp giáo dục đạo đức
công vụ đối với cán bộ, công chức các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam
Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận, phát triển cộng đồng……………….……….95
3.4.1. Tiến hành thăm dò ý kiến………………………………………………..….95
3.4.2. Xử lý và phân tích thông tin……………………………………………..….96
3.4.3. Kết quả thăm dò tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp…………….96
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………..…………102
1. Kết luận………………………………………………………………………...102
2. Kiến nghị………………………………...……………………………………..102

2.1. Đối với tỉnh Lai Châu………………………………………………………..102
2.2. Đối với huyện Tam Đường…………………………………………………..103
2.3. Đối với cán bộ, công chức…………………………………………………...103
2.4. Đối với các lực lượng cộng đồng………………………………………….…103

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Đạo đức là gốc của người cách
mạng", Người ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, "Muốn việc
thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản
Việt Nam luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đây
chính là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay cho thấy, sự nghiệp cách mạng của nước ta vừa có
những thuận lợi, vừa có những khó khăn thách thức đan xen. Nhiều vấn đề mới nảy
sinh cần có sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã hội. Sự khủng
hoảng về đạo đức, sự “lệch chuẩn, loạn chuẩn” đang là mối lo ngại đối với mỗi cán
bộ, công chức và nhân dân. Hơn nữa, các thế lực thù địch ngày càng ráo riết chống
phá cách mạng Việt Nam bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Việc giáo dục đạo
đức cho đội ngũ CBCC ở huyện Tam Đường nói riêng và cả nước nói chung có ý
nghĩa chính trị to lớn, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, là nhiệm vụ quan trọng,
góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập và toàn cầu hóa.
Luật CBCC (năm 2008) ra đời và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
cán bộ, công chức và viên chức (2019) đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc
phân định rõ giữa đội ngũ CBCC làm việc trong các cơ quan hành chính với đội ngũ
viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà nước. Qua đó, tạo
điều kiện thuận lợi để tập trung xây dựng, hoàn thiện và phát triển đội ngũ CBCC,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính Nhà

nước. Một điểm quan trọng của Luật CBCC đó là lần đầu tiên đã dành hai mục tại
Chương I để quy định về đạo đức công vụ, trong đó quy định mang tính nguyên tắc
về đạo đức công vụ là "CBCC phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong hoạt động công vụ" (Điều 15). Từ quy định mang tính nguyên tắc trên, các
quy định về đạo đức công vụ, xác định các chuẩn mực mang tính nghĩa vụ phải thực
hiện đối với công chức trong mối quan hệ công sở; mối quan hệ với Nhân dân trong
thực thi công vụ; những điều công chức không được làm trong thực thi công vụ
(Điều 16, 17, 18) được nêu rất cụ thể, rõ ràng.
Trong những năm gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) càng đặc biệt
quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cho các thế hệ nói chung và cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, đảng viên nói riêng. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã
nhấn mạnh “Các tổ chức Đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng
viên về đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, gương mẫu, giữ gìn phẩm
chất người chiến sĩ cộng sản”. Từ năm 2000 cho đến nay Đảng ta đã ra nhiều Chỉ thị, Nghị
7


quyết tiếp tục thực hiện nâng cao đạo đức cách mạng cho Đảng viên, CBCC thông qua
học tập, rèn luyện, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Gần đây, Nghị quyết số
04-NQ/TW (2016) của BCH Trung ương Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. (7, 9)
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta hiện nay, ngoài việc phải có những quy định pháp luật phù hợp để duy trì
và phát huy các giá trị của nền công vụ, thì việc hình thành các chuẩn mực về tư cách
đạo đức công vụ của người CBCC là rất quan trọng; nó tác động, ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng, hiệu quả, tiến độ thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Mỗi thái độ, lời nói, việc làm có lý, có tình, có trách nhiệm của
người CBCC khi tiếp xúc, giải quyết công việc, giải quyết nhu cầu chính đáng của
người dân sẽ có tác dụng lôi kéo, khích lệ họ chấp hành chính sách, pháp luật và tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Ngược lại, sẽ làm họ thất vọng, phản
ứng, không hợp tác, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của
Nhà nước. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay vẫn bộc lộ những yếu kém,
bất cập; năng lực và phẩm chất của một bộ phận CBCC còn yếu; trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của CBCC chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu công việc; tính chủ
động, ý thức trách nhiệm với công việc được giao còn thấp; khả năng quản lý, điều
hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận CBCC thoái hoá, biến chất, tham ô, nhũng nhiễu
phiền hà, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công việc; kỷ luật hành chính lỏng
lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng. Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến
uy tín, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và điều hành Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của
Nhân dân. Trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới đặt ra đòi hỏi bức thiết phải GDĐĐ công vụ cho đội ngũ
CBCC nói chung trong đó có đội ngũ CBCC ở các cơ quan hành chính nói riêng.
Tam Đường là huyện được chia tách từ huyện Phong Thổ và được thành lập
năm 2002; đội ngũ CBCC của huyện đa số đều trẻ, đang từng bước được chuẩn hoá
về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, năng lực thực thi công vụ, kỹ năng xử lý
các vấn đề mới... nhằm nâng cao đạo đức công vụ đối với CBCC của huyện Tam
Đường nói chung, các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện nói riêng. Điều đó đòi
hỏi cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC nói chung và CBCC ở các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam
Đường nói riêng; trong đó có việc giáo dục đạo đức công vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong giai đoạn hiện nay để phát triển văn hóa - xã hội, kinh tế... của địa phương,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước (13).

