346
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
________________________
TRỊNH THỊ OÁNH
TỘI GIẾT NGƢỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH
THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM NHÌN TỪ THỰC TIỄN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT TƯ PHÁP
Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
: ThS. Nguyễn Thị Thanh Trâm
: Trịnh Thị Oánh
Vinh,5/2015
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian làm khóa luận em gặp rất nhiều khó khăn về cả kiến
thức chun mơn và kiến thức thực tế. Nhưng nhận được sự hướng dẫn tận
tình của các thầy cơ giáo Trường Đại học Vinh, đặc biệt là cô Giảng Viên
hướng dẫn em cô Nguyễn Thị Thanh Trâm. Cô đã giúp đỡ em rất nhiều, tận
tình, chu đáo chỉ bảo cho em từng lỗi nhỏ. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy cô của trường Đại học Vinh và cô Giảng
viên, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Trâm đã tạo điều kiện cho em trong suốt thời
gian qua để em có thể hồn thành bài khóa luận của mình, cũng như giúp em
có nhiều thời gian tiếp xúc thực tiễn, đúc rút cho mình kinh nghiệm sau này.
Trong quá trình học tập, cũng như là trong q trình làm bài khóa luận,
khó tránh khỏi sai sót, rất mong các Thầy, Cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ
lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế nên bài khóa luận của em
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp Thầy, Cơ để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt
hơn trong tương lai.
Em xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Trịnh Thị Oánh
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................... 0
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài .......................... 6
6. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 7
7. Kết cấu đề tài .............................................................................................. 7
B. NỘI DUNG ................................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIẾT NGƢỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH ............. 9
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm về tội giết người ................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh .............................................................................................................. 14
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội giết ngƣời trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong lịch sử Việt Nam. ............ 22
1.2.1. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong
lịch sử Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 .............. 22
1.2.2. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009 ................................. 23
1.3. Các dấu hiệu pháp lý thuộc bốn yếu tố cấu thành tội giết ngƣời trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ..................................................... 24
1.3.1. Khách thể của tội phạm ...................................................................... 24
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm ........................................................... 25
1.3.3. Chủ thể của tội phạm .......................................................................... 34
1.3.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................ 36
1.4. Phân biệt tội giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Điều 95 BLHS) với một số tội khác ........................................................... 39
1.4.1. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Điều 95 BLHS) với tội giết người (Điều 93 BLHS) ................................... 39
1.4.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 95 BLHS) với tội giết người do vượt q phịng vệ chính
đáng (Điều 96) .............................................................................................. 40
1.4.3. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh(
Điều 95BLHS) với trường hợp tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn
đến cái chết của người khác (điểm b, khoản 2, Điều 105 BLHS) ......................42
1.4.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Điều 95BLHS) với trường hợp giết người được áp dụng tình tiết giảm nhẹ
(điểm đ, khoản 1, Điều 46 BLHS) ................................................................ 43
1.5. Hình phạt áp dụng để xử lý đối với ngƣời phạm tội giết ngƣời trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ..................................................... 44
CHƢƠNG 2: TỘI GIẾT NGƢỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ
KÍCH ĐỘNG MẠNH - THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN .48
2.1. Thực tiễn về tội giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An ................................................................ 48
2.1.1. Tình hình kinh tế- chính trị- xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An ...... 48
2.1.2. Thực tiễn về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An .................................................................. 52
2.2. Hạn chế trong thực tiễn xét xử ............................................................. 64
