Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 28 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘIPHÂN HIỆU TẠI TỈNH ĐẮK LẮK</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢTHAM GIA LÀM BÀI TẬP NHĨM</b>
1. Kế hoạch làm việc của nhóm<small>1</small> :
- Tìm kiếm thành viên theo phân cơng của giảng viên và lập nhóm - Đọc và tìm hiểu đề bài thuyết trình phù hợp với nhóm
- Lập dàn bài những nội dung cần thiết cho bài thuyết trình
- Phân cơng các thành viên vào những nhiệm vụ, giao nhiệm vụ thuyết
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>III. Xác định lập luận pháp lý và phương pháp lập luận pháp lý của Tòa án trong Án lệ 28/2019/AL về “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”...9</small>
<small>3.1. Xác định Tòa án đã sử dụng loại lập luận nào: theo logic hình thức hay đời thường?...9</small>
<small>3.2. Xác định luận điểm, luận cứ trong lập luận (thể hiện quan điểm của tòavề việc giải quyết vụ án)...9</small>
<small>3.3. Xác định và phân tích các lý lẽ (luận cứ) cho từng luận điểm đó trong phán quyết của Tịa án...10</small>
<small>3.4. Xác định những nhân chứng, vật chứng trong vụ án và phân tích sự phù hợp hoặc khơng phù hợp để khẳng định độ tin cậy của các luận cứ....12</small>
<small>3.5. Xác định các phương pháp tư duy được Hội đồng xét xử sử dụng để xây dựng lập luận cho phán quyết của mình...12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>A. MỞ ĐẦU</b>
Ngày nay, các vụ án phát sinh trong lĩnh vực Hình sự có xu hướng tăng mạnh về số lượng và tính chất ngày càng phức tạp. Nghiên cứu hồ sơ vụ án Hình sự là một cơng việc khó khăn, phức tạp, một cơng việc địi hỏi sự đặc biệt của Thẩm phán. Họ phải dành thời gian để xem xét kỹ lưỡng từng bản án và vụ án có liên quan, đồng thời người Thẩm phán phải có kiến thức xã hội, kiến thức pháp luật sâu sắc và song song đó phải có một cái tâm trong sáng để đưa ra những quyết định chính xác, cơng bằng và tuân thủ quy định pháp luật.
Trong lĩnh vực Hình sự, tội phạm “Giết người” được cấu thành từ nhiều yếu tố và điều đó sẽ tạo ra nhiều loại tội phạm “Giết người” với nhiều mục đích, trạng thái khác nhau. Nó tạo ra thách thức lớn trong việc đưa ra quyết định của Tòa án và Hội đồng xét xử buộc Tòa án, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng nhiều phương pháp lập luận pháp lý, phương pháp tư duy khác nhau mới có thể đưa ra những kết luận đúng đắn, khách quan, phù hợp quy định pháp luật. Trong tuyển tập 63 Án lệ ở Việt Nam hiện nay, Án lệ số 28/2019/AL là một trong những án lệ về lĩnh vực Hình sự có nội dung gây ấn tượng về “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Để làm rõ Án lệ này, nhóm 03 sẽ đi vào tìm hiểu các lập luận, phương pháp lập luận pháp lý của Tòa án, phương pháp tư duy của Hội đồng xét xử.
<b>Too long to read onyour phone? Save</b>
to read later on your computer
Save to a Studylist
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>B. NỘI DUNG</b>
<b>I. Khái quát về lập luận pháp lý và các phương pháp lập luận pháplý</b>
- Lập luận là một hành động ngôn ngữ dựa trên những căn cứ đã được thừa nhận, thông qua việc sử dụng, sắp xếp các lí lẽ, cách điễn đạt, cách phản hồi… để dẫn dắt đến các kết luận nhằm đạt được mục đích chứng minh, thuyết phục, tạo dựng niềm tin,… trong quá trình giao tiếp. - Lập luận gồm lập luận theo logic hình thức và lập luận đời thường.
