Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Tranh tụng trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.1 MB, 93 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VŨ CHÍ TỒN

TRANH TUNG TRONG TO TUNG HINH SỰ

LUAN VAN THAC Si LUAT HOC

<small>HÀ NỘI - NAM 2016</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

VŨ CHÍ TỒN

TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

<small>Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tổ tụng Hình sựMã số : 60380104</small>

<small>Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ GIA LAM</small>

<small>HÀ NỘI - NĂM 2016</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>Các sô liệu, ví du và trích dan trong luận văn dam bao độ tin cậy, chính xác</small>

<small>và trung thực. Những két luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công</small>

bồ trong bat kỳ cơng trình nào khác

TÁC GIÁ LUẬN VĂN

<small>Vũ Chí Tồn</small>

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

<small>TS. Vũ Gia Lâm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

BLTTHS Bộ luật tơ tụng hình sự CQDT Co quan diéu tra

DTV Điêu tra viên

KSV Kiêm sát viên

TTHS Tổ tụng hình sự

VKS Viện kiêm sát

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

PHAN MO ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tai... eect | 2. Tình hình nghiên cứu đề tài...---- c2 c2 S sen 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài... ---: 4

<small>4. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn... 5</small>

<small>5. Phương pháp nghiên cứu...-.--- 5</small>

6.Y nghia khoa hoc va thuc tiễn của luận văn... 6

6. Kết cầu của luận văn...cc c2 2 221211211111 sreg 7 CHƯƠNG 1: NHUNG VAN ĐÈ CHUNG VE TRANH TUNG <small>TRONG TO TUNG HÌNH SỰ VÀ QUY ĐỊNH CUA BỘ LUẬT</small> TO TUNG HÌNH SỰ 2003... —... 8

<small>1.1. Khái niệm tranh tung trong tơ tụng hình sự... 8</small>

1.1.1. Những quan điểm khác nhau về tranh tụng... - 8

1.1.2. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự... 12

1.2. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự... 19

1.2.1. Y nghĩa chính tri- xã hội...-..-.---‹- 19

1.2.2. Ý nghĩa pháp lý... .--. -c n1 SH n Sky reg 22 1.3. Điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng... 22

1.4 Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003... 25

Kết luận Chương I... --- - --- << =< << c<s << << s*£sss 3l CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG TRANH TUNG TRONG TO <small>TUNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VA MOT SO KIEN NGHỊ... 32</small>

2.1. Thực trạng tranh tung trong tố tụng hình sự Việt Nam... 32

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

2.2. Nguyên nhân của những hạn ché, bat cập khi thực hiện

<small>tranh tụng trong TTHS ở Việt Nam... -Abad TVR UOT BH LAPP OPC san tí: dung Là + seas tà t NGHI Sã ï HS K15 HN 1S Wt H06 5 142.2.2 Nguyên nhán KháC... ... -... cee cee cee cà cài sêc cà cee tee về sẽ ees</small>

2.3. Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2015...

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Tư tưởng về tranh tụng đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật tố

tụng thế giới. Cùng với thời gian, tư tưởng tranh tụng đã được bổ sung, hoàn

thiện và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới và được coi là một trong những phương thức hữu hiệu nhất dé tìm ra công lý trong tô tụng tư pháp. Trong một chừng mực nhất

định, tranh tụng còn là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ,

tiễn bộ trong hoạt tộng tư pháp của mỗi quốc gia.

Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay theo truyền thống pháp luật các nước XHCN và có ảnh hưởng nhiều của truyền thống pháp luật các nước

Châu Âu lục địa. Do vậy, mơ hình TTHS của nước ta hiện nay về cơ bản là

mơ thình tố tụng xét hỏi có tiếp thu những yếu tố tích cực của mơ hình tranh tụng. Tuy nhiên yếu t6 tranh tụng trong tranh tụng hình sự chưa thực sự được

coi trọng đúng mức trên cả phương diện nhận thức, lý luận, thực tiễn xây

<small>dựng và áp dụng pháp luật.</small>

Về nhận thức: hiện nay còn có nhiều nhận thức khác nhau về tranh tụng, có khơng ít ý kiến khơng thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc trong TTHS, Nhìn chung các quan điểm này hoặc là có sự nhầm lẫn giữa nguyên tắc tranh tụng với mơ hình tố tụng hoặc khơng thừa nhận tính quy luật, tính khách quan của nguyên tắc tranh tung dé đi đến lập luận cho răng tranh tụng không phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay.

Vẻ mặt by luận: Trong thời gian qua đã có khá nhiều cơng trình nghiên

cứu khoa học, bài viết dé cập van đề nguyên tac tranh tụng trong TTHS hoặc đảm bảo tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thâm. Tuy nhiên trong khoa học

lại thiếu vắng các cơng trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về hoạt động tranh tụng và khả năng vận dụng và điều kiện hồn cảnh ở nước ta. Mặt khác, các

<small>cơng trình bài việt đã cơng bơ lại chưa có điêu kiện đê dé cập nhiêu dén vân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Về thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật: Có thé nói BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi, bố sung quan trọng so với BLTTHS năm 1988 về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, như: các quy định về trình tự xét hỏi; các quy định về Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày ý kiến; trách nhiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát

<small>viên... Day được coi là bước đột pha quan trong trọng hoạt động cai cách tư</small>

pháp nước ta, đặc biệt là thủ tục t6 tung. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa ghi

nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS. Do đó tư tưởng tranh

tụng chưa được nhà làm luật thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng tư

pháp trong BLTTHS. Tranh tụng mới chi được thé hiện một phan tại phiên tòa

xét xử mà chưa được thê hiện trong cả quá trình tố tụng từ điều tra, truy t6 đến

xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thâm. Các quy định của pháp luật về vị tri, vai

trò, trách nhiệm của các cơ quan tiễn hành tố tụng chưa thực sự rõ ràng, minh

<small>bạch, dân đên sự lân lộn vê chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.</small>

Thực tiễn thi hành BLTHS năm 2003 cho thấy chất lượng các khâu xét hỏi, tranh luận trong phiên tịa hình sự đã có những chuyền biến tích cực, góp phân nâng cao hiệu quả của hoạt động TTHS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Trong đó việc tơ chức phiên tòa theo

tinh thần cải cách tư pháp chưa được tồn diện, khâu tranh tụng tại phiên tịa chưa có chuyền biến nhiều, việc xét hỏi tranh tụng vẫn mang nặng tính truyền

thống. Kiểm sát viên khơng tham gia tranh tụng với Luật sư, Hội đồng xét xử

dường như làm thay chức năng của VKS... Những hạn chế này đã ảnh hưởng

khơng nhỏ đến qun và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm chậm tiến trình cải cách tư pháp, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp

và điều quan trọng là nó khơng phản ánh các giá trị đích thực của Nhà nước

pháp quyền mà chúng ta đang hướng tới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

"Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tô tụng tr pháp theo hướng dân chủ, bình dang, cơng khai, minh bach, chat chẽ, nhưng thuận tiện, bao dam sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng dé phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất

lượng hoạt động tư pháp", Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một

số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và nhất là

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ "nang cao chất lượng tranh tụng tai

<small>các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột pha của hoạt động tư pháp"; "Hoan</small>

thiện cơ chế đảm bảo dé luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,

<small>đồng thời xác định rõ chê độ trách nhiệm doi với Luật sw..."</small>

Đến nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được thơng qua và có nhiều sửa đổi, ngun tắc tranh tụng đã được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên tại thời điểm viết luận văn này, BLTTHS 2015 vẫn chưa có hiệu lực và chưa

được thi hành trên thực tế, do vậy việc nghiên cứu hoạt động tranh trụng trong

tố tụng hình sự Việt Nam là yêu cau có tính khách quan, cấp thiết cả về ly luận và thực tiễn. Do vậy, học viên đã chọn đề tài: "Tranh tụng trong to tung

hình sự" đề làm luận van thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

Hiện nay ở nước ta có một số các cơng trình tuy khơng đề cập trực tiếp

nhưng cũng thé hiện những nội dung nghiên cứu ở các góc độ khác nhau liên

quan đến tranh tụng hoặc nguyên tắc tranh tụng như: luận án tiến sĩ luật học

“Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của Hoàng Thị Sơn, đề tài nghiên cứu khoa học “Tranh tụng tại phiên tòa - Một số van đề lý

luận và thực tiễn”; cơng trình khoa học với để tài “Hồn thiện các quy định

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Văn Hiển. Ngoài ra, nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng còn được thể hiện trong nhiều bài viết khác như: cuốn “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền” do Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên; bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS”

của Lê Cảm; bài viết “Đặc điểm của mơ hình TTHS và phương hướng hồn thiện mơ hình TTHS ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai; bài viết “Cần bổ sung nguyên tắc tranh tụng vào BLTTHS” của Lại Văn Trình; sách "Tranh tụng trong xét xử sơ thâm" của tác giả Dương Thanh Biểu...