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƢỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH
THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG
CƠNG TÁC XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN ..................... 67
3.1. Về phƣơng diện lập pháp ..................................................................... 67
3.2. Về phƣơng diện áp dụng pháp luật ..................................................... 68
3.3. Về công tác xét xử ................................................................................. 69
3.4. Một số giải pháp khác ........................................................................... 70
C. KẾT LUẬN .............................................................................................. 73
D. DANH MỤC ĐỀ TÀI THAM KHẢO ................................................... 75
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT
CTTP:
Cấu thành tội phạm
BLHS:
Bộ luật hình sự
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
HĐTP:
Hội đồng thẩm phán
BTP:
Bộ tư pháp
TT:
Thơng tư
HĐXX:
Hội đồng xét xử
TAND:
Tòa án nhân dân
TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
VKSND :
Viện kiểm sát nhân dân
TPHCM :
Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1. Số liệu về số vụ án giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh và số vụ án giết ngƣời khác từ 2011 đến năm 2013 trên địa
bàn tỉnh Nghệ An ......................................................................................... 54
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu tội giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh và tội giết ngƣời khác trên địa bàn tỉnh Nghệ An .......................... 54
Bảng 2.2. Tình hình thụ lý và xét xử vụ án giết ngƣời trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh tại Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An từ năm
2011 đến năm 2013 ....................................................................................... 58
Biểu đồ 2.2. Tình hình thụ lý và xét xử vụ án giết ngƣời trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh tại tịa án nhân dân tỉnh Nghệ An ............. 59
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Tiêu biểu như: Việt
Nam trở thành thành viên tiêu biểu của tổ chức thương mại thế giới WTO; là
ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an liên hợp quốc; kinh tế ổn
định và có những bước tăng trưởng nhanh; đời sống nhân dân ngày càng được
nâng cao và được cải thiện hơn trước; an ninh chính trị - an tồn xã hội được
đảm bảo, đời sống của nhân dân dần được nâng cao....Bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách lớn
như sự chống phá của các thế lực thù địch; sự suy thối, khủng hoảng của nền
kinh tế tồn cầu; sự gia tăng của các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm. Cũng
như nhiều quốc gia khác, vấn đề tội phạm gia tăng đang là một trong vấn nạn
ở Việt Nam. Trong những năm gần đây ở Việt Nam, tình hình tội phạm diễn
biến hết sức phức tạp, các tội phạm gia tăng không ngừng cả về số lượng và
mức độ phạm tội. Tội phạm hoạt động có tính chất cơn đồ, tính tổ chức, tính
băng nhóm, tính liều lĩnh cao hơn trước cùng với việc sử dụng các loại hung
khí nguy hiểm để phạm tội. Điển hình cho sự gia tăng đó là sự gia tăng các tội
phạm về ma túy; tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, tội phạm xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Có thể nói rằng, trong những năm gần đây tình hình tội phạm giết
người do nhiều nguyên nhân có xu hướng gia tăng, có những vụ đặc biệt
nghiêm trọng do hành vi người phạm tội thực hiện vô cùng dã man, tàn ác.
Hậu quả gây ra nhiều cái chết thương tâm khơng gì bù đắp, để lại gánh nặng
cho xã hội; gia đình và gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất trật
tự trị an và tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân tại địa
phương. Việc xem thường pháp luật, xem thường tính mạng của người khác
trong một bộ phận người dân là nguyên nhân phạm tội. Có những vụ án giết
người vì những thù tức nhỏ; những tranh chấp khơng đáng kể; có những vụ án
chồng giết vợ vì ghen; con giết cha vì tài sản... làm cho giá trị đạo đức con
1
người Việt Nam ngày càng giảm sút. Nguy hiểm hơn, kẻ phạm tội còn thực
hiện hành vi hiếp dâm rồi giết trẻ em; giết phụ nữ mang thai; giết người với
hành động vô cùng dã man như chặt đầu, tay, chân... điều đó nói lên việc xem
thường tính mạng của người khác. Đã đến lúc cần báo động, đồng thời cần
phải có biện pháp phịng, chống kịp thời hành vi nguy hiểm đó nhằm bảo vệ
tính mạng của con người, bảo vệ giá trị đạo đức và thuần phong mỹ tục của
dân tộc Việt Nam. Trước tình hình, diễn biến tội phạm xảy ra khá phức tạp
như hiện nay thì việc nghiên cứu về tội phạm nói chung và tội giết người nói
riêng đang là vấn đề hết sức cấp bách nhằm tìm ra những nguyên nhân, điều
kiện thực hiện hành vi phạm tội, đưa ra những giải pháp có cơ sở lý luận và
thực tiễn, góp phần vào việc nâng cao tính hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng,
chống tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng và tiến tới đẩy lùi tội
phạm trong thời gian tới.
