Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 24 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<i> Họ và tên sinh viên: MAI HUYỀN TRANG</i>
<i><b> Mã sinh viên: A43804</b></i>
<i> Giảng viên hướng dẫn: </i>PGS TS. NGUYỄN VĂN LỊCH
<b>Hà Nội 12/2021</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">1.3. Những thành tựu của ASEAN trong những năm gần đây...6
<b>CHƯƠNG II. VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Đông Nam Á (tiếng Anh: Southeast Asia, viết tắt: SEA) là tiểu vùng địa lý phía đơng nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đơng nam của tiểu lục địa Ấn Độ và phía tây bắc của Úc. Gồm 11 quốc gia: Việt Nam, Lào, Campuchia, Singapore, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei, Đông Timor. Mười trong số mười một quốc gia của Đông Nam Á là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong khi Đông Timor là một quốc gia quan sát viên của tổ chức này. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of South East Asian Nations, viết tắt là ASEAN) là một tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines, nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên.
Vào ngày 28.7.1995, tại Brunei, Việt Nam chính thức được kết nạp làm thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN). Sự kiện này đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong suốt hành trình 26 năm qua, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc duy trì đồn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngồi, góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển và thành công của ASEAN.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Gần 50 năm kể từ ngày thành lập đến nay, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hợp tác trên nhiều lĩnh vực của Châu Á – Thái Bình Dương. Việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN đã đánh dấu một bước phát triển mới giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á; tạo điều kiện cho sự phát triển của Việt Nam được mở rộng ra ngoài khu vực cũng như thế giới. Hơn hai mươi năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực cùng các nước thành viên thúc đẩy hợp tác, tăng cường đoàn kết và liên kết nội bộ ASEAN, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vai trò, vị thế của ASEAN trên thế giới. Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nổi lên là một thành viên năng động và trách nhiệm, mang lại những ảnh hưởng tích cực ASEAN, thúc đẩy hợp tác nội khối và tạo nhiều cơ hội cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy được vị thế của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á – ASEAN là rất cao và rất quan trọng trong nhiều lĩnh vực như địa chính trị, lịch sử, văn hóa, kinh tế, ngoại giao,...
<b>CHƯƠNG I. HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐƠNG NAM Á - ASEAN</b>
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á -ASEAN.
Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt là ASA. ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm Philippines, Malaysia và Thailand. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các Ngoại trưởng của 5 quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thailand – gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao Thailand ở Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok, để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. Năm ngoại trưởng Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thailand được coi là những sáng lập viên của tổ chức này. ASEAN là tổ chức liên kết của khu vực Đông Nam Á, được tạo dựng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ủng hộ hịa bình khu vực, và phát triển văn hóa giữa các thành viên. ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập ngày 08/08/1967 tại Bangkok, Thailand đánh dấu bằng sự kiện ký kết tuyên bố ASEAN (hay tuyên bố Bangkok) của các thành viên sáng lập Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand. Tiếp đó, sự gia nhập của Vương quốc Brunei vào ngày 07/01/1984, Việt Nam ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar ngày 23/07/1997, sau đó là Cambodia ngày 30/04/1999 nâng tổng số thành viên ASEAN hiện tại lên đến con số 10, bao gồm: Brunei, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thailand, Việt Nam. Quốc gia không phải thành viên của ASEAN là Đông Timor và hiện đang giữ vai trò quan sát viên.
1.2. Cơ cấu tổ chức ASEAN
Bộ máy hoạt động của ASEAN được quy định như sau:
1. Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit): Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội, họp chính thức 1 năm/lần.
2. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting – AMM): theo Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp khơng chính thức khi cần thiết. 3. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers –
AEM):AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp khơng chính thức khi cần thiết. Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Singapore.
4. Hội nghị Bộ trưởng các ngành: Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng năng lượng, Hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp. Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
5. Các hội nghị bộ trưởng khác: Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thơng tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này. 6. Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting – JMM): JMM được tổ
chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
7. Tổng Thư ký ASEAN: Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng khơng q một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng. Tổng thư ký hiện nay là ông Lâm Ngọc Huy (Lim Jock Hoi) cựu Bí thư thường trực Bộ Ngoại thương Brunei. 8. Ủy ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee – ASC): ASC
bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
9. Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting – SOM): SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Manila 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM. 10.Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials
Meeting – SEOM): SEOM cũng đã được thể chế hố chính thức thành
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Manila 1987. Tại hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
11.Cuộc họp các quan chức cao cấp khác: Ngồi ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường,ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hố và thơng tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
12.Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting – JCM): Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Tổng giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng Thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng Thư ký ASEAN sau đó thơng báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM. 13.Các cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại: ASEAN có 11 bên đối
thoại: Úc, Canada, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, UNDP, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ.ASEAN cũng đối thoại theo từng lĩnh vực với Pakistan.