Các cơng trình nêu trên chủ yếu đề cập đến sự cần thiết phải áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, hoặc nghiên cứu tranh tụng như

<small>một hoạt động của q trình xét xử, chưa có cơng trình nào nghiên cứu theo</small>

chiều sâu trên góc độ lý luận và thực tế về bảo đảm hoạt động tranh tụng

trong trong suốt các q trình của tơ tụng hình sự, đồng thời so sánh những điểm mới về hoạt động tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 với BLTTHS

<small>năm 2013.</small>

<small>3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu của dé tài:</small>

Đối tượng nghiên cứu: Những vẫn đề lý luận tranh tụng, hoạt động

tranh tụng, về cải cách tư pháp, hoạt động xét xử sơ thấm, phúc thầm vụ án

hình sự, bảo đảm nguyên tắc Tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự theo yêu

cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

<small>Phạm vì nghiên cứu: trong giới hạn của luận văn thạc sĩ chuyên ngành</small>

Luật hình sự và tố tụng hình sự, học viên chỉ nghiên cứu tranh tụng với tính chất là một hoạt động cơ bản của TTHS Việt Nam dưới góc độ buộc tội và gỡ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu trên góc độ lý luận và</small>

thực tiễn về hoạt động tranh tụng trong t6 tụng hình sự Việt Nam va đồng thời đánh giá một cách khách quan, có căn cứ khoa học về sự thé hiện của nguyên tắc tranh trụng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS ở nước ta

hiện nay. Trên cơ sở đó dé xuất các định hướng, giải pháp góp phần hồn

<small>thiện va nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động tranh tung trong TTHS Việt</small>

Nam, giúp cho việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đầy đủ, bảo vệ tốt

<small>hơn các quyên con người, quyên công dân trong TTHS.</small>

<small>Dé thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra một sơ câu hỏi nghiên cứu là:3.1. Chứng minh tranh tụng là hoạt động cơ bản của TTHS và khả năng</small>

áp dụng hoạt động tranh tụng trong các mơ hình tơ tụng hình sự khác nhau.

<small>- Khái niệm, bản chat, ý nghĩa, mục đích, phạm vi, điêu kiện, nội dungcủa hoạt động tranh tụng?</small>

- Sự thé hiện của hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt nam? 3.2 Dựa trên điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam xác định:

- Những hạn chế của BLTTHS 2003 về tranh tụng?

- BLTTHS 2015 đã khắc phục được những hạn chế nào của BLTTHS 2003 về tranh tụng?

- Các yêu cầu cơ bản và những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đề xuất các định hướng, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng trong

tố tụng hình sự và đưa nguyên tắc "Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"

mới được quy định trong BLTTHS năm 2015 vào thực hiện trên thực tế 2

<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

pháp quyên, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải

<small>cách tư pháp va thủ tục tư pháp nói riêng.</small>

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Triết học

<small>mác — Lê Nin và chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.</small>

Cách tiếp cận của luận văn là đặt hoạt động tranh tụng trong mối quan hệ của hệ thống, trong mối quan hệ với các hoạt động cơ bản khác của TTHS đề thấy được mỗi quan hệ bên trong, vi trí, vai trị va tầm ảnh hưởng của hoạt động

tranh trụng trong quá trình tố tụng.

Luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa hoc cụ thé của khoa học xã hội và khoa học pháp lý phù hợp với yêu cầu cùa từng vấn đề

nghiên cứu, như: các phương pháp hệ thống, phân tích, tong hợp, so sánh,

thống kê... kết hợp với các phương pháp khảo sát thực tiễn đối với từng vấn

<small>dé cu thê đê làm sang tỏ nội dung cân nghiên cứu.</small>

6. Y nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Với mục tiêu nghiên cứu đã dé ra, luận văn này nghiên cứu nhăm tìm ra

một khái niệm chung về hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự, vai trị của tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và TTHS Việt Nam nói riêng,

các điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng diễn ra trong quá trình tố tụng hình sự trên thực tế, và đảm bảo tranh tụng trong phiên toà xét vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Đồng thời luận văn cũng đánh giá

những điểm tiễn bộ va hạn chế của BLTTHS 2003 về tranh tụng, so sánh với

BLTTHS 2015 dé tìm ra những điểm mới, tiễn bộ của BLTTHS 2015 về hoạt động tranh tụng. Hi vọng với kết quả đạt được luận văn sẽ góp phần bổ sung ly luận về cải cách tư pháp mà trong tâm là hoạt động tranh tụng trong xét xử;

bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm hoạt động tranh tụng trong tố tụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nam hiện nay nói chung, góp phần vào việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng

tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử mà Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị coi là điểm nhắn của cải cách tư pháp, đồng thời có thé làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng

<small>day trong các trường dao tạo luật.</small>

7. Kết cau của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Những van dé chung về tranh tụng trong tô tụng hình sự

Chương 2: Thực tiễn tranh tụng trong tơ tụng hình sự Việt Nam và một

<small>sơ kiên nghị</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

1.1. Khái niệm tranh tung trong tố tụng hình sự

1.1.1. Những quan điểm khác nhau về tranh tụng

Tranh tụng là hình thức (kiểu) tố tụng được biết đến ngay từ những thời

đại xa xưa của xã hội loài người. Loại hình tơ tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng rộng rãi ở La Mã với tên gọi “thủ

tục hỏi đáp liên tục”, Cùng với thời gian, tranh tụng được kế thừa, phát triển và được khẳng định và đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.

Về mặt thuật ngữ thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”” giữa hai bên (bên nguyên và bên bị) có lập tường tương phản yêu cầu tòa án phân

<small>xử. Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ</small>

“tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng. Trong tiếng Anh, thuật ngữ tranh tụng thường được gan liền với khái niệm “hệ t6 tung

tranh tung” (Adversarial System) với hàm ý đối lập với hệ tố tụng thâm van

<small>(Inquisitorial System). Trong pháp luật Liên bang Nga tranh tụng được ghi</small>

nhận tại Điều 15 Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001 với tính chất là một

nguyên tắc cơ bản của TTHS Liên bang Nga.

Trong khoa học pháp lý Việt Nam thuật ngữ "tranh tụng" đã được biết

đến từ lâu, tuy nhiên nhận thức một cách đúng đắn về thuật ngữ này vẫn còn

là vấn để còn tồn tại nhiều ý kiến, nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm này. Cụ thể:

<small>' Nhà pháp luật Việt — Pháp: Kỷ yếu hội thảo "Mor số nội dung về nguyên tắc tô tụng xét hỏi và tranh tụng —</small>

<small>Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bôi dưỡng bồ nhiệm quản lý Thẩm phán", Hà Nội, 2002</small>

<small>? Đại từ dién tiếng Việt, Nxb.Khoa học xã hội, 1991.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

điểm và lợi ích của phía đối lập” . Như vậy, theo định nghĩa này thì tranh tụng được nhìn nhận như một hoạt động của tố tụng hình sự.

Có quan điểm khác cho rằng, tranh tụng là "một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được

mục đích, các nhiệm vụ đặt ra của Luật tơ tụng hình sự",

Quan điểm này đồng nhất tranh tụng với quá trình xác định sự thật của vụ án tức là với hoạt động chứng minh. Ở đây có sự nhằm lẫn giữa nội dung và hình thức, giữa hoạt động tố tụng với chính hình thức hoặc cách thức tiễn

<small>hành của nó.</small>

Tác giả của quan điểm này một thời gian sau đã đưa ra định nghĩa khác

hơn về tranh tụng. Theo đó, tranh tụng "được dùng theo nghĩa Hán Nôm dé chỉ một cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vu án bang cách các bên tham gia

<small>đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho sự buộc tội</small>

hay bào chữa của mình dé người thứ ba đứng giữa hai bên là Tòa án làm trọng

tài phân xử"Ẻ.