8


Từ các lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức công vụ đối với
cán bộ, công chức các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam
Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận phát triển cộng đồng” làm đề tài Luận văn

cao học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng GDĐĐ công vụ đối với CBCC
trong các cơ quan hành chính thuộc thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai
Châu; từ đó đề xuất một số biện pháp GDĐĐ công vụ đối với CBCC trong các cơ
quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đường theo tiếp cận phát triển
cộng đồng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục đạo đức công vụ đối với CBCC các cơ quan hành chính
thuộc Uỷ ban nhân dân huyện theo tiếp cận cộng đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục đạo đức công vụ đối với CBCC các cơ quan hành chính
thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận cộng đồng.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đạo đức của đội ngũ CBCC trong các cơ quan hành chính thuộc
Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp cách mạng, còn có biểu hiện như: ích kỷ, cục bộ, xa dân, quan liêu,
hách dịch,....làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu quan trọng
đã được UBND huyện xác định. Nếu đề xuất được các biện pháp phù hợp với lý
luận và thực tiễn về GDĐĐ công vụ cho CBCC theo tiếp cận phát triển cộng đồng
thì sẽ nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho CBCC các cơ quan hành chính, góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ CBCC huyện Tam Đường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận về đạo đức công vụ, giáo dục đạo đức công vụ cho
cán bộ, công chức cấp huyện theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức công vụ đối
với cán bộ, công chức các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam
Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
5.3. Đề xuất biện pháp giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức

các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu
theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
5.4. Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.

9


6. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu về GDĐĐ công vụ cho CBCC các cơ quan
hành chính thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận phát triển
cộng đồng.
- Thời gian: Nghiên cứu thực trạng GDĐĐ công vụ ở các cơ quan hành chính
thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu từ năm 2015 đến 2020.
- Không gian: Chỉ nghiên cứu trên địa bàn huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
7. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp các nhóm nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tìm hiểu và phân tích, khái quát hóa các quan điểm lý luận thể hiện trong
các chuyên khảo, bài báo, các tài liệu chuyên môn và cơ sở pháp lý liên quan đến
nội dung đề tài luận văn. Đây là cơ sở hình thành khung lý luận về GDĐĐ cho
CBCC khối cơ quan hành chính Cấp huyện theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học: Khảo sát bằng phiếu hỏi đối với đội ngũ
CBCC hiện đang làm việc tại các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân huyện
Tam Đường (Phụ lục 1, 2).
- Phỏng vấn: phỏng vấn ông Từ Hữu Hà – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch
UBND huyện Tam Đường về “Hiệu quả của công tác GDĐĐ công vụ cho CBCC
thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng”.
- Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Từ việc phân tích thực trạng
GDĐĐ công vụ đối với CBCC các cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam

Đường, tỉnh Lai Châu để rút ra những kết luận, trên cơ sở đó đề xuất một số biện
pháp GDĐĐ công vụ đối với CBCC làm việc trong các cơ quan hành chính thuộc
UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Ngoài các phương pháp trên tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê toán
học xử lý số liệu thống kê nhằm bổ sung, minh chứng các kết quả định lượng.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt khoa học: Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận về GDĐĐ
công vụ cho CBCC nói chung và CBCC các cơ quan hành chính thuộc UBND cấp
huyện nói riêng theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
- Về mặt thực tiễn: Phát hiện những hạn chế, bất cập về GDĐĐ công vụ cho
CBCC khối cơ quan hành chính thuộc UBND huyện Tam Đường qua khảo sát thực
trạng; từ đó đề xuất các biện pháp GDĐĐ công vụ cho CBCC tại các cơ quan hành
chính thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận cộng đồng.
10


9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công
chức trong các cơ quan hành chính theo tiếp cận phát triển cộng đồng.
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức
các cơ quan hành chính thuộc Uỷ ban nhân dân Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp
cận phát triển cộng đồng;
Chương 3: Biện pháp giáo dục đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức các cơ
quan hành chính thuộc UBND huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo tiếp cận phát triển
cộng đồng.

11



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THEO
TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đối với người cán bộ, công chức, đạo đức là gốc, là nền tảng để quyết định
mọi vấn đề và có liên quan đến chất lượng thực thi công vụ; sinh thời Bác Hồ có
dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó”. Việc bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ
luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng. Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức cách mạng của người cán bộ. Người
chỉ rõ: “Cán bộ là cái dây truyền của bộ máy” và “Cán bộ chính là những người
đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở
thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [14; Tr.24] điều đó cho thấy vai
trò và tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với người đảng viên, cán bộ, công
chức có ảnh hưởng quan trọng tới uy tín, thanh danh của Đảng, có sức cảm hóa,
thuyết phục, tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp cách mạng. Trong hai tiêu chuẩn cơ bản “đức” và “tài” của
người cán bộ, đảng viên thì đức phải là cái gốc, đức quyết định sự thành công của
người cán bộ “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [16;
Tr.327].
Cán bộ, công chức và giáo dục đạo đức công vụ có mối quan hệ biện chứng
trong việc rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của người cán bộ, công chức. Đó là mối
quan hệ giữa Hiến pháp, pháp luật với năng lực công tác của người CBCC. Tôn trọng
và thực hiện Hiến pháp, pháp luật vừa là nghĩa vụ pháp lý, vừa là nghĩa vụ đạo đức
công vụ của người CBCC, vì Hiến pháp, Pháp luật đã hàm chứa trong đó những quy
tắc đạo đức và các yếu tố văn hóa dân tộc.
Hiện nay, đạo đức, lối sống của CBCC đang chịu sự tác động, chi phối của

nhiều yếu tố. Trong đó đáng chú ý là: diễn biến chính trị rất phức tạp trên thế giới;
sự tác động của nền kinh tế thị trường; sự du nhập của văn hóa, lối sống nước
ngoài; các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực của CBCC trong hệ thống chính trị; sự
chống phá của các thế lực thù địch... Những tác động đó đang làm thay đổi thang
giá trị đạo đức xã hội. Mặc dù những thành tựu của công cuộc đổi mới là yếu tố rất
cơ bản tác động tích cực đến đạo đức, lối sống của CBCC; song mặt trái của cơ chế
thị trường và các tác động tiêu cực khác đang làm xói mòn đạo đức, lối sống, đe dọa
nghiêm trọng sự trong sạch, vững mạnh của Đảng ta.