Lập luận theo logic hình thức: Đặc trưng của dạng lập luận này là phương pháp suy luận dựa vào các luận cứ khoa học (các chân lý khoa học, hệ tư tưởng,…), tuân thủ các quy tắc suy diễn logic hình thức chặt chẽ. Ở đây, chân lý được khẳng định qua các tiền đề và các quy tắc suy diễn theo ngôn ngữ đã được cơng thức hóa, mang tính phổ qt, tất yếu đúng ở mọi nơi, mọi lúc. Lập luận này có giá trị trong mọi hồn cảnh, có hiệu quả vì chặt chẽ, kín kẽ … Với mục đích nhằm khẳng định giá trị chân lý, khẳng định tính đúng – sai của sự kiện, nên giá trị của lập luận được đánh giá dựa trên mức độ chặt chẽ và chính xác, mức độ đúng đắn, chân xác của các tiền đề cũng như sự phù hợp với các quy tắc logic khi suy diễn.
Lập luận đời thường: Mục đích của dạng lập luận này không chỉ nhằm khẳng định tính đúng – sai của chân lý (thậm chí nhiều khi khơng thể xác định theo tiêu chí đúng – sai) mà quan trọng hơn còn là nhằm đạt được hiệu quả thuyết phục, tạo dựng niềm tin, cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai”, từ đó làm thay đổi nhận thức, từ bỏ những xác tín cũ, tin và nghe theo những điều được người nói đưa ra. Đây là dạng lập luận sử
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">dụng những lý lẽ thực tiễn (phong tục, tập quán, kinh nghiệm…), phương pháp lập luật được sử dụng là vận dụng linh hoạt các lý lẽ đời thường. Lập luận này không tất yếu đúng ở mọi nơi, mọi lúc và bấp bênh về giá trị.
- Lập luận pháp lý là lập luận trong các giao tiếp của hoạt động pháp lý, là cách thức, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của người hành nghề luật, là một phần trong cách thức tư duy của các chủ thể sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật, là việc đưa ra những lí lẽ, chứng cứ có ý nghĩa pháp lý theo cách hợp lý nhằm dẫn dắt đến một quyết định pháp lý hoặc chứng minh khẳng định hoặc phủ định một (một số) vấn đề pháp lý. Lập luận pháp lý là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ pháp lý nên người hành nghề luật cần nắm vững đặc điểm của ngôn ngữ pháp lý như: Ngôn ngữ chuyên ngành luật, đơn nghĩa, nghĩa đen, cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, có tính đo lường được, có tính logic, chặt chẽ, ngơn ngữ chính thống và thuần Việt.
- Cấu trúc của lập luận pháp lý gồm: luận điểm, luận cứ, luận chứng: Luận điểm: Ý kiến thể hiện quan điểm của người hành nghề luật dưới dạng khẳng định/phủ định một vấn đề pháp lý. Trụ cột của lập luận, có thể có một hệ thống gồm luận điểm lớn (chính) và các luận điểm nhỏ (bổ sung)
Luận cứ: Các lý lẽ để luận giải cho quan điểm của người hành nghề luật Dựa trên cơ sở cơ sở pháp lý, đường lối, chính sách, lý luận pháp luật, lý lẽ đời thường,…
Luận chứng: Là bằng chứng, minh họa cho các lý lẽ; khẳng định tính
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">tin cậy của các lý lẽ Là các chứng cứ pháp lý (nhân chứng, vật chứng), kết luận giám định,...
- Phương pháp lập luận pháp lý là những cách thức sắp xếp, tổ chức luận điểm, luận cứ và luận chứng để chứng minh những vấn đề pháp lý, từ đó thuyết phục các chủ thể trong những quan hệ pháp lý.