Quan điểm mới này có bước tiến bộ so với quan điểm thứ nhất khi đề

cập đến vai trị trọng tài của Tịa án trong q tình giải quyết vụ án như là một đặc điểm của tố tụng có tính tranh tụng. Tuy nhiên, những đặc điểm khác của khái niệm tranh tụng hay t6 tụng có tính tranh tụng vẫn chưa được làm rõ.

Bên cạnh đó các diễn đạt này dễ dẫn đến sự nhằm lẫn "tranh tụng" chính là

<small>"tranh luận".</small>

Ở Việt Nam, tranh tụng và van đề tranh tụng chỉ mới được đề cập và

trao đối nhiều trong thời gian gần đây khi Đảng và Nhà nước ta khởi động <small>* Viện khoa học pháp lý, Từ điền luật học , Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.807-808</small>

<small>* Nguyễn Đức Mai, Nguyên tắc tranh trụng trong tơ tụng hình sự, Tạp chí Luật học sô 1/1995” Nguyễn Đức Mai, Tranh tung trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật số 1/1996</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu vào đời sống kinh tế và đời sống pháp lý quốc tế.

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị

quyết 08-NQ/TW) đã xác định: “Nang cao chất lượng công tô của Kiểm sát

<small>viên tại phiên toa, bảo đảm tranh tung dân chủ với Luật sư, người bào chữa</small>

và những người tham gia to tụng khác. Khi xét xử, các Tòa án phải dam bảo cho mọi cơng dân đều bình dang trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách

quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phan

quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa... đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào q trình tơ tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hỗ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toa..”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49-NQ/TW) một lần nữa yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất

<small>cả các phiên tòa xét xu, coi day là hoạt động đột phá cua các cơ quan tư</small>

pháp...”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/1012 tiếp tục khang định

“Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét

xử các vụ án hình sự... Tịa án nhân dân toi cao chi đạo các Tòa án tiếp tuc day mạnh việc tranh tung tại phiên tòa ”.

Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh

tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự; các qui định của Bộ luật TTHS

năm 2003 và qui định của Hiến pháp 2013, có thể nhận thấy khái niệm tranh

tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, gần đây được Hiến pháp 2013 qui định. Tranh tụng được hiểu

với nghĩa khơng phải là một kiêu mơ hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận

của Kiểm sát viên và những người tham gia tơ tung trong tơ tụng hình sự, cụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

thé là tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bao gồm cả phiên tồ sơ thầm va

phúc thâm. Trong đó, Kiểm sát viên và người tham gia tố tung dựa trên các tài

<small>liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy logic hình thức</small>

để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách

<small>quan của vụ an.</small>

Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức. Dưới góc độ pháp lý, bản chất của

<small>tranh tụng gơm có các nội dung cơ bản sau đây:</small>

- Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng

phải tuân theo các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Chủ thé của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tơ tụng khác có quyên và lợi ích đối lập với nhau trong vụ án hình sự. Các chủ

thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án. Kiểm sát viên có thê tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác dé làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

- Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiến của chủ

toạ phiên toà. Chủ tọa phiên tồ có quyền u cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc quyết định chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như

phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần

<small>thiệt làm rõ các vân đê của vụ án.</small>

- Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan

của vụ án. Sự thật khách quan này bao gồm các tình tiết vụ án và các tình tiết liên quan đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ

pháp lý (đưới góc độ đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và pháp luật tố

<small>tụng hình sự).</small>

<small>- Đơi tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điêm, luận cứ và luậnchứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Cách thức tranh tụng là các bên chủ thê tranh tụng sử dụng các chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới phát hiện hoặc được cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện

<small>hành dé làm rõ các vân dé cân tranh tụng của vụ án.</small>

Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức, ban chất của

<small>tranh tụng có các nội dung sau:</small>

- Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khăng định

quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên

tranh tụng đối lập.

- Tranh tụng không chỉ là quyên, là trách nhiệm của các bên tham gia tranh tụng mà còn là một phương pháp hữu hiệu để xác định sự thật khách

quan của vụ án. Nói cách khác, tranh tụng khơng chỉ là quyền, nghĩa vụ của các chủ thé của tô tụng mà còn là phương tiện dé đạt được sự thật khách quan của vụ án. Chân lý về vụ án chỉ có thé được tìm thay, có được thơng qua tranh

tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ dé khang định lời nhận tội của bị

cáo là có cơ sở, tại phiên tồ khơng có những quan điểm xung đột thì khơng phát sinh tranh tụng hoặc nếu có thì chỉ ở mức độ nhất định.

Như vậy có thé thấy, trên thé giới và ở Việt Nam, khái niệm “tranh

tụng” đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất. Ở mỗi quốc gia khác

nhau, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật mà khái niệm “tranh tụng” được hiểu

<small>theo một nghĩa khác nhau.</small>

1.1.2. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự

Trong khoa học t6 tụng hình sự, khái niệm tranh tung được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Trước hết tranh tụng có thể được hiểu như là một nguyên tac cơ ban của TTHS. Có thể hiểu nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tơ tụng hình sự hoặc đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

một loại hoạt động nhất định, đó là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên

suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thé về tố tụng hình sự; hoặc đó là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật t6 tung hinh su ghi nhan. Khi tranh tung là một ngun tắc thì nó phải thé hiện tinh dân chủ, cơng khai, minh bạch, khách quan, bình đăng trong tất cả các hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là trong phiên tịa xét xử vụ án hình sự, vì xét đến cùng, tranh tụng là phải tiễn đến giải quyết tranh chấp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại Tòa án.

Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tô tụng sử dụng các phương pháp dé bảo vệ các quyên và lợi ich hợp pháp cho mình. Nguyên

tắc tranh tụng dé cao vai trò của Luật sư, của cá nhân va dé cao các quyền co ban của con người. Tham phan chỉ đóng vai trị trọng tài khách quan va công

minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên

tòa. Nguyên tắc tranh tụng địi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện cơng

<small>khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát Tòa án và luôn phải chịu trách sức</small>

ép từ bên đối lập. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự

chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu khơng họ sẽ là người thua

Tranh tụng có thê được xem xét ở góc độ là một loại mơ hình tổ tụng.

Khái niệm mơ hình TTHS được hiểu là một cách thức tổ chức hoạt động TTHS trong số nhiều cách thức tổ chức khác mà nhân loại đã biết đến. Mơ hình tổ tụng tranh tung đã hình thành và tồn tại ở mỗi quốc gia dưới tác động của nhiều yếu tố, điều kiện lich sử, kinh tế, văn hóa, truyền thống pháp ly...Muc đích của mơ hình này là nhằm bảo đảm sự bình đăng tuyệt đối giữa bên buộc tội (cơ

quan công tố) và bên bào chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật vụ án. Day là

mơ hình tạo ra nhiều cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng tơ tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mơ hình này có một quy

trình tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử thể hiện tính cơng băng cao, thể

<small>hiện qua vai trị bình đăng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Ở giai đoạn tiên xét</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

xử, công tố viên và luật sư có quyền điều tra, thu thập chứng cứ như nhau. Khi xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra dé thấm tra trước tòa, đều có quyền lựa chọn nhân chứng dé thâm tra... Thơng qua đối tụng giữa công tố viên và luật sư mà tịa án gồm đồn bơi thâm và thâm phán chủ tọa phán quyết về sự thật khách quan và định hình phạt. Mơ hình này cho phép luật sư có thể tham gia đầy đủ vào q trình tố tụng nên tịa án có thê thêm được một nguồn thông tin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự thì đồn bồi thâm được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Điều này bảo đảm cho mục đích tìm ra sự thật khách quan và chất lượng tranh tụng được nâng lên.

Trong mơ hình tố tụng tranh tụng khơng tồn tại một “hồ sơ hình sự” theo nghĩa sử dụng trong mơ hình tố tụng thâm vấn. Bên buộc tội và bên bào chữa đều có quyền lập tài liệu, hồ sơ và khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ sơ đều khơng có giá trị chứng cứ mà chỉ có chứng cứ nào được trình bảy và

thâm tra tại tịa bằng miệng, được tịa án chấp nhận thì đó mới là chứng cứ và

được sử dụng dé định tội.