Trước khi có cuộc họp với các Bên đối thoại, các nước ASEAN tổ chức cuộc họp trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức cao cấp của nước điều phối (Coordinating Country) chủ trì và báo cáo cho ASC:
1. Ban thư ký ASEAN quốc gia: Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.
2. Ủy ban ASEAN ở các nước thứ ba: Nhằm mục đích tăng cường trao đổi và thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN với bên đối thoại đó và các tổ chức quốc tế ASEAN thành lập các uỷ ban tại các nước đối thoại. Uỷ ban này
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">gồm những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao của các nước ASEAN tại nước sở tại. Hiện có 10 Uỷ ban ASEAN tại: Bon (Đức), Brussel (Bỉ), Canberra (Úc), Genève (Thụy Sĩ), Luân Đôn (Anh), Ottawa (Canada), Paris (Pháp), Seoul (Hàn Quốc), Washington, D.C, (Hoa Kỳ), Wellington (New Zealand).
3. Ban thư ký ASEAN: Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao lần thứ hai Bali,1976 tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN, phục vụ các hội nghị của ASEAN.
1.3. Những thành tựu của ASEAN trong những năm gần đây.
Về góc độ ASEAN, trước hết, ASEAN đã thể hiện sự đồn kết với nhiều nỗ lực trong cuộc chiến phịng chống đại dịch Covid-19, bao gồm việc thành lập Quỹ ứng phó Covid-19 của ASEAN, lập Kho Dự phịng vật tư y tế khẩn cấp của ASEAN, và thông qua Khung chiến lược ASEAN về các tình huống y tế công cộng khẩn cấp.
Thứ hai, ASEAN đã đẩy mạnh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, hiện thực hóa các ưu tiên, đặc biệt chú trọng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường các tiện ích xã hội phục vụ người dân, đơn giản hóa nền hành chính công, và xây dựng môi trường xanh.
Thứ ba, ASEAN đã đẩy mạnh tinh thần gắn bó, tương trợ lẫn nhau, qua đó thúc đẩy được ý thức cộng đồng, tạo dựng các giá trị chung của ASEAN và phổ biến rộng rãi đến người dân; thúc đẩy được nhận thức, nhận diện về Cộng đồng ASEAN thống nhất trong đa dạng; nâng cao hình ảnh Cộng đồng ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư, các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như Diễn đàn khu vực ASEAN, Cấp cao Đông Á, Cấp cao ASEAN+1… tiếp tục thu hút được sự tham gia của các
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">nước lớn, đóng góp vào việc bảo vệ hịa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực. Quan hệ của ASEAN với các nước đối tác được tăng cường.
Thứ năm, ASEAN đã đón nhận thêm Cuba, Colombia và Nam Phi trở thành thành viên mới của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), cùng trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Thứ sáu, việc ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) được cho là Hiệp định duy nhất quy tụ được sức mạnh kinh tế tập thể của các nước thành viên ASEAN với các nền kinh tế lớn trong khu vực, có ý nghĩa chiến lược đặt ASEAN vào vị trí trung tâm của các thỏa thuận kinh tế khu vực.
<b>CHƯƠNG 2. VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM TRONG KHU VỰC ĐÔNGNAM Á – ASEAN QUA CÁC LĨNH VỰC.</b>
Nói đến vị thế của một quốc gia là nói đến chỗ đứng của quốc gia đó ở khu vực và thế giới. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng, có năm nhân tố quyết định vị thế của một quốc gia, đó là nhân tố tự nhiên (vị trí địa lý của quốc gia đó có tầm quan trọng như thế nào đối với khu vực và thế giới); nhân tố lịch sử (dân tộc đó có những đóng góp như thế nào cho sự phát triển của xã hội loài người); nhân tố kinh tế (liên quan đến trình độ phát triển kinh tế của nước đó); sức mạnh quân sự của quốc gia đó mạnh hay yếu; đường lối chính sách đối nội và đối ngoại có hợp lịng dân và xu thế của thế giới không. Nếu xét theo những tiêu chí đó thì đất nước ta quy tụ hầu như tất cả các nhân tố nói trên. Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nổi lên là một thành viên năng động và trách nhiệm, mang lại những ảnh hưởng tích cực cho cấu trúc của ASEAN, thúc đẩy hợp tác nội khối và tạo nhiều cơ hội cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế, đóng góp quan trọng vào việc duy trì sự thống nhất, hịa bình và ổn định khu vực.