- Có 3 nhóm phương pháp lập luận pháp lý:
Thứ nhất, nhóm phương pháp suy luận logic (lập luận dựa trên luật là chủ yếu) bao gồm các phương pháp sau
+ Diễn dịch: đi từ cái chung đến cái riêng, một hoặc nhiều quy định của pháp luật có hiệu lực pháp lý chung ( vụ án, vụ việc cụ thể <=> tình huống pháo lý cụ thể)
+ Tam đoạn luận: tiền đề lớn (quy phạm pháp luật, quy tắc pháp lý), tiền đề nhỏ (những vụ án, vụ việc cụ thể thỏa mãn các điều kiện, dấu hiệu được phản ánh trong quy phạm, quy tắc), kết luận (quyết định pháp lý, hậu quả pháp lý)
+ Irac: được kết hợp bởi các yếu tố xác định vấn đề pháp lý (issue), tìm luật có liên quan (rule), phân tích vận dụng luật vào tình huống (application/analysis), đưa ra kết luận (conclusion)
+ Quy nạp: đi từ sự hiểu biết về cái riêng để rút ra kết luận chung (dựa vào tình huống, kinh nghiệm, khả năng tư duy; giá trị của kết luận phụ thuộc vào tính đại diện của các vấn đề pháp lý, sự kiện pháp lý; khơng có quy tắc chung để khẳng định chắc chắn về tính tất yếu đúng của kết luận khi khơng có quy phạm pháp luật hoặc án lệ rõ ràng tồn tại)
+ Suy luận đối nghịch: giải pháp mà nhà làm luật đã dự liệu và suy luận để áp dụng giải pháp ngược lại và cũng không trái pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">+ Suy luận tất nhiên: lập luận đi từ cái chắc chắn hơn (mệnh đề đúng đắn/mệnh đề mạnh) đi từ cái lớn hơn đến cái nhỏ hơn ( suy luận pháp lý cho phép ai làm gì ,suy luận pháp lý u cầu ai làm gì), từ đó củng cố tính xác thực của cái ít chắc chắn hơn (mệnh đề yếu), đi từ cái nhỏ hơn đến cái lớn hơn (suy luận pháp lý cấm đoán).
+ Suy luận phản chứng: lập luận bác bỏ một nhận định khơng có căn cứ bằng việc chỉ ra sự vô lý của nhận định đó thơng qua một suy luận khác; luận đề sai <=> luận đề đúng
Thứ hai, nhóm phương pháp so sánh tương đồng và tương phản (lập luận dựa trên sự kiện, tình tiết là chủ yếu) bao gồm các phương pháp sau
+ So sánh tương đồng: các vụ việc có tình tiết giống nhau, phải được giải quyết giống nhau. (vụ việc xét xử trước đó với vụ việc đang xét xử có tình tiết tương đồng thì được xét xử tương tự)
+ So sánh tương phản: các vụ việc có tình tiết khác nhau phải được giải quyết khác nhau ( vụ việc xét xử trước đó với vụ việc đang xét xử có tình tiết khác biệt thì khơng được áp dụng quy tắc của vụ việc trước).
Thứ ba, nhóm phương pháp suy luận thực tế ( lập luận dựa trên những vấn đề của thực tiễn đời sống, xã hội) bao gồm các phương pháp sau:
+ Lập luận dựa trên chính sách: là lập luận dựa trên lí lẽ (luận cứ) từ lợi ích/kết quả đem lại về mặt chính sách (nhìn về tương lai);
+ Lập luận dựa trên hoạt động tư pháp: là lập luận dựa trên đánh giá tác động của quy tắc pháp lý mới đối với sự vận hành của hệ thống tòa án với mục tiêu xây dựng một hệ thống tư pháp công bằng và hiệu quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">+ Lập luận dựa trên đạo đức: là lập luận dựa trên các chuẩn mực đạo đức được thừa nhận chung có tính thuyết phục cao và phát huy được các giá trị đạo đức cơ bản được xã hội coi trọng.
+ Lập luận dựa trên lợi ích xã hội: là lập luận dựa trên mục đích thúc đẩy những lợi ích có thể đem lại cho xã hội cùng mục tiêu chủ yếu là sức khỏe cộng đồng, an tồn cơng cộng, an ninh quốc gia,...