Như chúng ta đã biết, quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của
con người được quy định tại Điều ước quốc tế tại Hiến pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong nhiều quy định khác, các văn bản
khác của pháp luật cũng quy định về quyền con người và sự bảo vệ của pháp
luật đối với con người.
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
luật hình sự cũng như pháp luật nói chung, vấn đề bảo vệ con người trước hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự, và tự do của họ.
Vì đó là những điều ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với con người. Trong vấn
đề tính mạng sức khỏe của con người là vấn đề đặt lên trên hết, vì đây là
quyền sống, quyền được tồn tại của con người.
Nghệ An là một tỉnh có diện tích lớn nhất ở Việt Nam thuộc vùng Bắc
Trung Bộ, diện tích 14.973,4km2. Đây là tỉnh có vị trí địa lý, tình hình kinh tế
xã hội và thành phần dân cư phức tạp. Cùng với sự phát triển của đất nước thì
sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An là điều tất yếu. Bên cạnh sự phát triển
theo chiều hướng tích cực có bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực, tình hình tệ
2
nạn xã hội, sự gia tăng không ngừng của các tội phạm cả về mặt số lượng và
mức độ, tính chất, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội của vùng.
Hiện nay, ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng
đang liên tục xảy ra các vụ giết người nói chung có tính chất nghiêm trọng,
giết người theo nhiều hình thức khác nhau, tội phạm mang mức độ và tính
chất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng – đó được coi là hồi chng cảnh
báo về tình trạng bạo lực, sự coi thường pháp luật.
Mặt khác, cũng chính xuất phát từ lẽ đó, mà BLHS năm 1999 đã có
nhiều quy định vấn đề bảo vệ quyền cơ bản của con người, cụ thể đã có riêng
một chương XII quy định về các tội khác nhau, ví dụ như: Tội giết người
(Điều 93) Tội giết con mới đẻ (Điều 94), Tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều 95), Tội giết người vượt q phịng vệ chính
đáng (Điều 96)......Việc xác định dấu hiệu những vướng mắc của các tội phạm
là vơ cùng khó, trong đó tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 95) không phải là một ngoại lệ. Đây được coi là một tội đặc biệt
trong các tội phạm và rất khó để xác định và phân biệt với các tội phạm khác
vì nó liên quan đến vấn đề tâm sinh lý của con người, khơng ai có thể xác
định cụ thể là như thế nào mới là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
hay người nào đang ở một mức độ, trạng thái bị “kích động” vì tâm trạng và
cảm xúc của mỗi người là khác nhau, không ai giống nhau cả, cùng một sự
việc, hoàn cảnh nhưng mỗi người lại có cách xử lý khác nhau.
Vì vậy, cần thiết phải xác định một cơ sở luận hoàn chỉnh hơn để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xác định về “tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh”. Đây là một vấn đề không phải quá mới mẻ, hay xa
vời đã có một số người nghiên cứu và tìm hiểu, mỗi người có cách nhìn, cách
nghĩ khác nhau về vấn đề này, nhưng tôi vẫn mạnh dạn lựa chọn đề tài này để
tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu thêm để tìm ra những điểm mới.Vậy để hiểu
hơn về đề tài: “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trong pháp luật hình sự Việt Nam nhìn từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ
An” cần đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu hơn. Để góp phần đấu tranh phịng
3
chống tội phạm nói chung và tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh nói riêng, đem lại sự an toàn, an ninh, trật tự cho xã hội, đảm
bảo đời sống yên bình cho mỗi con người. Đồng thời, từ đó cũng có thể đưa
ra một số những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về những quy định pháp luật
hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và nâng
cao hiệu quả trong công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, ở nước ta có nhiều cơng trình nghiên cứu về
tội phạm giết người nói chung, như “Tội giết người và cơng tác phịng ngừa”
của tác giả Nguyễn Tiến Triển - Đỗ Quang Học, Tạp chí kiểm sát số 4, năm
1993; Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội giết người theo Luật hình sự Việt Nam
và đấu tranh phịng chống tội phạm giết người” của tác giả Hồng Cơng
Hn, Hà Nội, năm 1997; “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”
của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản công an nhân dân
Hà Nội, năm 2001...Nhưng lại chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội
phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng. Như
đã tìm hiểu và nghiên cứu thì những năm gần đây có một số tiểu luận, khóa
luận tốt nghiệp có nghiên cứu về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh, ví dụ như: tiểu luận “Tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh” của Hồng Cơng Hồn; Khóa luận tốt nghiệp “Tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt
Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Trương Thị Cẩm Hương....