Ngoài ra, trên phương diện là một hoạt động tố tụng hình sự, tranh tụng được nhìn nhận như là "một quá trình cọ sát các quan điểm, lập luận về vụ án

giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình TTHS nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án" và đỉnh điểm của q

trình này diễn ra tại phiên tịa trước tịa án có vai trị là trọng tài.

Nhu vậy, khái niệm “/ranh tung” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác

nhau: tranh tụng có thể được hiểu như là một hoạt động của TTHS; tranh tung

được hiểu như một nguyên tắc của TTHS và tranh tụng cũng được hiểu như một kiểu, mơ hình tố tụng. Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vẫn đề "tranh

<small>tung" ở những góc độ khác nhau tùy mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi</small>

luận văn này, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình được hiểu dưới góc độ <small>5 Lê Tiến Châu, Một số van đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

là một hoạt động trong tổ tụng hình sự. Đề làm rõ khái niệm tranh tụng dưới góc độ là một hoạt động trong t6 tung hinh su, cần làm rõ một số điểm sau.

<small>- Phạm vi của hoạt động tranh tụng:</small>

Dưới góc độ là một hoạt động tố tụng hình sự, việc xác định phạm vi tranh tụng được có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Theo tiễn sĩ Lê Tiến Châu thì có hai quan điểm khi xác định phạm vi của tranh tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng: "quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước

khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thâm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), thậm chí q trình này lại cịn được tiếp tục trong một số trường hợp khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy dé tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại"”. Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn xét xử vụ án (xét xử sơ thâm, phúc thâm, khơng có giai đoạn xét xử giám đốc thâm, tái thâm) với sự có mặt đầy đủ ba chủ thé: bên buộc tội, bên bào chữa và Tịa án.Š

Theo quan điểm thứ nhất, có thể hiểu rằng, khi nào xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội thì khi đó xuất hiện tranh tụng, vì vậy việc tranh tụng được diễn ra trong điều kiện mà ở đó chỉ cần có chủ thê của hai bên buộc tội và bào

chữa tham gia. Với quan điểm này, quá trình tranh tụng được bắt đầu từ khi

xuất hiện người bị tình nghi phạm tội (khi tạm giữ người bị tình nghi hoặc bắt người phạm tội quả tang, hoặc khi khởi tố vụ án), cho đến khi vụ án được đưa

ra xét xử và kết thúc khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này chưa có đầy đủ cơ sở dé thuyết phục. Bởi lẽ Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, việc buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên đối tụng thực hiện một cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình, các bên đều có quyền tự

<small>Nguyễn Đức Mai, Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ của Việnkiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội 1999</small>

<small>Š Lê Tiến Châu, Một sô van dé về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháplý số 1/2003</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thu thập, đưa ra những tài liệu chứng minh quan điểm của mình, bác bỏ quan

điểm của bên cịn lại, nhưng lại khơng có quyền quyết định quan điểm nao, chứng cứ nào là đúng, là có căn cứ... Q trình tranh tụng ở đây còn thiếu một chủ thé giữ vai trò quyết định đó là Toa án với chức năng xét xử. Chỉ khi đến giai đoạn xét xử thì Tịa án mới tham gia với vai trò là trọng tài phán quyết chấp nhận hoặc bác bỏ lập luận của các bên, quyết định bên nào là người thắng cuộc. Tại phiên tịa, với sự có mặt đầy đủ các chủ thé, quá trình tranh tụng mới được tiễn hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên

<small>bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.</small>

Do đó, theo quan điểm cá nhân của tác giả, quá trình tranh tụng chỉ thực sự

được tiễn hành khi có sự hiện diện day đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án... Chính vì vậy mà q trình này chỉ có thé

được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa.

Về thời điểm kết thúc của q trình tranh tụng. Có thé thấy, thơng qua q trình tranh tụng, mâu thuẫn giữa các bên được giải quyết, sự thật của vụ án được làm sáng tỏ và khi có một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật

thì q trình tranh tụng sẽ kết thúc. Có ý kiến cho rằng, sau quá trình xét xử sơ thâm là quá trình xét xử phúc thâm, giám đốc thâm và tái thâm, quá trình

tranh tụng van cịn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham

<small>gia và các chức năng được thực hiện. Phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nộidung kháng cáo, kháng nghị. Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử</small>

cũng không được thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thâm. Như vậy, có thé khang dinh rang tranh tung ton tại ton tại ở các giai đoạn tố tụng khi mà ở đó

có sự hiện diện của các bên buộc tội, bào chữa... Theo ý kiến này, tranh tụng ton tại ở cả giai đoạn Giảm đốc thâm và tái thẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy

rang, trong thủ tục giám đốc thâm, tái thẩm, tranh tụng không tôn tại. Theo

quy định của luật tố tụng hình sự thì giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm việc triệu tập những những

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

người tham gia t6 tụng không phải là bắt buộc, do vậy hau nhưu khơng có sự

hiện diện đủ của các bên tranh tụng, nhất là bên gỡ tội, vì vậy khơng thé có tranh tụng. Và kết quả của việc giám đốc thấm, tái thâm sẽ đặt dấu chấm hết cho vụ án (trong trường hợp không chấp nhận kháng nghị) hoặc tạo ra một quá trình t6 tụng mới (nếu phán quyết của hội đồng giám đốc thâm, tái thâm chấp nhận kháng nghị, quyết định việc điều tra, xét xử lại vụ án). Như vậy có thé xác định tranh tụng chỉ ton tại đến gia đoạn xét xu sơ thầm, phúc thầm chứ không tồn tại trong giai đoạn giám đốc thâm, tái thâm.

- Chủ thể của hoạt động tranh tụng

Chủ thê của hoạt động tranh tụng chính là các bên tham gia vào quá

trình tranh tụng trong tố tụng hình sự. Trong vụ án hình sự khơng phải chỉ có

các bên buộc tội và gỡ tội mà trong nhiều trường hợp cịn tồn tại một bên thứ ba đó là những người tham gia dé giải quyết các van đề khác như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan... và các bản án, quyết định của Tịa án cũng khơng đơn thuần chỉ xác định bị cáo có tội hay vơ tội ma cịn xác định cả các van đề dân sự trong vụ án hình sự. Như vậy, có thê

thay được, chủ thé trong tố tụng hình sự rất đa dạng. Tuy nhiên, như đã phna tích ở trên, tranh tụng chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, do đó cũng chi

có các chủ thé được tham gia trong giai đoạn nay mới là các chủ thé của tranh

tụng. Có thé phân thành bốn nhóm chính sau:

<small>+ Nhóm các chủ thê thực hiện chức năng buộc tội: Kiêm sát viên (đạidiện Viện kiêm sát), người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện củahọ.</small>

<small>+ Các chủ thê thực hiện chức năng gỡ tội, bao gơm: bị cáo (đơi với bịcáo chưa thành niên thì cịn có người đại diện hợp pháp của họ); người bào</small>

<small>chữa, bị đơn dân sự, người đại diện của bị đơn dân sự.</small>

<small>+ Chủ thê thực hiện chức năng xét xử là Tịa án, gơm có: thâm phán,</small>

hội thâm

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

+ Cuối cùng là các chủ thể tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo xác

<small>định sự thật của vụ án như: người làm chứng, người giám định, người phiêndịch...</small>

- Đối tượng của hoạt động tranh tụng

Đối tượng chính là điều mà các bên hướng tới, trong hoạt động tranh tụng, đối tượng mà các bên hướng tới chính là các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án để vụ án được xem xét

một cách khách quan, cơng băng, qua đó giải quyết các mâu thuẫn, bảo vệ quyên và nghĩa vụ của bên mình, tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Trong

<small>hoạt động tranh tụng, các bên buộc tội và gỡ tội phải thông qua việc thu thập</small>

tài liệu, chứng cứ dé đưa ra những luận điểm của mình, phản bác luận điểm

của bên đối tung, đó có thé là việc xác định tính hợp pháp, tính đúng dan của các quyết định t6 tụng hoặc các thủ tục t6 tụng (như áp dụng các biện pháp ngăn chặn đúng hay sai, việc lấy lời khai có đúng thủ tục khơng, lời khai có đúng không, lời khai là buộc tội hay gỡ tội, hay việc kết quả giám định, kết