12


Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu
vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức công vụ nói riêng; mối quan hệ giữa CBCC
với công dân, với cộng sự trong thi hành công vụ; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và
năng lực của CBCC trong hoạt động công vụ; kỹ năng giao tiếp và văn hóa công vụ.
Có thể điểm qua một số công trình như: Nguyễn Hồng Điệp (2014), một số kinh
nghiệm nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ tiếp công dân; Lê Như Thanh (2009),
cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công chức Việt
Nam hiện nay; Nguyễn Thị Hồng Hải (2013), một số vấn đề cần quan tâm nhằm
nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong công vụ; Tô Tử Hạ, Trần Anh
Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo (2002), đạo đức trong nền công vụ; Phạm Hồng Thái
(2004), công vụ nhà nước; Ngô Thành Can (2012), công chức và chất lượng thực thi
công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước; Lưu Kiếm Thanh, Nguyễn Đồng Minh
(2014), đào tạo và bồi dưỡng các giá trị nhân văn công vụ cho cán bộ, công chức;
Lý Thị Huệ, Đặng Văn Luận (2013), đạo đức công vụ trong nền công vụ ở nước ta
hiện nay…
Đạo đức công vụ, năng lực thực thi công vụ của CBCC có vai trò rất quan
trọng trong đời sống xã hội. Tác giả Hồ Sĩ Vịnh (1999) ví: đạo đức công chức như
“một cái phanh hãm để ngăn chặn sự suy thoái của thể chế, của bản thân công chức.

Nó là sức mạnh tự bảo vệ để con người công chức và thể chế nhà nước không tự đánh
mất mình, không rơi vào tình trạng tự huỷ hoại… Đạo đức công chức còn là động lực
tinh thần, giá trị văn hoá thúc đẩy xã hội phát triển, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước” [39;Tr.56,139]. Nguyễn Minh Phương (2004) trong nghiên cứu kinh
nghiệm tăng cường đạo đức công vụ của một số nước trên thế giới, cho thấy vấn đề
đạo đức công chức khu vực công được nhiều nước hết sức quan tâm, coi trọng. Việc
giáo dục đạo đức công vụ ở một số nước được thực hiện ngay khi công chức mới
được tuyển dụng và trong suốt thời gian công tác. Nguyễn Thị Vân Hương (2014) thì
cho rằng năng lực thực thi công vụ của CBCC thể hiện thông qua kết quả công việc
và phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Thái độ và hành vi ứng xử của CBCC đối
với công dân trong hoạt động công vụ là cầu nối quan trọng không chỉ thể hiện trong
mối quan hệ giao tiếp mà còn thể hiện hình ảnh của cơ quan công quyền, hình ảnh
nhà nước với công dân. Đào Thị Ái Thi (2008) trong nghiên cứu đã cho ta thấy trong
thực thi công vụ nếu CBCC chỉ biết làm theo nguyên tắc hành chính đơn thuần mà
không biết thuyết phục quần chúng hoặc ngược lại, đều không mang lại hiệu quả
trong công việc. Vì thế, bên cạnh những đặc trưng cơ bản của người CBCC phải tuân
thủ như: Tính chính xác, minh bạch, khách quan, nghiêm túc, tính khuôn mẫu và quy
phạm thì người CBCC cần tu dưỡng đạo đức cách mạng; khiêm tốn, tích cực học tập,
nâng cao kiến thức chuyên môn, rèn luyện tư thế tác phong trong giao tiếp thực thi
13


công vụ (35). Lê Đình Mùi (2015) đã tập trung đánh giá làm rõ những ưu điểm,
những hạn chế, tính khả thi của các quy định pháp luật về đạo đức công vụ, công
chức từ đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về đạo đức công vụ, công
chức (23).
Trên thế giới, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBCC rất đa dạng và khác nhau
ở mỗi nước nhưng đều nhằm mục đích nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức
nguồn nhân lực, góp phần xây dựng một nền hành chính công minh bạch, hiện đại.
Ở Việt Nam, việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC vừa có nét chung của các nước, lại vừa

có những đặc thù riêng. Theo Quy chế đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công
chức của Chính phủ đơn vị thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước
ta hiện nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ; trường chính
trị các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trường (Trung tâm) ĐTBD cán bộ,
công chức của các bộ, ngành; Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở các huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Trong những năm qua hoạt động ĐTBD ở Việt Nam đã có
những đóng góp đáng kể trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC và công tác
cải cách hành chính các cấp ở nước ta. Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả
đã công bố ở trên đều bàn về vai trò quan trọng, đưa ra các nhiệm vụ, nội dung, giải
pháp thực hiện nhằm nâng cao giáo dục đạo đức công vụ cho CBCC trong hệ thống
chính trị của mỗi nước, trong đó có nước ta. Đây là cơ sở quan trọng để chúng tôi
tiếp tục nghiên cứu đề tài luận văn giáo dục đạo đức công vụ cho CBCC thuộc cơ
quan hành chính cấp huyện theo tiếp cận phát triển cộng đồng. Với kết quả nghiên
cứu này góp phần góp phần nhỏ bé của mình cho đội ngũ CBCC của huyện nhà
trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, nâng cao đạo
đức cách mạng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ CBCC hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Cán bộ, công chức cơ quan hành chính
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Khái niệm "cán bộ" được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa, thuật
ngữ này khi đó thường dùng là "cán bộ, công nhân viên chức", bao gồm tất cả những
người làm công hưởng lương từ nhà nước, kể từ những người đứng đầu một cơ quan tới
các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo vệ hay lao động tạp vụ.
Ở nước ta cụm từ "cán bộ", ban đầu được dùng nhiều trong quân đội để phân
biệt chiến sĩ và cán bộ, chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở
lên. Dần dần, từ "cán bộ" được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng
chiến thoát li, để phân biệt với nhân dân.