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào về đề tài: “Tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự Việt
Nam nhìn từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ An”. Với các nghiên cứu trên,
bài viết chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn mang tính chất
chung chung, chưa cụ thể rõ ràng hay viết theo những quy định của luật cũ.
Hiểu được thực tiễn này, nên tôi đã tổng hợp và kế thừa lại nội dung để tiếp
tục đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu với cái nhìn mới hơn về vấn đề.
4
Hiện nay, tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn ngày một gia tăng và gây hậu quả hết
sức nguy hiểm. Do vậy, địi hỏi phải có sự điều tra, nghiên cứu cụ thể, đầy đủ,
rõ ràng để có những luận cứ khoa học, đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm hồn thiện quy định pháp luật hình sự về tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh và nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử trên
địa bàn tỉnh Nghệ An. Vì vậy, tơi đã lựa chọn đề tài: “Tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự Việt Nam
nhìn từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ An” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
cho mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về tình hình, tính chất, bản
chất và mức độ nguy hiểm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh xảy ra trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Các nguyên tắc xác định trách
nhiệm hình sự cụ thể cho loại tội phạm này và thực tiễn xét xử các vụ án giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Xây dựng những luận cứ khoa học vững chắc phù hợp với thực tiễn, làm cơ
sở cho việc đánh giá tình hình tội phạm nói chung và tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng để đưa ra những giải pháp
nhằm góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đồng thời nâng cao hiệu quả
trong công tác xét xử về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Trước hết nhằm tìm hiểu những quy định của pháp luật về tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nghiên cứu về tổng quan
lý luận và thực tiễn tình hình tội phạm, thực trạng xét xử tội phạm giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Đồng thời xuất phát từ tình hình thực tiễn và lý luận cần thiết phải xây
dựng một cơ sở lý luận hồn chỉnh về trách nhiệm hình sự của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) và vận dụng Điều 95
5
vào thực tiễn đấu tranh chống tội phạm góp phần ổn định kinh tế, đảm bảo
trật tự, an toàn xã hội, duy trì chính trị - xã hội đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh và đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện quy định
của pháp luật hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh và nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về lý luận của tội giết người trong trạng thái tình thần bị
kích động mạnh
Nghiên cứu về thực tiễn tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh.
Như vậy, để đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình
sự và nâng cao hiệu qủa trong công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này sẽ tập trung phân tích sâu các
vấn đề liên quan đến tội giết người trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như
các yếu tố cấu thành; phân tích dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự; từng
hành vi xâm hại đến từng đối tượng cụ thể; khung hình phạt cho mỗi loại tội,
so sánh tội này với một số loại tội phạm khác trong cùng một chương để thấy
được tính nguy hiểm đến xã hội của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh trong pháp luật hình sự Việt Nam nhìn từ thực tiễn về tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Nghệ An, từ đó có cơng tác đấu tranh phòng
chống tội phạm của nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để
tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng nhằm đánh giá các vấn đề nghiên cứu
một cách khoa học; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa gắn với việc quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm xây dựng Nhà
6
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh,
tổng hợp, lôgic và phương pháp xã hội học khác như lấy số liệu, tham khảo ý
kiến của những người làm công tác thực tiễn…để làm sáng tỏ vấn đề: “Tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật
hình sự Việt Nam nhìn từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ An”
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa về khoa học
Góp phần hồn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam nói chung
và những quy định của BLHS về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh nói riêng.