+ Lập luận dựa trên tác động kinh tế: là lập luận dựa trên hiệu quả kinh tế của phán quyết được đưa ra có sức thuyết phục trên cơ sở các kết quả tính tốn khoa học về lợi ích/thiệt hại kinh tế có thể xảy ra khi phán quyết được đưa ra.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>II. Tóm tắt Án lệ 28/2019/AL về “Giết người trong trạng thái tinhthần bị kích động mạnh”</b>
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 03-11-2016, Trần Văn C đang chơi game ở quán Internet “Su Su” thuộc thôn 1A, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì bạn là anh Nguyễn Hồng Q gọi điện thoại hỏi C đang ở đâu. Khi biết C đang chơi game ở quán Internet, anh Q cũng đến và vào chơi ở máy số 6. Trong lúc chơi game, anh Q nhiều lần đến chỗ C ngồi hỏi mượn tiền, nhưng C nói khơng có tiền. Một lúc sau, anh Q đến chỗ C đưa 02 chiếc điện thoại di động của mình nói C cầm cố đế mượn tiền, C vẫn không đồng ý nên anh Q bỏ về chỗ của mình tiếp tục ngồi chơi game. Khoảng 15 phút sau, anh Q đi đến chỗ C nói “Anh không tin em sao, giúp em đi”, C trả lời “Anh khơng có tiền thật mà, mày làm ơn đi chỗ khác để anh chơi. Anh Q chửi “Đ.M mày, nhớ mặt tao”. C nghe vậy khơng nói gì, anh Q bỏ về chỗ máy của mình. Ít phút sau, anh Q đi đến chỗ C đang chơi game, tay phải đấm mạnh 01 cái vào má trái của C làm chảy máu. Bị đánh, C tức giận lấy dao Thái Lan có sẵn trên bàn giữa 02 máy vi tính, rồi cầm dao bằng tay phải đứng lên ghế mình ngồi. Thấy vậy, anh Q lao đến, C dùng dao quơ ngang qua lại trúng vào mặt anh Q làm chảy máu. Anh Q xông đến dùng hai tay kéo C xuống ghế, sau đó anh Q dùng hai tay kẹp cổ C theo tư thế phần đầu của C ở phía sau lưng anh Q, cịn phần hai tay, thân người và hai chân của C ở phía trước người anh Q. Bị anh Q kẹp cổ, C dùng tay trái nắm vào phần hông bên phải anh Q, còn tay phải C cầm dao Thái Lan đâm 01 nhát trúng ngực anh Q. Anh Nguyễn Hải Q1 đang chơi game thấy vậy chạy đến giật con dao trên tay C vứt vào góc quán. Lúc này anh Q bị ngã xuống nền nhà, sau đó C và một số người có mặt trong quán đưa anh Q đến bệnh viện cấp cứu. Đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">ngày 04-11-2016, anh Q tử vong. Ngay sau đó, C đến Cơng an huyện K đầu thú. Kết quả khám nghiệm tử thi anh Nguyễn Hồng Q ghi nhận: Vùng trán trái phía trên lơng mày có vết rách da hình khe, dài 0,7cm. Đỉnh mũi có vết rách da hình khe dài 02cm, sâu 0,4 cm; cách vết này 03 cm tại mơi trên có vết rách da hình khe dài 02 cm. Mép phải có vết rách da hình khe dài 03 cm, sâu 0,8 cm. Ba vết rách da tạo đường thẳng không liên tục hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Ngực phải cách núm vú phải 3,5 cm về phía dưới, cách đường giữa 09 cm có vết xây xát da nằm ngang hình khe dài 1,3 cm. Ngực trái cách gót chân trái 120 cm, cách đường giữa 05 cm có vết rách da dài 2,5 cm, hở rộng 01 cm, nằm ngang hướng từ trái sang phải, từ trước ra sau, từ ngoài vào trong. Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 714/QĐPY ngày 24-11-2016 của Phịng kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Hồng Q là vết thương thấu ngực trái gây nên thương tổn xuyên tim dẫn đến tim ngừng đập và mất máu suy tuần hồn cấp khơng hồi phục. Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 113/PY-TgT ngày 04-01-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Trần Văn C bị chấn thương vùng má trái với thương tích 02%. Trước khi xét xử sơ thấm, gia đình Trần Văn C đã bồi thường cho gia đình người bị hại 95.000.000 đồng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>III. Xác định lập luận pháp lý và phương pháp lập luận pháp lý củaTòa án trong Án lệ 28/2019/AL về “Giết người trong trạng thái tinhthần bị kích động mạnh”</b>
Qua cách lập luận của Tịa án để đưa ra kết luận có thể thấy Án lệ này Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã sử dụng phương pháp lập luận logic hình thức (lập luận dựa trên luật), cụ thể là phương pháp IRAC và phương pháp tam đoạn luận xác định tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của anh Trần Văn C để đưa ra phán quyết đúng đắn nhất, bằng cách kiểm tra xem liệu tất cả các yếu tố của vụ án cần đã đáp ứng đúng theo quy định của pháp luật.
- Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội: Bị hại Nguyễn Hồng Q đã thực hiện một chuỗi hành vi trái pháp luật tấn công bị cáo Trần Văn C liên tục, kéo dài làm cho bị cáo bị ức chế tâm lý, kích động về tinh thần làm anh C rơi vào trạng thái bị mất khả năng tự chủ.
- Phương tiện gây án của anh Trần Văn C: dao Thái Lan (dùng để gọt trái cây, có sẵn trên bàn) - vụ khí sắc nhọn nhưng sát thương không cao. - Anh Trần Văn C dùng dao đâm vào ngực anh Nguyễn Hồng Q nhằm thoát khỏi sự tấn cơng từ phía bị hại.
Từ nội dung án lệ có thể thấy các luận điểm được Tồ án và Hội đồng xét xử đưa ra như sau:
- Luận điểm 1: Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn C về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” là có căn cứ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">- Luận điểm 2: Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Trần Văn C bị kích động về tinh thần, nhưng chưa đến mức bị kích động mạnh, là chưa xem xét khách quan, toàn diện nguyên nhân, quá trình diễn biến của sự việc cũng như mức độ nghiêm trọng, liên tục của hành vi trái pháp luật của người bị hại, từ đó chuyển tội danh từ “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” sang “Giết người” đối với Trần Văn C là khơng đúng.
- Luận điểm 1: Tịa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn C về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” là có căn cứ.
Luận cứ 1: Anh Q đã có một chuỗi hành vi liên tục tác động đến Trần Văn C như hỏi vay tiền C, C trả lời khơng có tiền, anh Q chửi C, C khơng nói gì, tiếp đó anh Q đến chỗ C ngồi đấm vào mặt C khiến má trái của C bị chảy máu.
+ Luận chứng: Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 113/PY-TgT ngày 04-01-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Trần Văn C bị chấn thương vùng má trái với thương tích 02%.
Theo Điểm b Mục 1 Chương 2 Nghị quyết số 04/HĐTP/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao:
“Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội khơng hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì khơng coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh”.
Căn cứ theo các yếu tố trên thì bị cáo Trần Văn C thuộc trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Cụ thể, hành vi phạm tội của bị cáo C là qua lời nói và hành động tấn cơng của nạn nhân Q. Do đó, hành vi của bị cáo C bộc phát từ lúc có bị hại Q liên tục chửi và tác động vật lý đến phần má trái của bị cáo C.
- Luận điểm 2: Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Trần Văn C bị kích động về tinh thần, nhưng chưa đến mức bị kích động mạnh, là chưa xem xét khách quan, tồn diện ngun nhân, q trình diễn biến của sự việc cũng như mức độ nghiêm trọng, liên tục của hành vi trái pháp luật của người bị hại, từ đó chuyển tội danh từ “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” sang “Giết người” đối với Trần Văn C là không đúng.
Luận cứ 2: Trường hợp này, bị hại là người gây sự, tấn công bị cáo trước. Hành vi tấn công của bị hại diễn ra liên tục với mức độ tăng dần. Hành vi của bị hại là trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể của bị cáo. Trong trạng thái bị kích động dẫn đến mất khả năng tự chủ, khơng nhận thức hết được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mình, bị cáo dùng dao đâm vào ngực bị hại là nhằm thốt khỏi sự tấn cơng.
</div>