14



Do những điều kiện lịch sử nhất định, suốt một thời gian dài ở Việt Nam tồn
tại một tập hợp khái niệm "cán bộ, công nhân, viên chức" cho tất cả những người
làm việc cho Nhà nước, không có sự phân biệt rõ ràng giữa cán bộ, công chức, viên
chức. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000,
2003) đề cập tới ba đối tượng cán bộ, công chức, viên chức tuy nhiên, Pháp lệnh
vẫn chưa phân biệt rạch ròi giữa khái niệm “cán bộ”, “công chức” và “viên chức”
mà quy định chung các đối tượng "cán bộ, công chức" là công dân Việt Nam, trong
biên chế. Có thể nói, thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng như là một ước lệ, chưa thể
hiện tính chất hành chính, chưa rõ nội hàm của khái niệm.
Cụ thể hóa Pháp lệnh CBCC, Chính phủ đã ban hành các Nghị định bàn về
CBCC xã, phường, thị trấn; về chế độ công chức dự bị; về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý CBCC trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội; về tuyển dụng, sử dụng và quản lý CBCC trong các cơ quan nhà
nước. Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp lệnh và các nghị định chúng ta có
thể hiểu cán bộ là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Ngày nay, khái niệm cán bộ dùng để chỉ những người được biên chế vào làm
việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước và sĩ quan
trong lực lượng vũ trang. Ngoài ra, cán bộ được coi là những người có chức vụ, vai
trò nòng cốt trong một cơ quan, tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của
cơ quan, tổ chức và liên quan đến vị trí lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp
phần quyết định xu hướng phát triển của cơ quan, tổ chức.
Luật CBCC (2008) đã quy định cụ thể: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [Điều 4].

Như vậy, đến nay khái niệm cán bộ đã được quy định rõ ràng, cụ thể, xác định rõ
nội hàm, đó là những người giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan
thuộc hệ thống chính trị Việt Nam, từ Trung ương đến cấp huyện và tương đương.
1.2.1.2. Khái niệm công chức
Công chức là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
để chỉ những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong các
cơ quan nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do tính đặc thù
của từng quốc gia nên quan niệm về công chức ở các nước không hoàn toàn thống
nhất. Sự khác nhau này thể hiện trong các quan điểm dưới đây:
15


- Quan điểm thứ nhất xuất phát ở các nước XHCN đồng nhất hoạt động công
vụ với hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng, đoàn thể dẫn đến quan niệm về khái
niệm công chức không chỉ bao gồm các đối tượng làm việc trong cơ quan nhà nước
(cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) mà cả trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, thậm
chí trong cả các đơn vị sản xuất.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, công chức bao gồm những người làm việc trong
bộ máy nhà nước nói chung, tương ứng với quan niệm công vụ là hoạt động của toàn
bộ bộ máy nhà nước (bao gồm hoạt động của công chức trong cơ quan quyền lực, xét
xử, kiểm sát và cơ bản nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước).
- Quan điểm thứ ba cho rằng, công chức bao gồm những người hoạt động
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và bộ máy phục vụ của các
cơ quan nhà nước khác, giữ một công vụ thường xuyên, ổn định.
- Quan điểm thứ tư thuần túy cho rằng, công chức chỉ bao gồm những đối
tượng phục vụ trong bộ máy hành chính, giữ một chức vụ thường xuyên và ổn định,
quan niệm này xuất phát từ chỗ coi công vụ nhà nước chỉ là hoạt động của các cơ
quan hành chính.
Từ những quan niệm trên về công chức nên ở những nước khác nhau cũng có
những quy định khác nhau về đối tượng này.

Ở Pháp, khái niệm công chức rất rộng, người công chức được phân thành hai
loại. Loại thứ nhất là những nhân viên công chức làm việc thường xuyên trong bộ
máy nhà nước, bị chi phối bởi Luật công chức; loại thứ hai là những nhân viên công
chức bị chi phối bởi Luật lao động, bởi bản hợp đồng và luật tư. Họ được nhà nước
hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong các công
sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện.
Ở Trung Quốc, khái niệm công chức nhà nước dùng để chỉ những người
công tác trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, từ nhân viên phục vụ.
Gồm hai loại: Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính
nhà nước, được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến
pháp, Điều lệ công chức và Luật tổ chức chính quyền các cấp; và công chức nghiệp
vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ
nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số công chức
nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật.
Ở Mỹ, công chức bao gồm tất cả những nhân viên hành chính của Chính phủ,
kể cả những người được bổ nhiệm về Chính trị như Bộ trưởng, Thứ trưởng, trợ lý Bộ
trưởng, người đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy nhiên, khái niệm công chức trong
diện điều chỉnh của Luật Công chức lại không bao gồm những công chức được bổ
nhiệm về chính trị, họ được gọi là công chức chức nghiệp. Đặc điểm của công chức
16