Nhìn nhận thấy những điểm cần sửa đổi và điểm mới trong quy định
hình sự Việt Nam và quy định trong BLHS về tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh.
- Ý nghĩa về thực tiễn
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về tình hình tội phạm giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Nghệ An để:
+ Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xét
xử tội phạm này.
+ Đồng thời, góp phần đảm bảo việc trừng trị, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật để bảo đảm bảo duy trì trật tự an ninh, an tồn xã hội.
7. Kết cấu đề tài
A. Mở đầu
B. Nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh
7
Chương 2: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và nâng cao hiệu
quả trong công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
C. Kết luận
D. Danh mục đề tài tham khảo
8
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIẾT NGƢỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về tội giết người
1.1.1.1. Khái niệm giết người
Có thể hiểu đơn giản như sau: “Giết người” là hành vi trái pháp luật cố
ý làm chết người ngoài ý muốn của nạn nhân. Hành vi làm chết người được
hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống
của họ. Hậu quả của hành vi trái luật này là hậu quả chết người, chấm dứt sự
sống của họ.
Trong Luật Hình sự của các nước, hành vi giết người được quy định là
một tội danh. Hành vi đó do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện,
là lỗi cố ý. Đối với họ, hình phạt họ phải chịu là rất nghiêm khắc. Các khung
tăng nặng hình phạt bao gồm:
Giết nhiều người.
Giết phụ nữ mà biết là có thai.
Giết trẻ em.
Giết người đang thi hành cơng vụ hay vì lí do cơng vụ của nạn nhân.
Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Giết người mà liền trước đó hay ngay sau đó lại phạm tội rất đặc biệt
nghiêm trọng.
Giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác.
Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân.
Thực hiện tội phạm một cách man rợ.
Thực hiện tội phạm bằng cách lợi dụng nghề nghiệp.
Thực hiện tội phạm bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người
Thuê giết người hoặc giết người th
Phạm tội có tính chất cơn đồ.
Phạm tội có tổ chức.
9
Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Vì động cơ đê hèn: mang tính ích kỷ cao, bội bạc, phản trắc. Ví dụ
giết vợ hay chồng để có thể lấy vợ (chồng) khác; giết người tình có thai để
trốn tránh trách nhiệm; giết người đã cho mình vay tài sản, giúp đỡ trong lúc
khó khăn để trốn nợ.
Theo khảo sát thì một số nước có tỉ lệ giết người cao nhất thế giới là:
Một thống kê gần đây cho thấy, ở Anh và Wales trung bình mỗi năm xảy ra
khoảng 854 vụ giết người.
1.1.1.2. Khái niệm tội giết người
Để tìm hiểu khái niệm tội giết người, trước tiên chúng ta phải hiểu thế
nào là “tội phạm”? Khái niệm này dùng để chỉ tất cả các hành vi được luật
quốc gia hoặc luật quốc tế xác định mà chủ thể thực hiện phải chịu biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước là hình phạt. Tuy nhiên, sự ghi
nhận khái niệm này trong luật hình sự của các nước cũng như quan điểm của
các nhà khoa học về tội phạm là khơng hồn tồn giống nhau. Một số quốc
gia ghi nhận khái niệm tội phạm trong điều luật cụ thể. Có thể kể đến như:
Theo quy định tại Điều 3 BLHS Philipines thì tội phạm được hiểu là:
“Hành vi hành động hoặc hành vi không hành động bị trừng trị về mặt hình
sự theo quy định của luật thì gọi là tội phạm”.
Theo Điều 40 BLHS Malaysia thì tội phạm được hiểu là: “Bất cứ hành
vi nào bị bộ luật này hoặc các đạo luật có hiệu lực tại thời điểm thực hiện
hành vi coi là phải chịu hình phạt”.
hoản 1 Điều 8 BLHS Việt Nam quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
10
Theo cuốn Bình luận BLHS, tội phạm cịn được định nghĩa như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực
hiện, có lỗi được quy định trong BLHS”. Trên cơ sở khái niệm tội phạm được
quy định tại khoản Điều 8 BLHS thì khái niệm tội phạm cịn được định nghĩa
ngắn gọn như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
hội, có lỗi, có tính
trái pháp luật h nh sự và phải chịu h nh phạt”.