<small>quả khám nghiệm hiện trường có khách quan khơng...)- Mục đích của hoạt động tranh tụng:</small>

Mục đích chính là điều mà các bên mong muốn đạt được. Mục đích của hoạt động tranh tụng đó là khang định, chứng minh quan điểm của bên mình là đúng đắn, bác bỏ quan điểm của bên đối lập. Cụ thé, đó là nhăm làm rõ bản chất của vụ án, chứng minh xem có sự việc phạm tội xảy ra hay không, xảy ra bao giờ, vào thời gian nào, địa điểm ở đâu, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, sự việc có lỗi hay khơng và là lỗi có ý hay vơ ý, những tình tiết tăng nặng,

<small>giảm nhẹ tách nhiệm hình sự; hậu quả do hành vi gây ra; mục đích, động cơphạm tội là gì....</small>

<small>- Hình thức của tranh tụng</small>

<small>Hình thức của hoạt động tranh tụng đó là những phương pháp, cáchthức mà các bên thê hiện ra đê nhăm đạt được mục đích của mình. Đơ chính</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<small>là việc thông qua các hoạt động thu thập và đưa ra những chứng cứ, tài liệu;</small>

phản bác, khiếu nại về quá trình thu thập chứng cứ và bảo quản chứng cứ;

<small>xác định căn cứ và thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn; sự chính xac va</small>

đúng đắn của các hoạt động khám nghiệm, giám định trong giai đoạn điều, tra, truy tố dé tiễn hành xét hỏi và tranh luận và đối đáp tại phiên tòa giữa các

<small>bên dưới sự giám sát, trọng tài của Tòa án.</small>

<small>Qua phân tích ở trên, có thê rút ra khái niệm về tranh tụng như sau:</small>

Tranh tụng là một hoạt động to tụng hình sự được thực hiện bởi các

chủ thể tổ tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) dưới sự trọng tài cua Toa an dé

bảo vệ quan điểm của minh và bác bỏ quan điểm của phía doi lập, trên co sở

đó giúp Tịa án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đây đủ, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức.

1.2. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự

Việc thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS không

đơn thuần chỉ có ý nghĩa trên phương diện pháp lý mà cịn có ý nghĩa trên

nhiều phương diện khác nhau.

1.2.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội

Trên phương diện chính trị -xã hội, cần hiểu tranh tụng là một sản

pham, giá trị của nền dân chủ thực sự. Điều này đã được chứng minh qua quá

trình hình thành, tồn tại và pháp triển của TTHS thế giới. Trong các nhà nước

cô đại, trung cô hầu như giai cấp thống trị thời kỳ này không ghi nhận tranh

tụng như là một nguyên tắc, một hoạt động của TTHS, bởi lẽ, các nhà nước thời kỳ này phan lớn là các nha nước chuyên chế của chủ nô và phong kiến,

sự tồn tại của nhà nước là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị bóc lột, trong xã hội khơng thé có bình dang và càng khơng thé có dân chủ. Chính điều này là cơ sở chính trị cho việc khơng thé có việc ghi nhận tranh tụng là

<small>một hoạt động trong TTHS, các hành vi xúi giục người khác làm đơn thưa</small>

kiện (điều 17 - Quyền 16 Hoàng Việt luật lệ) đều bị trừng trị, việc phán quyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

của quan tòa dựa trên lời nhận tội của bị cáo và các bị cáo phải tự tay viết lời nhận tội (điều 15- Quyền 20 Hoàng Việt luật lệ)...

<small>Trong thời đại ngày nay, dân chủ được coi là một trong những giá tri</small>

lớn nhất của nên văn minh nhân loại, khơng có dân chủ sẽ khơng có bình

đăng, khơng có tiến bộ và khơng có văn minh. Do vậy, các quyền và lợi ích của mỗi cá nhân, từng chủ thé trong xã hội cần phải có sự bảo vệ ngày một tốt

hơn về mặt pháp lý và thực tế. Khoản 1, Điều 9 Công ước quốc tế về các

quyền dân sự và chính trị năm 1966” quy định rõ: “Moi người déu có quyền

hưởng tự do và ân tồn cá nhân, khơng ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ.

Không ai bị tước quyên tự do trừ trường hợp việc tước quyên đó là có lý do

<small>và theo đúng những thu tục mà luật pháp đã quy định”. Linh vực TTHS được</small>

coi là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất trong việc bảo đảm quyền về an toàn cá nhân. Do vậy dé đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của

<small>những người bị tình nghi là phạm tội, của những người bị buộc tội, Công ước</small>

yêu cầu các quốc gia phải có một cơ quan tài phán thực sự độc lập, khơng thiên vị; người bị tình nghi phạm tội phải có đầy đủ thời gian và điều kiện cần

thiết dé bảo đảm được quyền bảo chữa của mình, Điều 14 của Công ước này

<small>quy định rõ:</small>

“1. Mọi người déu bình dang trước Tịa án và cơ quan tài phán. Moi

người đêu có qun được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một tịa án có thấm qun, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để

quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ an hình sự, hoặc dé xác định

<small>quyên và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự...,;</small>

2. Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vơ tội

<small>cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật;</small>

<small>° Được thông qua va dé ngỏ cho các: quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết2200 ngày 16/12/1966 của Đại hội đông liên hợp qc, có hiệu lực ngày 23/3/1976, căn cứtheo Điêu 49. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>3. Trong qua trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đêu có quyên</small>

<small>được hưởng một cách day du và hồn tồn bình đăng những bao dam toi</small>

thiểu sau đây:

b) Có du thời gian và diéu kiện thuận lợi đề chuẩn bị bào chữa và liên

<small>hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;</small>

<small>d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua</small>

sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thơng báo về qun này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích địi hỏi và khơng phải trả tiền cho sự trợ giúp

đó néu khơng có du diéu kién tra;

e) Được thẩm van hoặc yêu cẩu thẩm van những nhán chứng buộc tội

mình va duoc mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tịa và thẩm van ho tại phiên tòa với những diéu kiện tương tự như doi với những người làm

<small>chứng buộc tội minh;</small>

ø) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

<small>phải nhận là mình có tội... ”</small>

Có thê nói đây là những quy định mang tính nền tảng để mỗi quốc gia thành viên thê chế hóa thành luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của

các bên trong tơ tụng hình sự. Thé chế hóa ngun tắc tranh tụng trong TTHS

sẽ là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phan bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tơ tụng hình sự, bảo đảm dân chủ thực sự

trong tố tụng hình sự. Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì các giá trị về dân chủ, nhân

quyền trong TTHS càng được đề cao hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, Nghị

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

quyết 08-NQ/TW đã nhắn mạnh “Nâng cao chat lượng công tô của Kiểm sát

<small>viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào99</small>

chữa...” , “Việc phan quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa... ”. Nghị quyết sơ 48-NQ/TW chỉ rõ: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tô tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình dang, cơng khai, minh

<small>bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân</small>

dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết

bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”,

“Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật su thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên

toa, dong thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đổi voi luật sư”.

1.2.2. Ý nghĩa pháp lý

Việc thừa nhận hoạt động tranh tụng trong TTHS sẽ dẫn đến những

nhận thức tích cực hơn về TTHS nói chung, về mơ hình tổ chức hệ thống tư pháp và thủ tục TTHS nói riêng. Đề cho hoạt động tranh tụng được vận hành

<small>trơi chảy địi hỏi các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp phải có cái</small>

nhìn tong thé hơn về mơ hình tổ chức hệ thống cơ quan tư pháp. Dé đảm bảo được yếu tố tranh tụng thì địi hỏi phải có sự rành mạch, rạch ròi về chức năng

của các bên buộc tội, gỡ tội và xét xử. Do vậy, về mặt tổ chức phải bảo đảm sự độc lập của tòa án, mọi yếu tơ làm ảnh hưởng đến tính độc lập của tịa án phải được loại bỏ (vi dụ như việc bố nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ, hay việc Tòa án nhân dân tối cao quản lý các tòa án địa phương về mặt tổ chức...). Về mặt chức năng, quyền hạn và thủ tục tố tụng cần phải có những

phân biệt thật ranh mạch trong tố tụng, không thé dé lẫn lộn giữa chức năng

buộc tội với chức năng xét xử (như việc xếp Tòa án và cùng một bên với Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra và được coi là cơ quan tiến hành tố tụng trong sự

đối lập với những người tham gia tố tụng khác; Tịa án có qun trả hồ sơ để

điều tra b6 sung như một Công tổ viên thứ hai... ). 1.3. Điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Tranh tụng là hoạt động quan trọng trong tố tụng nói chung và TTHS

nói riêng. Đề việc tranh tụng được thực hiện và thực hiện có hiệu quả, cần phải đảm bảo được hai yêu cầu chính sau:

Một là, bên buộc tội và bên bào chữa phải thực sự bình đăng với nhau.