Mỹ là không mang tính thường xuyên liên tục mà tồn tại hệ thống thải loại; việc tuyển
chọn, bổ nhiệm công chức chủ yếu theo công trạng thực tế, công chức chỉ được tuyển
dụng vào một công việc cụ thể mà không có con đường chức nghiệp.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành gắn liền với sự phát triển
của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công
chức là Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1950, tại Điều 1
quy định “công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân
tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay

ngoài nước, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Sau đó, do nhu cầu
bổ sung nhân lực trong bộ máy nhà nước ngày càng tăng, thực tiễn khi đó không có
đủ nguồn nhân lực phù hợp với những tiêu chuẩn quy định đối với công chức theo
Quy chế nên suốt một thời gian dài sau đó, chế độ công chức dần được thay thế
bằng chế độ “cán bộ, công nhân viên chức” bao gồm tất cả những người làm việc
trong các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế nhà
nước. Tất cả đều thuộc biên chế nhà nước, được gọi là “cán bộ, công nhân viên chức
nhà nước” chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, công nhân, viên chức theo cách
quan niệm có tính truyền thống đã hình thành trước đó. Do vậy, pháp luật không tiếp
tục đi theo hướng điều chỉnh có tính chuyên biệt đối với từng đối tượng lao động
phục vụ trong các cơ quan, tổ chức sự nghiệp của nhà nước (14,15).
Thuật ngữ công chức được sử dụng trở lại tại Nghị định số 169-HĐBT (1991)
của Hội đồng Bộ trưởng về công chức có xu hướng mới trong sự điều chỉnh của pháp
luật đối với hoạt động công vụ và về công chức. Theo quy định tại Nghị định số 95
(1998) và Nghị định số 117 (2003) bàn về "tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước” nhằm cụ thể hóa Pháp lệnh CBCC ban hành
trước đó và đã đề cập một cách rõ ràng hơn về khái niệm cán bộ, công chức; nhưng
vẫn chưa có sự phân biệt giữa công chức hành chính với công chức sự nghiệp.
Trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước
và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, Luật Cán bộ, công chức
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày
13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định rõ: “Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (CT - XH) ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức CT - XH, trong biên chế và hưởng lương từ
17



ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật” [Điều 4].
Từ định nghĩa trên ta thấy công chức dù hoạt động trong các cơ quan Đảng
hay cơ quan hành chính Nhà nước đều có những đặc điểm chung sau đây:
Thứ nhất, phải là công dân Việt Nam.
Thứ hai, về chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm: Công chức phải là người được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức CT - XH ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức CT - XH (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập).
Thứ ba, về nơi làm việc: Nơi làm việc của công chức rất đa dạng. Nếu như
cán bộ là những người hoạt động trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
CT - XH ở Trung ương, Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở Huyện, Quận,
Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh thì công chức còn làm việc ở cả cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ tư, về thời gian công tác: Công chức đảm nhiệm công tác từ khi được
bổ nhiệm, tuyển dụng cho tới khi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động mà
không hoạt động theo nhiệm kỳ như cán bộ (Điều 60 - Luật cán bộ, công chức năm
2008). Chấm dứt đảm nhiệm chức vụ khi đến tuổi nghỉ hưu: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ
55 tuổi (Quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 73 - Luật Bảo hiểm Xã hội năm 2014)
Thứ năm, về chế độ, công chức trong biên chế, được Nhà nước bảo đảm tiền
lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện KT XH của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn

hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp
và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Được hưởng tiền làm thêm giờ,
tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
1.2.1.3. Khái niệm cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính thuộc
UBND huyện
Qua nghiên cứu thực tế chúng tôi nhận thấy hiện nay chưa có một văn bản
riêng biệt nào trình bày về khái niệm công chức trong các cơ quan hành chính thuộc
Uỷ ban nhân dân huyện, tuy nhiên với đặc thù của mô hình nhà nước xã hội chủ
18


nghĩa ở Việt Nam thì vai trò lãnh đạo của Đảng là hết sức quan trọng. Mặt khác do
đồng nhất hoạt động công vụ với hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng cho nên
khái niệm công chức không chỉ bao gồm các đối tượng làm việc trong cơ quan nhà
nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) mà cả trong các tổ chức Đảng và đều
được gọi chung là cán bộ, công chức nhà nước. Đội ngũ CBCC này đều được điều
chỉnh chung bởi luật cán bộ, công chức và các văn bản khác của Đảng và Nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung của công chức nhà nước, công chức công tác ở
các cơ quan hành chính thuộc UBND có những đặc điểm riêng đó là: Là lực lượng
làm việc trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND có chức năng tham mưu, giúp
việc cho UBND lãnh đạo triển khai các chủ trương của cấp trên và ban hành các
chủ chương để thực hiện vai trò chức năng lãnh đạo của cấp mình. Về chế độ, công
chức công tác trong cơ quan hành chính thuộc UBND cũng được hưởng một số chế
độ khác theo quy định của Đảng và Nhà nước. Từ các Văn bản QPPL quy định về
CB, CC, theo chúng tôi:
Cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính thuộc UBND là công dân Việt
Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc ở các cơ quan ở Trung ương,
Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

CBCC ở các cơ quan hành chính thuộc UBND cấp huyện bao gồm người giữ
chức vụ, chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chánh Văn phòng, Phó Chánh
Văn phòng và người làm việc trong Văn phòng HĐND – UBND (Chánh Văn phòng,
Phó Chánh Văn phòng và người làm việc trong Văn phòng UBND nơi thí điểm
không tổ chức HĐND), người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc
trong cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân.
Từ Luật cán bộ, công chức (2008), đội ngũ cán bộ, công chức công tác ở 4 nhóm
cơ quan (Hình 1.2). Cá nhân nghiên cứu nhóm công chức trong cơ quan Nhà nước.