Từ khái niệm tội phạm quy định trong BLHS, tôi xin đưa ra khái niệm
tôi phạm dưới góc độ của một sinh viên ngành luật như sau: “Tội phạm là
hành vi có tính trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS thực hiện
với lỗi cố ý hoặc vơ ý, có tính nguy hiểm cho xã hội và phải chịu hình phạt”.
Có thể nói khái niệm tội phạm là khái niệm cơ bản nhất, có ý nghĩa là cơ
sở thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm
cụ thể của Bộ luật hình sự. Đồng thời, khái niệm tội phạm còn thể hiện những
nguyên tắc cơ bản của BLHS Việt Nam và là cơ sở để quy định khung hình
phạt cho các tội phạm cụ thể. Xuất phát từ khái niệm tội phạm, các tội xâm
phạm tính mạng được hiểu là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo
vệ tính mạng của người khác. Các tội xâm phạm tính mạng, bao gồm: tội giết
người, tội giết con mới đẻ, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, tội bức tử…Hiện nay, trong Luật hình sự của nhiều quốc gia, khái niệm
tội giết người cũng như những quy định về loại tội phạm này là không thống
nhất. Có những quốc gia mơ tả cụ thể những dấu hiệu của tội giết người nhưng
có quốc gia lại chỉ quy định tội danh và nêu hình phạt trong luật.
Có thể kể đến như Điều 248 BLHS Philippines quy định: “Người nào
có hành vi tước đoạt tính mạng của người khác thì phạm tội giết người và
phải chịu hình phạt tù chung thân nếu có một trong các tình tiết sau: Nhờ
người khác có hung khí 8 hỗ trợ; giết th; bằng cách phóng hỏa, bỏ thuốc
độc; lợi dụng hồn cảnh thiên tai; bằng thủ đoạn tàn ác”.
Điều 288 BLHS Thái Lan quy định: “Người nào có hành vi giết người
thì bị phạt tử hình hoặc phạt tù từ 15 năm đến 20 năm”.
11
Như vậy, khái niệm theo từ điển Tiếng Việt - “Tội”: Là h ành vi trái
với qui định của pháp luật, vi phạm về những điều cấm của đạo đức xã hội,
tôn giáo. “Giết”: Làm cho người chết hay gây ra cái chết một cách đột ngột.
“Chết”: Là khả năng sống khơng cịn. “Người”: là lồi động vật có tổ chức
cao nhất, có khả năng tư duy, có tư thế đứng thẳng, có đầu óc sáng tạo và sử
dụng cơng cụ trong quá trình lao động.
Từ thực tiễn xét xử: “Tội giết người được hiểu là hành vi cố ý tước
đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác”. Theo cuốn Bình luận BLHS
quy định: “Tội giết người được hiểu là hành vi làm chết người khác một cách
cố ý và trái pháp luật”.
Có thể thấy khái niệm về tội giết người đang tồn tại dưới nhiều quan
điểm khác nhau, mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau cũng như có quy
định khác nhau về tội giết người. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung
nhấn mạnh tội giết người là hành vi trái pháp luật và nhằm tước bỏ tính mạng
của người khác.Trong BLHS Việt Nam, việc quy định về tội giết người chỉ
dừng lại ở việc nêu tội danh mà không mô tả những dấu hiệu pháp lí cụ thể
của tội giết người. Trong khi đó, BLHS Philipines lại mơ tả cụ thể những dấu
hiệu pháp lí của tội giết người.
Trên cơ sở khái niệm tội phạm, khái niệm tội giết người trong cuốn
Bình luận BLHS người viết xin đưa ra khái niệm về tội giết người như sau:
“Tội giết người được hiểu là hành vi trái pháp luật, do người có năng lực
TNHS thực hiện với lỗi cố ý nhằm tước ỏ tính mạng của người khác theo ý
muốn hoặc kh ng theo ý muốn của nạn nh n.