<small>Hai là, Tịa án phải độc lập, khách quan đảm bảo cho hai bên có cácđiêu kiện như nhau dé thực hiện chức năng của minh.</small>

<small>Lé-nin đã từng nói: sự thật chỉ được tìm ra thơng qua tranh luận và but</small>

chiến. Trong TTHS điều đó có nghĩa là sự thật chỉ được tìm thấy qua tranh luận tự do và cơng bang. Tranh tụng địi hỏi pháp luật TTHS phải đảm bảo cho các bên day du cac phuong tién cần thiết dé có thé thực hiện được chức

<small>năng của mình. Phương tiện của các bên phải tương xứng với nhau và phải</small>

phủ hợp với chức năng của chúng. Sẽ là bất bình dang khi pháp luật dành cho

một bên quá nhiều phương tiện còn bên kia lại có q ít. Khơng nên quan

niệm rang vì bên buộc tội (công tố) là đại diện cho Nhà nước còn bên bào chữa chi đại diện cho quyên lợi của người bị buộc tội (là đối tượng của tổ tụng của trách nhiệm hình sự) nên khơng thé bình dang được. Quan điểm này cần phải được xem xét lại. Tư tưởng bình đăng này khơng chỉ thể hiện ở tại

<small>phiên tòa mà còn phải được đảm bảo từ trước khi mở phiên tịa, ở đó các bên</small>

phải được đảm bảo các điều kiện thuận lợi trong việc chuẩn bị các điều kiện

cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Nếu bên buộc tội và bên bào chữa không thực sự bình đắng và Tịa án khơng độc lập trong q trình xét xử thì sẽ khơng có tranh tụng hoặc tranh tụng nửa vời. Nội dung Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nói ở trên đã thé hiện rất rõ ràng tư tưởng chỉ đạo này. Bên cạnh sự bình đăng giữa bên buộc tội, bên bào chữa và sự độc lập của Tòa

án về phương diện pháp lý, yêu cầu và hiệu quả của tranh tụng cịn địi hỏi sự bình đăng và độc lập trên phương diện thực tiễn. Những biểu hiện vi phạm các quy định pháp luật TTHS vốn đã có và sẽ có trong thực tiễn tranh tụng phải được khắc phục băng những giải pháp khác nhau như công tác tổ chức, dao tạo, tuyên chọn thâm phán và những chủ thé tham gia tranh tụng, nâng

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

cao nhận thức, nhất là lương tâm trách nhiệm, trình độ chun mơn, kiến thức

<small>văn hóa pháp lý... cho họ.</small>

<small>Đê đảm bảo được hai yêu câu này, cân phải có các điêu kiện khác nhau</small>

<small>vê pháp lý, vê tô chức cũng như về cơ sở vat chat:</small>

- Những bảo đảm về mặt pháp ly được thé hiện trên các phương diện

Thứ nhất, phải có các quy định pháp luật thé hiện một cách day đủ nhất

quán, rõ ràng sự phân định tham quyên và trách nhiệm, nghĩa vụ của người

bào chữa và các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các chức danh tư

pháp ở mỗi cơ quan, phù hợp với vị trí, vai trị (chức năng) của họ theo yêu

cầu tranh tụng. Các quy định của pháp luật về địa vị tố tụng của các bên tham

gia tố tụng phải day đủ, hợp lý và khả thi dé họ có đầy đủ điều kiện, khả năng

<small>thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của</small>

mình: được chủ động thu thập vật chứng, cung cấp tài liệu cho Tòa án, được kiểm tra chéo chứng cứ của nhau, được nêu ra yêu cau, hỏi người là chứng và

<small>phản bác quan điêm của nhau...</small>

Tứ hai, các quy định thủ thục tố tụng phải bình đăng, nhất là tại phiên tịa; đảm bảo để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và binh đăng: mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của người bào chữa. Tư tưởng bình dang này khơng chi thé hiện

<small>ở tại phiên tịa mà còn phải được bảo đảm ở mọi giai đoạn tô tụng.</small>

Thứ ba, các quy định về quyền khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị ban án, quyết định của các bên và hiệu lực như nhau của các khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị đó. Ví dụ: Viện kiểm sát và bị cáo đều có quyền kháng nghị, kháng cáo như nhau đối với bản án, quyết định của Tòa án.

- Các bảo đảm vẻ tổ chức bao gồm các van dé như: phân định rõ chức năng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, tạo điều kiện pháp triển các tô chức bồ trợ với chức năng hợp lý, phù hợp với cơ chế tranh tụng (luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

sư, giám định, trợ giúp pháp lý...). Các van đề như quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong tổ tụng hình sự, Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát tư pháp hay khơng, có cho phép thành lập các tổ chức thám tử tư để giúp người tham gia tố tụng thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra... là những vẫn đề cần được nghiên cứu thỏa đáng. Việc tăng cường các tổ chức luật sư tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý... việc mở rộng phạm vi bào chữa để bảo đảm các phiên tịa có sự tham gia của người bào chữa ngày càng nhiều; nâng cao văn hóa pháp ly trong t6 tụng nói chung và tại phiên tịa nói

riêng... cần dược quan tâm thỏa đáng. Viêc nâng cao trình độ, nhận thức của

các bên tham gia tố tụng, bảo đảm cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về

phong cách, về khả năng dién đạt đề thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa

cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Trong những trường hợp người tham

gia tranh tụng khơng có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của luật sư, mở rộng dối tượng được trợ giúp pháp lý bắt buộc... I9

Nhận thức, năng lực độc lập và chế độ trách nhiệm cá nhân của các

chức danh tư pháp là điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trong dé thực hiện

tranh tụng. Việc đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu tranh tụng, đặc

biệt là hướng đào tạo nguồn dé có thé luân chuyền giữa các chức năng tố tung của Kiểm sát viên, Thâm phán, Luật sư sẽ tạo cho họ khả năng tranh tụng hiệu quả dù họ ở vi trí buộc tội, gỡ tội hay trọng tài dé phan quyét.

- Bao dam cơ sở vat chất cho quá trình tranh tụng cũng là van dé cần quan tâm đúng mức, như: vị trí của các bên tại phiên tịa như thế nào để đảm

bảo khơng khí tố tụng bình đăng, khách quan: tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, ánh sáng, hình ảnh

<small>thuận tiện cho việc theo dõi phiên tòa...</small>

1.4. Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003.