CÔNG CHỨC

Công chức trong cơ
quan của Đảng
Cộng sản Việt
Nam, tổ chức CT XH

Công chức
trong cơ quan
Nhà nước

Công chức
trong bộ máy
lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự
nghiệp công lập
lập.
19

Công chức
trong cơ quan,

đơn vị thuộc
Quân đội nhân
dân, Công an
nhân dân.


Thông thường việc phân loại công chức ở nước ta hiện nay theo hệ thống
chức nghiệp được thực hiện theo các tiêu chí như: Vai trò vị trí, chuyên môn nghiệp
vụ và trình độ đào tạo. Trong từng loại, lại có thể phân thành nhóm hay loại nhỏ
hơn. Chẳng hạn công chức ở các cơ quan hành chính thuộc UBND phân theo các
lĩnh vực: công chức làm việc, công tác văn phòng HDND, UBND, các phòng
chuyên môn thuộc UBND…(9)
Việc phân loại công chức là yêu cầu tất yếu của công tác quản lý nguồn nhân
lực. Phân loại công chức ở cơ quan hành chính thuộc UBND không những giúp cho
việc xây dựng quy hoạch đào tạo công chức đúng đối tượng theo yêu cầu nội dung,
công tác mà còn giúp cho việc tiêu chuẩn hoá đạo đức công vụ cho cán bộ, công
chức trong thực hiện công việc.
1.2.2. Giáo dục đạo đức công vụ
1.2.2.1. Khái niệm công vụ
Hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước chủ yếu được vận hành thông
qua nền công vụ và đội ngũ CBCC. CBCC Việt Nam nói chung, CBCC của các cơ
quan hành chính thuộc UBND cấp huyện nói riêng, được hình thành và phát triển gắn
liền với quá trình cách mạng nước ta qua các thời kỳ khác nhau, là những người được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước và nhân danh nhà nước thực hiện các công việc
trong nền công vụ, do vậy khái niệm công vụ và công chức luôn song hành cùng nhau.
Thuật ngữ “công vụ” được sử dụng tương đối phổ biến trong khu vực công
của nhiều quốc gia hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, các quan niệm về công vụ ở
các quốc gia lại không giống nhau. Và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ,
đặc biệt trong các thể chế và văn bản QPPL về công vụ, công chức cũng chưa có
một định nghĩa rõ ràng về thuật ngữ công vụ.

Theo nghĩa rộng “công vụ” là thuật ngữ chỉ khu vực công tương ứng với “Hệ
thống chính trị”, chủ thể trực tiếp là cán bộ, công chức, viên chức của cả hệ thống
này trong thực thi chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền qui định. Theo
cách hiểu này công vụ là các việc công. Các việc này được thực hiện vì lợi ích
chung, lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước.
Theo nghĩa hẹp “công vụ” là thuật ngữ chỉ khu vực của “Nhà nước” tương
ứng với chủ thể là các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước và cán bộ, công
chức trực tiếp hoạt động trong các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp)
thực thi chức năng, nhiệm vụ công do cấp có thẩm quyền qui định. Đây cũng chính
là cách quan niệm về công vụ của nhiều nước trên thế giới. Theo cách hiểu này,
công vụ gắn liền với con người làm việc cho nhà nước và những công việc của nhà
nước do những con người đó thực hiện. Chính vì vậy, ở nhiều nước hai khái niệm
công vụ và công chức luôn gắn liền chặt chẽ với nhau.
20


Theo nghĩa hẹp hơn, “công vụ” được giới hạn trong hoạt động hành pháp của
cán bộ, công chức thuộc khu vực hành chính nhà nước mà không tính đến các hoạt
động lập pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước.
“Công vụ” cũng có thể hiểu theo một cách khác đó là nhiệm vụ của khu vực
công; là nhiệm vụ và trách nhiệm của nhà nước. Trước đây, có rất nhiều nhiệm vụ,
trách nhiệm công do nhà nước đảm nhận, thực hiện việc cung cấp các loại dịch vụ
công. Theo xu hướng chung đó, các loại nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước đang
dần chuyển một phần sang cho các khu vực khác. Do đó, với cách hiểu này thì công
vụ là thuật ngữ chỉ những công việc công do Nhà nước phải đảm nhận thực hiện
hoặc có trách nhiệm thực hiện.
Theo ý kiến cá nhân, chúng tôi cho rằng: Khi nói đến công vụ là nói đến hoạt
động phục vụ nhà nước, công vụ chỉ thuộc nhà nước, còn hoạt động của các tổ chức
chính trị hay chính trị - xã hội là việc riêng của các tổ chức đó, không nằm trong
phạm trù công vụ. Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, khái niệm về công vụ được

tiếp cận theo nhiều cách khác nhau. Như vậy, thuật ngữ công vụ cũng chỉ có tính
tương đối, không mang tính tuyệt đối.
Khái niệm công vụ dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều có các đặc điểm sau:
+ Đối tượng công vụ là công việc hay nhiệm vụ thuộc khu vực công;
+ Chủ thể công vụ là CBCC trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác thực hiện;
+ Hoạt động công vụ được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước hay một phần
từ ngân sách nhà nước, hoạt động phục vụ lợi ích công.
Như vậy, công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý,
được thực thi bởi đội ngũ CBCC nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã
hội hoặc những người khác khi được trao quyền nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước, cơ quan có thẩm quyền trong quá trình quản lý toàn diện
các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Công vụ là phục vụ Đảng, Nhà nước và
phục vụ Nhân dân.
1.2.2.2. Khái niệm đạo đức, đạo đức công vụ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng" [14;Tr.431]. Trong
xã hội hiện nay có nhiều quy tắc xã hội: chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, quy
tắc của các tổ chức xã hội, cộng đồng.... Những quy tắc này có quan hệ mật thiết,
tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất và có vai trò điều
chỉnh hành vi, cách xử sự của con người.
21