- Hay hiện nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội
giết người. Cụ thể là:
- Theo bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban
hành kèm theo Công an số 452 – HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân
tối cao thì: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật”.
12
- Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác cho rằng: “Tội giết người là hành
vi trái pháp luật của người đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ
quyền sống của người khác”.
Cả hai quan điểm trên đều chưa hợp lý: chưa đề cập đến dấu hiệu năng
lực trách nhiệm hình sự, dấu hiệu độ tuổi của chủ thể “tội giết người” (quan
điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự mà
không đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai), để khắc phục những
hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết người là hành vi cố ý gây
ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện”
Theo như Điều 93 BLHS năm 1999 quy định về tội giết người như sau:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đ y, th
bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung th n hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành c ng vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nu i dưỡng, thầy giáo, cơ giáo của
mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất c n đồ;
o) Có tổ chức;
13
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) V động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế
hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm”.
1.1.2. Khái niệm về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh
1.1.2.1. Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Mặc dù trong cấu thành cơ bản của hai điều luật trên đều có cụm từ
“ tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nh n” song thế nào là “tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nh n” thì hiện có nhiều cách hiểu và đánh
giá khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong trường hợp này không
thống nhất. Hiện cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh
là tình trạng (tâm lý) khơng hồn tồn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của
mình.
Quan điểm thứ hai là: Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình
trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm,dẫn
đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi.
Như vậy, cả hai quan điểm nói trên điều thừa nhận trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị ức chế ở mức độ cao dẫn đến
nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điểu khiển hành vi, nhưng
vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình.
Quan điểm thứ ba là: Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng
thái của một người khơng cịn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc
bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó, họ mất khả
năng tự chủ và khơng thấy hết được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
14
của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người
mất trí). Đây là cơ sở để phân biệt với trường hợp phạm tội do tinh thần bị kích
động. Theo quan điểm này, người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
dù chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình.
Theo tơi, hai quan điểm đầu có vẻ hợp lý hơn. Một người phạm tội
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người dù chịu đựng sự tác
động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả
năng kiềm chế và điều khiển hành vi vẫn còn. Còn nếu theo quan điểm thứ ba
thì, nếu khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất, có thể họ là một
trong những trường hợp khơng có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 13 của
BLHS năm 1999, sửa đổi và bổ sung năm 2009 quy định nếu một người mắc
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác (nguyên nhân khách quan) mà dẫn đến mất
khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi, thì được xem là
người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người phạm tội trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh có nguyên nhân xuất phát từ người bị hại. Như vậy,
có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân
ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi,
họ sẽ khơng chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình theo
quy định của Điều 13 BLHS năm 1999.
Thực tế, chỉ có thể xảy ra các trường hợp một người vẫn còn khả năng
nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của mình do cơ
chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tồn tại hai bộ phận điều khiển hành vi
của bộ não. Những tác động tâm lý dù có mạnh mẽ đến đâu cũng khơng thể
làm cho một người mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình. Có
thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ khơng phạm tội mà trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ lại phạm tội thông qua mức độ nhận
thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức
được điều đó là đúng hay sai, trái pháp luật, phải chịu lấy trách nhiệm pháp lý
15
nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó,
nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, khơng
nhận thức được hành vi của mình trái pháp luật cũng như không nhận thức
được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm
giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ khơng
phải mất khả năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.
Với cách hiểu này, xét ở góc độ chủ quan người phạm tội, có thể phân
biệt “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “trạng thái tinh thần bị kích
động” ở mức độ nhận thức của người phạm tội khi thực hiện hành vi. Khi
thực hiện hành vi, nếu người phạm tội nhận thức hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả cụ thể nào, bất chấp việc hành vi của
mình có trái pháp luật và mình phải chịu trách nhiệm pháp lý hay khơng thì có
thể coi đây là trường hợp “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Làm sáng
tỏ điểm này phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể. Có trường hợp đối với đối
tượng đó là bị kích động mạnh nhưng vào đối tượng khác lại khơng.