<small>!° Xem Tran Văn Độ: Bản chất của tranh tụng tại phiên tịa. Tạp chí Khoa học, số 4, 2004</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nhắn mạnh: "Khi xét xử, các tồ án phải bảo dam cho mọi cơng dân đều bình đắng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thầm phán và hội thấm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bao chữa, bi cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyên, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy

định". Thể chế hóa tư tưởng này, ngồi việc tiếp tục kế thừa có chọn lọc các quy định của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 có nhiều quy định nhằm thực hiện và bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hình sự. Cu thê:

Thứ nhất, vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát được quy định rõ ràng hơn theo hướng phân định rõ chức năng buộc tội của Viện kiểm sát với

chức năng xét xử của Tịa án, xác định rõ cơng tơ là chức năng cơ bản của Viện kiểm sát, thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát. BLTTHS năm 2003 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 có một số quy định mới trong các nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao chất lượng

hoạt động và đề cao trách nhiệm, sự chủ động của Viện kiểm sát nhân dân và các Kiểm sát viên trong TTHS. Dé nâng cao tính chủ động của Viện kiểm sát

nhân dân là thực hành quyên công tố, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; thay vì thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án). Mục đích hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHS là nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội

đều bị khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và khơng làm oan

<small>người VƠ tỘI.</small>

Thứ hai, so với BLLTTHS năm 1988, BLTTHS nam 2003 đã có sửa

đổi, bơ sung nhiều nguyên tắc quan trọng ngày càng thé hiện rõ tư tưởng dé

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

cao tranh tung trong TTHS, lay kết quả tanh tụng tại phiên tòa là căn cứ chủ

yé dé Tòa án ra phán quyết. Dé nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm sự tranh tụng bình đăng giữa các bên trong tố tụng, ngồi việc tiếp tục quy định các nguyên tắc như: không ai có thé bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); Xác định sự thật của vụ án (điều 10); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11);

Tham phan và hội tham nhân xét xử độc lập chi tuân theo pháp luật (điều 16);

Bảo đảm quyên bình dang trước tòa án (điều 19)... BLTTHS năm 2003 còn được bồ sung nguyên tắc khác nhằm bảo đảm tốt hơn cho các bên tranh tụng

bình dang trong TTHS, như quy định rõ hơn về trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan tiên hành tố tụng, mở rộng quyền bao chữa cho cả người bị

<small>tạm giữ, quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh</small>

tụng bình đăng giữa các bên... Cụ thê là:

- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc VỀ các cơ quan tiễn hành tố

tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội (Điều 10 BLTTHS năm 2003)

- Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy

định của pháp luật (Điều 11 BLTTHS 2003)

- Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân

sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại

diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đăng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh

luận dân chủ trước Tồ án. Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực

hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19

<small>BLTTHS 2003).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Thứ ba, pháp luật TTHS thời kỳ này đã bổ sung nhiều quy định nhằm bảo

đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Đề bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa, khả năng chứng minh sự vô tội hoặc giảm hẹ trách

nhiệm hình sự của bên gỡ tội, BLTTHS năm 2003 quy định rõ: người bị tạm giữ

được biết ly do mình bị giữ, được trình bay lời khai, tự bào chữa, được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu (Điều 48). Bị can ngồi các quyền nêu trên cịn có quyền đề

nghị thay đối người tiễn hành t6 tụng (Điều 49). Bị cáo ngồi các qun nêu trên

cịn có quyên tham gia phiên tòa, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, được

trình bày ý kiến và tham gia tranh luận tại phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết

định của Tòa án (Điều 50). So với BLTTHS nằm 1988, yếu tổ tranh tụng còn được thê hiện rõ nét qua chế định về người bào chữa. Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có quyên tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong một số trường hợp có thê tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can dé có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt khi lây lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung, bị can và nếu được Điều tra viên đồng ý thì được hỏi

người bị tạm giữ, bị can; được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến

<small>việc bào chữa; gặp những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam; có</small>

quyền sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, tham

gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa... Ngồi các chủ thể nêu trên, Điều 53 BLTTHS năm 2003 còn quy định bị đơn dân sự có quyên đưa ra tài liệu, đồ vật,

yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị mức bồi thường và biện

pháp bảo đảm bồi thường: trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tịa.

Th tu, pháp luật t6 tụng đã quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn

của bên buộc tội, phân định trách nhiệm, quyền hạn của từng chủ thể của bên

buộc tội trong TTHS tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh tụng bình dang trong qua trình tố tụng. Đối với bên buộc tội, BLTHS nằm 2003 quy định cụ

thé, rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, của

<small>Kiêm sát viên, của Cơ quan điêu tra, Điêu tra viên trong quá trình TTHS</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

(khởi tố, điều tra, truy tố và thực hiện chức năng cơng tố tại phiên tịa). Điều 51 và Điều 52 BLTTHS năm 2003 cũng quy định rõ người bị hại, nguyên đơn dân sự có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo kết quả điều tra; đề nghị mức bồi thường: trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tịa; có quyền nhờ luật sư bảo vệ quyên lợi cho mình...

Thứ năm, các quy định thé hiện tư tưởng tranh tụng đã dần được thé hiện qua từng giai đoạn tố tụng cụ thé và được biểu hiện tập trung nhất trong

<small>thủ tục tranh luận tại phiên tòa.</small>

Trong giai đoạn điều tra, nhiều quy định được b6 sung nhăm tạo điều kiện tốt hơn cho bên gỡ tội có thé tranh tụng bình đăng với bên buộc tội, như: người bào chữa có thé được có mặt khi hỏi cung bị can (Điều 132 BLTTHS

năm 2003); bi can có thé có mặt khi khám nghiệm hiện trường (Điều 150 BLTTHS năm 2003); sau khi tiến hành giám định, bị can người bào chữa và

những người tham gia tố tụng khác có quyên biết về nội dung kết luận giám

định, đồng thời họ được trình bày ý kiến về kết luận giám định, có quyền yêu

cầu giám định bồ sung hoặc giám định lại (Điều 158 BLTTHS năm 2003)...

Điều 184 BLTTHS năm 2003 quy định tòa án xét xử trực tiếp, bang lời nói và liên tục. Tịa án phải trực tiếp xác định các tình tiết của vụ án bằng

<small>cách hỏi và nghe lời trình bày của bị cáo, nghe lời bào chữa của luật sư, người</small>

bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Bản án chỉ được căn cứ bào những chứng cứ

<small>đã được xem xét tại phiên tòa. Tham gia vào q trình tranh luận tại phiên tịa</small>

phải có đủ ba diện chủ thể: Tòa án là cơ quan xét xử (Hội đồng xét xử), bên

buộc tội (Viện kiểm sát mà đại diện là kiểm sát viên) và bên gỡ tội (bị cáo,

<small>người bào chữa cho bị cáo). Pháp luật cũng quy định khá rõ trách nhiệm có</small>

mặt tại phiên tịa của các bên tham gia tố tụng, của người làm chứng, của

người có quyên lợi và nghĩa vụ liên quan...; các trường hợp được xét xử vắng mặt, các trường hợp phải hỗn phiên tịa (các điều 187, 189, 190, 191, 192,

<small>193... BLTTHS năm 2003)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Trong giai đoạn xét xử nhiều quy định bảo đảm tranh tung được bổ

sung, như: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền yêu cầu triêu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét (Điều 205 BLTTHS năm 2003); người bào chữa có quyền bình đăng với Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác về các tình tiết liên quan đến việc bào chữa; yếu tố tranh tung thé hiện rõ khi pháp luật quy định Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết buộc tội, người bào chữa hỏi về các tình tiết gỡ tội (Điều 207, 209, 2010, 211, 215 BLTTHS năm 2003), có quyền cùng Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên xem xét vật chứng, xem

xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm và tình bày nhận xét của mình. Đặc biệt là các

quy định về trình tự phát biểu trong khi tranh luận và đối đáp khi tranh luận được quy định rõ tại Điều 217 và 218 BLTTHS năm 2003. Các điều luật này

quy định luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ và các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người

tham gia tố tụng khác. Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố

tụng khác có qun trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra dé nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa lập luận của mình để đối đáp lại với

từng ý kiến. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người

khác. Chủ tọa phiên tịa khơng được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho các bên trình bày hết ý kiến. Bên cạnh đó, tại các Điều 325, 326 BLTHS năm 2003 còn quy định bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tung của cơ quan và người tiễn hành tố tung khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật trong bất kỳ

giai đoạn tố tụng nào; có quyền cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải

<small>quyêt khiêu nại nhăm chứng minh tính đúng đăn của nội dung khiêu nại...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Kết luận Chương I

Tranh tụng và tranh tụng trong tố tụng hình sự là những khái niệm rộng và phức tạp, việc nghiên cứu về nó đã rút ra được những đặc điểm, yêu cầu, điều kiện của tranh tụng trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tịa nói riêng. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi thực trạng tư pháp nước ta còn đang trong giai đoạn phát triển, cần tiếp thu những yếu tố tích cực của tố tụng tranh tụng. Trong quá trình tố tụng, nếu hoạt động tranh

tụng được các bên tham gia nghiêm túc thực hiện thì hiệu quả giải quyết vụ án

sẽ rất cao, khắc phục được việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, tình trạng yếu kém của hệ thống tư pháp. Trong đó, phiên tịa là giai đoạn trung tâm, chỉ có