Đạo đức được hiểu là "Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá
nhân với tập thể, với xã hội" [16;Tr.595], "phẩm chất tốt đẹp của con người: sống có
đạo đức". Như vậy, đạo đức được hiểu ở một số phương diện sau: thứ nhất, đạo đức
là những chuẩn mực, những quy tắc trong hành vi, cách xử sự giữa con người với

con người; thứ hai, đạo đức là công lý, lẽ phải, chuẩn mực phù hợp với quy luật của
tự nhiên và xã hội, là "cái lẽ sống, lẽ phải, đạo ở đời"; thứ ba, đạo đức phẩm chất,
nét đẹp của con người. Đạo đức là cái lẽ phải, cái mà con người phải tuân theo, là
cái phải làm và cái không được làm.
Do đó, có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các
nguyên tắc, quy phạm hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở quan niệm về lẽ phải,
sự công bằng, về điều thiện, cái ác trong đời sống xã hội của con người, nhóm
người, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc gia, thể hiện ý chí, tâm tư tình cảm
của họ, nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội, ý thức, hành vi của con người và là căn cứ
để đánh giá hành vi, cách ứng xử của con người với nhau, được thực hiện một cách
tự giác bởi niềm tin, lòng nhân ái của con người, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận cộng đồng, xã hội.
Lịch sử xã hội loài người đã khẳng định tầm quan trọng của đạo đức trong quá
trình tổ chức thiết lập, duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Tùy theo trình độ
phát triển kinh tế - xã hội mà sự tác động của đạo đức đến cá nhân và xã hội có khác
nhau, cần xem xét đạo đức trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc
tư đến việc công, trong lao động sản xuất, học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày; ở
cả phạm vi gia đình và xã hội. Như vậy, đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các
quan hệ kinh tế - xã hội, mối quan hệ ứng xử của các thành viên trong cộng đồng, xã
hội; giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội và vì hạnh phúc
của con người trong xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội.
Cán bộ, công chức là một hợp phần của cộng đồng, xã hội, do đó đạo đức của
họ hàm chứa các yếu tố: đạo đức dân tộc mà họ xuất thân, đạo đức cộng đồng nơi mà
họ sinh sống, đạo đức xã hội như mọi thành viên xã hội khác, đạo đức của người
CBCC trong hoạt động công vụ. Đạo đức CBCC chứa đựng những yếu tố đạo đức
chung của thành viên xã hội, khi thực thi công vụ thì đạo đức của họ mới được biểu
hiện một cách đầy đủ nhất, đạo đức công vụ của CBCC là một bộ phận đạo đức của
người CBCC. Đạo đức CBCC thể hiện, xuất phát từ vị thế của người đó trong bộ máy
nhà nước, xã hội; khác với đạo đức của một công dân trong xã hội. Với cách tiếp cận
như vậy, đạo đức của CBCC bao gồm hai phần: đạo đức công vụ và đạo đức của

người đó ngoài công vụ, mỗi mặt có những đặc trưng riêng, tạo thành một thể thống
nhất đạo đức của người CBCC.

22


Đạo đức công vụ của CBCC gồm: đạo đức cách mạng, đạo đức cá nhân và
đạo đức nghề nghiệp; trong đó đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh
của người CBCC. Đạo đức cách mạng thể hiện ở tinh thần yêu nước nồng nàn, tận
tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đạo đức cá nhân của CBCC trước hết thể
hiện ở ý thức, niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; tôn trọng, giữ gìn
kỷ luật, kỷ cương, sống và làm việc theo pháp luật, có lối sống lành mạnh, không
tham ô, lãng phí, có trách nhiệm cao trong thi hành công vụ, có lòng nhân ái, vị tha,
ứng xử đúng đắn trong quan hệ gia đình, bè bạn và trong xã hội, có tinh thần hướng
thiện, hiếu học. Đạo đức nghề nghiệp của CBCC thể hiện trước hết ở lòng say mê,
cần mẫn, tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ.
Từ những vấn đề trên theo chúng tôi có thể hiểu:
Đạo đức công vụ là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự
trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận,
nghĩa vụ của CBCC trong hoạt động công vụ và những người khác khi được ủy
quyền thực thi công vụ.
Như vây, đạo đức công vụ của người CBCC gắn liền với đạo đức xã hội,
những chuẩn mực được xã hội coi là giá trị, nhưng đồng thời đạo đức công vụ còn
là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - thực thi công vụ của CBCC. Trong thi hành công
vụ, CBCC cần phải biến những quy định pháp luật thành những chuẩn mực đạo đức
công vụ, từ đó nêu cao tính tự giác, trách nhiệm phục vụ nhân dân, và ngược lại
phải thể chế hoá những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm

pháp luật. Do đó, đạo đức công vụ gắn chặt với quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm ,
những điều CBCC không được làm, cách ứng xử của CBCC khi thi hành công vụ
do pháp luật quy định.
Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức, bao
gồm hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ
công chức với tổ chức, công dân, thể hiện ở lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung,
ý thức việc cần phải làm và mong muốn được làm vì lợi ích chung đó.
Đạo đức công vụ của CBCC ở nước ta được xây dựng trên nền tảng triết lí
"Nhà nước của dân, do dân, vì dân"; với ý nghĩa nhân dân là chủ, CBCC là công
bộc của dân; giá trị cao nhất của đạo đức công vụ là phục vụ nhân dân, vì lợi ích
nhân dân. Do vậy, phát huy đạo đức công vụ chính là đề cao trách nhiệm phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân của người CBCC; từ đó củng cố lòng tin của người dân
vào nền công vụ.
23