Ngồi ra, cịn có thể dựa vào nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần
bị kích động để xác định tinh thần có bị kích động mạnh hay khơng. Ngun
nhân làm cho “tinh thần bị kích động” là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân. Trong khi đó, nguyên nhân làm cho “trạng thái tinh thần bị
kích động” là hành vi trái pháp luật của nạn nhân hoặc của người khác. Tính
chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân là một
căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích động hay khơng. Khi
xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của
người bị nạn, cần đánh giá toàn diện về cả cường độ lẫn số lượng của hành vi.
Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần cũng đủ
dẫn đến kích động mạnh. Hoặc có trường hợp, hành vi dù cường độ thấp
nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh.
16
Còn theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 28/11/1986
thì: “T nh trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội
khơng hồn tồn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói
chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn đến hành vi giết người.
Nhưng cá iệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính
chất đè nén, áp ức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đ
mỉ
kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp
diễn làm cho người bị kích động khơng tự kìm chế được, nếu tách riêng sự
kích động mới này th kh ng coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá
trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh”.
Người bị kích động về tinh thần là người khơng cịn nhận thức dầy đủ
hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận
thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và khơng thấy hết được tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ
gần như người điên (người mất trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát,
sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước.
Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa
tới mức mất khả năng tự chủ thì khơng gọi là bị kích động mạnh và không
thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy
nhiên họ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm đ, khoản
1, Điều 46 BLHS.
Việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không
là một vấn đề phức tạp. Bởi vì trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau,
cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích
động về tinh thần, thậm chí “điên lên”, nhưng cũng có người vẫn bình
thường, thản nhiên như khơng có chuyện gì xảy ra, và cách xử sự của mỗi
người cũng rất khác nhau.
Ví dụ: Anh A thấy vợ mình quan hệ bất chính với người khác, liền chạy
về nhà lấy dao đến đâm chết tình nhân của vợ, nhưng anh B gặp trường hợp
17
này lại gọi vợ về giáo dục, sau đó vợ chồng vẫn sống chung với nhau, còn anh
C gặp trường hợp tương tự lại làm đơn ly hôn.
Như vậy, không thể có sẵn một chuẩn mực để “đo” tình trạng kích
động hay chưa mạnh về tinh thần của con người, mà phải căn cứ vào từng
trường hợp cụ thể, xem xét một cách tồn diện các tình tiết của vụ án, nhân
thân người phạm tội, quá trình diễn biến của sự việc, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, bệnh tật, hồn cảnh gia đình, quan hệ giữa người phạm tội với nạn
nhân...từ đó xác định mức độ bị kích động về tinh thần có mạnh hay khơng,
mạnh tới mức nào để đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đồng thời, có thể hiểu trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình
trạng ý thức bị hạn chế tạm thời ở mức độ cao do không chế ngự được dẫn
đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm sốt và điều khiển hành vi.Tình trạng
tinh thần bị kích động mạnh có thể là tình tiết giảm nhẹ một cách đáng kể
mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Do vậy, tình tiết này có thể được quy định tình tiết định khung hình
phạt giảm nhẹ hoặc có thể là tình tiết định tội cho tội nhẹ hơn so với tội của
trường hợp bình thường. BLHS năm 1985 quy định tinh thần bị kích động
mạnh – trường hợp định khung hình phạt giảm nhẹ của “tội giết người” và
“tội cố ý g y thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác”.
BLHS năm 1999 quy định các trường hợp này được tách ra thành các
tội riêng đó là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và
tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh.
Theo Nghị Quyết 04/HĐTP ngày 28/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định phần của tội phạm của BLHS
năm 1985 thì tình trạng tinh thần bị kích động mạnh, tình trạng người phạm
tội khơng hồn toàn tự chủ tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Sự
kích độ hành đó phải tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân gây nên. Cá biệt, có hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè
nén áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động âm ỉ, kéo dài tới
18