đến giai đoạn này thì mới có sự tập hợp đây đủ và đồng thời của các bên, chỉ có thê thơng qua q trình tranh luận cơng khai, minh bạch tại phiên tịa thì

mọi tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ thông qua sự cọ xát về luận

điểm của mỗi bên; những chứng cứ đã được các bên thu thập theo quy định

của pháp luật được công khai phơi bày và kiểm chứng. Như vậy, q trình

tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tịa nói riêng có giá trị rất lớn trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tô tụng khác. Cũng chính vì lẽ

đó, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 Về một số

<small>nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhiệm vụ</small>

nâng cao chất lượng xét xử của Tịa án là khâu trung tâm, đột phá, thông qua

<small>việc nâng cao tính dân chủ khách quan trong tranh tụng tại phiên tịa. ĐI đơi</small>

với nhiệm vụ đó thì việc nâng cao chất lượng hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng là nhiệm vụ

quan trong hang đầu... Có thé thấy rang, hiện nay Bộ luật tranh tụng hình sự 2003 đã có nhiều điểm tiễn bộ đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi

tham gia tố tụng, tuy nhiên nó vẫn cịn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập trong việc

đảm bảo quyén và nghĩa vụ của các bên trong quá trình tranh tụng nhất là

tranh tụng tại phiên tòa, điều này sẽ được trình bày ở phan sau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>CHƯƠNG 2</small>

THỰC TRẠNG TRANH TUNG TRONG TO TUNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MOT SO KIÊN NGHỊ

2.1. Thực trạng tranh tung trong tố tụng hình sự Việt Nam.

2.1.1. Những kết quả đạt được

Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm và có những chuyền biến rõ nét kế từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/101/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/ năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Do vậy, việc đánh giá những kết quả đạt được cần được nhìn nhận trong cả quá trình cải cách tư pháp từ 2002

<small>đên nay.</small>

Thứ nhất, chủ trương cải cách thủ tục tư pháp và coi mở rộng tranh

<small>tụng tại phiên tòa là khâu đột phá trong cải cách tư pháp đã thu được những</small>

kết quả đáng khích lệ. Việc mở rộng tranh tụng tại phiên tòa đã tác động trực tiếp đến chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các Co quan điều

tra,Viện kiểm sát và Tịa án. Sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, Ban chỉ

đạo cải cách tư pháp đã có Cơng văn số 12 ngày 04/11/2002, Tịa án nhân dân tối cao có Kết luận số 209 ngày 05/11/2002 về tranh tụng tại phiên tịa. Từ đó

tới nay, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôi cao đã ban hành nhiều văn bản chỉ thị về nâng cao tranh tụng tại phiên tịa. Theo đó Chủ tọa phiên tịa chỉ hỏi có tính chất nêu vấn đề, cịn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội thì dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Hội đồng xét xử khơng được có lời lẽ khẳng định hoặc phủ định bất cứ vấn đề nào mà Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tô tụng khác nêu ra.

Các bên tranh luận có qun u câu bên kia giải thích những vấn đề chưa rõ... Thực tiễn triển khai Nghị quyết 08/-NQ/TW và Nghị quyết số

49-NQ/TW cũng đã tạo được những chuyên biến tích cực trên thực tế. Theo đánh

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

giá của Tòa án nhân dân tối cao thì việc tơ chức các phiên tịa hình sự ở các Tòa án các cấp đã từng bước bảo đảm được sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm cho những người tham gia tô tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vu hợp pháp của ho; luật sư và những người tham gia tố tụng được trình bày hết ý kiến của mình; những câu hỏi của Hội đồng xét xử và của Kiểm sát viên thể

hiện khách quan hơn; việc phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả

tranh tụng tại phiên tịa và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; tỉnh thần trách

<small>nhiệm của cán bộ, cơng chức các ngành tư pháp nói chung và ngành Tịa ánnhân dân nói riêng được nâng lên.</small>

Có thé nói, chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tai

phiên tòa được xác định là khâu đột phá của cải cách tư pháp thé hiện quan

điểm của Đảng về xây dựng nền tư pháp độc lập, khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch đã bước đầu tạo được sự chuyển biến tích cực trong việc tạo

khơng khí dân chủ tại phiên tịa, nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên giữ

quyền công tố; phát huy vai trò, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của

<small>luật sư.</small>

Tht hai, việc mở rộng tranh tụng tại phiên toa đã góp phan khơng nhỏ

vào việc hạn chế tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự. Hàng năm, Tịa án

đã thụ lý và giải quyết một lượng khá lớn các vụ án hình sự. Theo báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ năm 2011 đến 2015, Tòa án đã thụ lý

365813 vụ án/ 662306 bị cáo, trong đó. Tịa án đã xét xử tổng số 314657

vụ/559849 bị cáo. Tính trung bình mỗi năm Tịa án thụ lý 73162 vu

<small>an/132461 bị cáo, xét xử khoảng 62931 vụ an/111969 bị cáo, đạt tỷ lệ trung</small>

bình hàng năm về số vụ án được giải quyết và số bị cáo đưa ra xét xử lần lượt

là 86,2% và 84,5%. Có thé thấy kết quả tranh tung tại phiên tòa cũng được phản ánh tích cực thơng qua chất lượng hoạt động của cac Tịa án, việc kết án

oan người khơng có tội đã từng bước được khắc phục và ln duy trì ở mức

thấp. Cụ thé năm 2011, trong cả nước, tại cấp xét xử sơ thẩm chỉ có 17 trường

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hợp bị cáo bị truy tổ nhưng Tịa án xét xử khơng tội; năm 2012 là 13 bị cáo;

<small>năm 2013 là 16 bi cáo, năm 2014 là 18 bi cáo, năm 2015 là 27 bị cáo. Trung</small>

bình mỗi năm tỉ lệ số bị cáo Tịa án tuyên không phạm tội trên tổng số bị cáo xét xử chỉ từ 0,011-0,025%. Cá biệt năm 2015, tỉ lệ số bị cáo Tịa án tun

<small>khơng phạm tội tăng cao hơn các năm trước (27 bị cáo), tuy nhiên tình trạng</small>

này là phát sinh chủ yếu ở các tội ma túy do chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể là do Toà án nhân dân tối cao có Cơng văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014, có nội dung hướng dẫn Tồ án các cấp

giải quyết các vụ án về tội phạm ma tuý theo hướng phải có giám định bắt

buộc về hàm lượng chất ma tuý trong chất bi thu giữ nghi là chất ma tuý dé

làm cơ sở giải quyết vụ án. Lâu nay, kế từ khi có Thơng tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSTC-TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn thực hiện một số qui định của BLHS về các tội phạm ma tuý, các cơ quan tiễn

hành tố tụng vẫn giải quyết các vụ án ma tuý trên cơ sở giám định chất ma tuý

mà không giám định về hàm lượng chất ma tuý (trừ hai trường hợp theo

hướng dẫn của Thông tư số 17). Việc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Cơng

văn số 234 nêu trên dẫn đến tình trạng Tồ án nhân dân các cấp, trong đó có Toa án cấp phúc thẩm đã hoãn xét xử hoặc huỷ ban án sơ thâm nhiều vụ án dé

yêu cầu giám định hàm lượng chất ma tuý. Trong khi đó Viện kiểm sát nhân

dân tối cao và Cơ quan điều tra có quan điểm trái ngược với nội dung của Cơng văn 234 nói trên. Ngồi ra, việc Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao gần đây đã khởi tố bị can đối với Thâm phán chủ tọa trong

phiên toà phúc thâm xét xử oan đối với ông Nguyễn Thanh Chấn về tội Giết

<small>người đã kéo theo tâm lý mang tính phịng ngừa, thà huỷ án còn hơn làm oan,do vậy chỉ cân bản án sơ thâm có một chút sai sót là có thê bị huỷ.</small>

<small>Bên cạnh đó, q trình xét xử cho thây, chât lượng truy tô, tranh tụng</small>

<small>của Kiêm sát viên tại phiên tịa khá tơt, hâu hêt các vụ án bị đưa ra truy tơ,Tịa án đêu tun án là có tội, quan điêm của Kiêm sát viên tại phiên tòa đượcchâp nhận. Hàng năm, sơ vụ án bị đình chỉ xét xử chiêm tỉ lệ thâp, cụ thê:</small>

</div>

×