1.2.2.3. Khái niệm giáo dục đạo đức công vụ
Giáo dục đạo đức là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức, từ
những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân (CBCC), thành những đòi hỏi
bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, hành vi, thói quen hành vi của
người được giáo dục. GDĐĐ công vụ nhằm hình thành thế giới tinh thần cao đẹp và
hoạt động thực tiễn phong phú, thể hiện niềm tin đạo đức, những hiểu biết về giá trị,
chuẩn mực đạo đức; đồng thời, thông qua kết quả hoạt động để khẳng định giá trị
đạo đức trong thực tiễn của cá nhân (CBCC)
Như vậy, nếu hiểu, giáo dục là “Tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra” thì giáo dục đạo đức công vụ là một bộ phận của quá trình giáo
dục chung đó. GDĐĐ công vụ là hoạt động tác động vào nhận thức, tình cảm, hành
vi, thói quen của CBCC nhằm làm cho CBCC hiểu về mối quan hệ, trách nhiệm của
mình với nhà nước, xã hội, cộng đồng; đặc biệt là nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ

và trách nhiệm khi thực thi công vụ.
Đạo đức công vụ là một bộ phận cơ bản trong nhân cách của mỗi người
CBCC, nó không phải tự nhiên mà có, quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện
phải chịu sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Kết quả của
GDĐĐ công vụ phải đánh giá bằng hoạt động tự giác thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm của CBCC. Để thực hiện tốt GDĐĐ công vụ, các chuẩn mực đạo đức phải
hướng con người đến những giá trị đích thực của cuộc sống, nghĩa là nó phải gắn
với hoạt động thực tiễn sinh động của mỗi CBCC, đồng thời xã hội phải tạo nên
môi trường và phương thức GDĐĐ công vụ phù hợp với nghề nghiệp, lứa tuổi để
mỗi người tự rèn luyện mình trong thực tiễn; phải được tổ chức bằng nhiều hình
thức khác nhau (ở trong nhà trường, ở tập thể đơn vị công tác, ở trải nghiệm thực
tiễn công vụ); phải tác động đến đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội của mỗi CBCC.
Đạo đức công vụ được xem xét từ hai góc độ:
Thứ nhất là góc độ của tồn tại người- đó chính là đạo đức của bản thân người
CB, CC. Nói cách khác chủ thể đạo đức công vụ là người công chức. Với tư cách là
công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực,
giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống, hoạt động.
Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp- có nghĩa với tư cách là công chức,
họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người
công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo
đức của nghề công chức. Ph.Ăngghen từng viết rằng: “Trong thực tế, mỗi giai cấp
và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình” [10;Tr.425]. Do đó,

24


việc giáo dục đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được
pháp điển hóa trong nền công vụ.
Từ những quan điểm trên có thể hiểu rằng:
Giáo dục đạo đức công vụ cho CBCC là những hoạt động, tác động có tổ

chức, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ vào nhận thức cá nhân CBCC, nhằm làm
cho họ hình thành và phát huy những phẩm chất, năng lực nhận thức; tự giác thực
hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong thực thi công vụ.
1.2.2.4. Khái niệm cộng đồng, tiếp cận phát triển cộng đồng
1.2.2.4.1. Khái niệm Cộng đồng
i) Khái niệm: Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng (Community) có
nhiều quan niệm khác nhau. Quan niệm cộng đồng thông thường bao gồm từ các
thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt
chẽ; đó là nhóm xã hội có lúc khá phân tán, chỉ được liên kết với nhau bằng lợi ích
chung trong một không gian tạm thời, với khoảng thời gian nhất định chẳng hạn
như: phong trào quần chúng, công chúng và đám đông. Cộng đồng người có tính đa
dạng, phức tạp hơn nhiều so với các cộng đồng sinh vật khác.
Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng có nhiều cách hiểu khác nhau,
đồng thời cộng đồng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau
như: xã hội học, dân tộc học, y học,…
- Theo nghĩa thông thường: Cộng đồng là nhóm người sống trong phạm vi
thôn, bản, các xã, phường của khu vực nông thôn và thành thị, đặc biệt là các vùng
nông thôn vùng sâu, vùng xa. Cộng đồng có những điểm giống nhau, có chung các
mối quan hệ nhất định và cùng chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố tác động và là đối
tượng cần được quan tâm trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hiện nay.
- Về mặt xã hội học; có thể phân thành hai dạng cộng đồng dựa trên cấu trúc
xã hội và tính chất liên kết xã hội:
(1) Dạng cộng đồng thể hiện mối quan hệ xã hội trong đó có những đặc trưng
được xác định như: tình cảm, ý thức và chuẩn mực xã hội. Dạng cộng đồng này
được gọi là cộng đồng tính.
(2) Dạng cộng đồng mà được xác định là nhóm người cụ thể, những nhóm xã
hội có liên kết với nhau ở nhiều quy mô khác nhau, kể từ đơn vị nhỏ nhất như gia
đình cho đến các quốc gia và toàn thế giới. Dạng cộng đồng này gọi là cộng đồng
thể. Trong cộng đồng thể có 2 nghĩa: Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một
địa vực nhất định, có cùng các giá trị và tổ chức xã hội cơ bản; Là một nhóm dân cư

có cùng mối quan tâm cơ bản. Ở đây, cộng đồng được hiểu là một nhóm dân cư sinh
sống trong một thực thể xã hội, trong một địa vực nhất định, có cơ cấu tổ chức chặt

25


×