2.1. Vị thế trên lĩnh vực chiến lược.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Việt Nam có vị trí địa - chiến lược trong một khu vực chiến lược trọng yếu hàng đầu trên thế giới. Đông Nam Á nằm trên trục đường giao thông quan trọng các tuyến hàng hải, thương mại vào loại nhộn nhịp nhất châu Á, là vùng đất giàu tiềm năng và là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trên toàn cầu.
Vị trí “cửa ngõ”, “tiền tiêu” của Việt Nam khiến nước ta từ trước đến nay luôn là địa bàn cạnh tranh địa chính trị, xác lập và mở rộng ảnh hưởng giữa các cường quốc. Trong bối cảnh mới hiện nay, giá trị và vai trị chiến lược của Việt Nam có ý nghĩa đối với các nước lớn trong việc triển khai, hiện thực hóa chiến lược của các nước này trong khu vực. Giá trị chiến lược này là lợi thế để Việt Nam phát huy thế mạnh, tiềm lực của mình, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư, đồng thời cũng là thách thức trong phát triển kinh tế đất nước và trong công cuộc giữ vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia - dân tộc. Trong q trình triển khai, hiện thực hóa chiến lược, sáng kiến của mình trong khu vực, các nước lớn khơng chỉ thông qua cửa ngõ duy nhất là Việt Nam. Vị trí “cửa ngõ” của Việt Nam cũng có thể bị “bỏ qua” nếu Việt Nam không tận dụng được lợi thế của mình để nắm bắt cơ hội. Mặt khác, lợi thế “cửa ngõ” này cũng khiến Việt Nam trở thành nơi “đầu sóng, ngọn gió”, chịu ảnh hưởng sâu sắc trong những biến chuyển tương quan quyền lực chính trị, quân sự của cả khu vực. Cục diện mới của khu vực tiềm ẩn cả cơ hội lẫn thách thức đã và đang tác động sâu sắc, đa chiều, phức tạp đến Việt Nam.
2.2. Vị thế trên lĩnh vực lịch sử.
Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á được coi là cái nơi của lồi người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim.
Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những địi hỏi của cơng cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sơng Hồng (cịn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.
Văn hóa Hịa Bình và văn hóa Bắc Sơn, hai nền văn hóa này cũng được phát hiện ở Việt Nam. Đối với văn hóa Hịa Bình, trong một số hang động ở Hịa Bình, người ta tìm thấy dấu vết của bào tử phấn hoa họ rau, đậu. Niên đại của các di chỉ này khoảng 12.000 năm. Ở lớp trên của di sản văn hóa Hịa Bình đã xuất hiện những cơng cụ đá có mài lưỡi. Loại cơng cụ này đã được tìm thấy ở trong các hang động Bắc Sơn (Lạng Sơn – Việt Nam) với niên đại khoảng 10.000 năm đến 6000 năm. Đây là phát hiện sớm nhất về văn hóa Bắc Sơn ở Đơng Nam Á.
Trong quá trình dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc đấu tranh giữ nước, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam - kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây dựng và
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938 - 965), Đinh (969 - 979), Tiền Lê (980 - 1009), nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập.
Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009 - 1226), Trần (1226 - 1400), Hồ (1400 - 1407), Lê Sơ (1428 - 1527). Đại Việt dưới thời Lý - Trần - Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thơn tính Việt Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hồn cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng trì trệ của phương Đơng. Họ đã đệ trình những đề nghị canh tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858 - 1945).
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành cơng, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.
Nước Việt Nam non trẻ vừa ra đời lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài suốt 30 năm sau đó. Cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954) chống lại sự xâm lược trở lại của Pháp ở Việt Nam kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thơng qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam
</div>