BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ CHÍ TOÀN
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ CHÍ TOÀN
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ GIA LÂM
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Chí Toàn
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
TS. Vũ Gia Lâm
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
ĐTV
Điều tra viên
KSV
Kiểm sát viên
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………..................................
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………..
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………...
4
4. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn……………........
5
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………...
5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn……………………....
6
6. Kết cấu của luận văn……………………………………………..
7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003…………………………………………
1.1. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự…………………
8
8
1.1.1. Những quan điểm khác nhau về tranh tụng……………………
8
1.1.2. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự…………………...
12
1.2. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự………………..
19
1.2.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội……………………………………...
19
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý………………………………………………..
22
1.3. Điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng……………………..
22
1.4 Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003………
25
Kết luận Chƣơng I…………………………………………………..
31
CHƢƠNG 2:THỰC TRẠNG TRANH TỤNG TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ………
32
2.1. Thực trạng tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam……..
32
2.1.1. Những kết quả đạt được…………………………………………….
32
2.1.2 Những hạn chế, bất cập ……………………………………………
37
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi thực hiện
tranh tụng trong TTHS ở Việt Nam……………………………….
42
2.2.1 Trên phương diện lập pháp…………………………………………
42
2.2.2 Nguyên nhân khác……………………………………………………
47
2.3. Các quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2015……...
50
2.4. Một số kiến nghị ……………………………………………….
63
2.4.1. Trên phương diện lập pháp………………………………………...
63
2.4.2. Giải pháp khác...........................................................................
67
Kết luận chƣơng II………………………………………………….
79
KẾT LUẬN………………………………………………………….
80
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tư tưởng về tranh tụng đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật tố
tụng thế giới. Cùng với thời gian, tư tưởng tranh tụng đã được bổ sung, hoàn
thiện và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
của nhiều nước trên thế giới và được coi là một trong những phương thức hữu
hiệu nhất để tìm ra công lý trong tố tụng tư pháp. Trong một chừng mực nhất
định, tranh tụng còn là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ,
tiến bộ trong hoạt tộng tư pháp của mỗi quốc gia.
Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay theo truyền thống pháp luật
các nước XHCN và có ảnh hưởng nhiều của truyền thống pháp luật các nước
Châu Âu lục địa. Do vậy, mô hình TTHS của nước ta hiện nay về cơ bản là
mô thình tố tụng xét hỏi có tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình tranh
tụng. Tuy nhiên yếu tố tranh tụng trong tranh tụng hình sự chưa thực sự được
coi trọng đúng mức trên cả phương diện nhận thức, lý luận, thực tiễn xây
dựng và áp dụng pháp luật.
Về nhận thức: hiện nay còn có nhiều nhận thức khác nhau về tranh
tụng, có không ít ý kiến không thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc trong
TTHS, Nhìn chung các quan điểm này hoặc là có sự nhầm lẫn giữa nguyên
tắc tranh tụng với mô hình tố tụng hoặc không thừa nhận tính quy luật, tính
khách quan của nguyên tắc tranh tụng để đi đến lập luận cho rằng tranh tụng
không phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay.
Về mặt lý luận: Trong thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, bài viết đề cập vấn đề nguyên tắc tranh tụng trong TTHS hoặc
đảm bảo tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên trong khoa học
lại thiếu vắng các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về hoạt động tranh
tụng và khả năng vận dụng và điều kiện hoàn cảnh ở nước ta. Mặt khác, các
công trình bài viết đã công bố lại chưa có điều kiện để đề cập nhiều đến vấn
2
đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh tụng trong TTHS mà chỉ đề cập đến
tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự hoặc một hoạt động trong
quá trình xét xử.
Về thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật: Có thể nói BLTTHS năm
2003 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng so với BLTTHS năm 1988 về
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, như: các quy định về trình tự xét
hỏi; các quy định về Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham
gia tranh luận trình bày ý kiến; trách nhiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát
viên… Đây được coi là bước đột phá quan trọng trọng hoạt động cải cách tư
pháp nước ta, đặc biệt là thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa ghi
nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS. Do đó tư tưởng tranh
tụng chưa được nhà làm luật thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng tư
pháp trong BLTTHS. Tranh tụng mới chỉ được thể hiện một phần tại phiên tòa
xét xử mà chưa được thể hiện trong cả quá trình tố tụng từ điều tra, truy tố đến
xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Các quy định của pháp luật về vị trí, vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự rõ ràng, minh
bạch, dẫn đến sự lẫn lộn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.
Thực tiễn thi hành BLTHS năm 2003 cho thấy chất lượng các khâu xét
hỏi, tranh luận trong phiên tòa hình sự đã có những chuyển biến tích cực, góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động TTHS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Trong đó việc tổ chức phiên tòa theo
tinh thần cải cách tư pháp chưa được toàn diện, khâu tranh tụng tại phiên tòa
chưa có chuyển biến nhiều, việc xét hỏi tranh tụng vẫn mang nặng tính truyền
thống. Kiểm sát viên không tham gia tranh tụng với Luật sư, Hội đồng xét xử
dường như làm thay chức năng của VKS… Những hạn chế này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm chậm tiến trình
cải cách tư pháp, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp
và điều quan trọng là nó không phản ánh các giá trị đích thực của Nhà nước
pháp quyền mà chúng ta đang hướng tới.
3
Chính vì những lý do trên, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 24 tháng 5 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh:
"Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia
và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp", Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và nhất là
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ "nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp"; "Hoàn
thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư…"
Đến nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được thông qua và có
nhiều sửa đổi, nguyên tắc tranh tụng đã được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên
tại thời điểm viết luận văn này, BLTTHS 2015 vẫn chưa có hiệu lực và chưa
được thi hành trên thực tế, do vậy việc nghiên cứu hoạt động tranh trụng trong
tố tụng hình sự Việt Nam là yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn. Do vậy, học viên đã chọn đề tài: "Tranh tụng trong tố tụng
hình sự" để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay ở nước ta có một số các công trình tuy không đề cập trực tiếp
nhưng cũng thể hiện những nội dung nghiên cứu ở các góc độ khác nhau liên
quan đến tranh tụng hoặc nguyên tắc tranh tụng như: luận án tiến sĩ luật học
“Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của Hoàng Thị
Sơn, đề tài nghiên cứu khoa học “Tranh tụng tại phiên tòa - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”; công trình khoa học với đề tài “Hoàn thiện các quy định
4
của BLTTHS năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - Cơ
sở lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Đức Mai; Luận văn tiến sĩ luật
học "Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Văn Hiển. Ngoài ra, nguyên tắc tranh
tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng còn được thể hiện trong nhiều bài viết
khác như: cuốn “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền” do Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên; bài viết
“Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS”
của Lê Cảm; bài viết “Đặc điểm của mô hình TTHS và phương hướng hoàn
thiện mô hình TTHS ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai; bài viết “Cần bổ
sung nguyên tắc tranh tụng vào BLTTHS” của Lại Văn Trình; sách "Tranh
tụng trong xét xử sơ thẩm" của tác giả Dương Thanh Biểu…
Các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến sự cần thiết phải áp dụng
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, hoặc nghiên cứu tranh tụng như
một hoạt động của quá trình xét xử, chưa có công trình nào nghiên cứu theo
chiều sâu trên góc độ lý luận và thực tế về bảo đảm hoạt động tranh tụng
trong trong suốt các quá trình của tố tụng hình sự, đồng thời so sánh những
điểm mới về hoạt động tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 với BLTTHS
năm 2013.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận tranh tụng, hoạt động
tranh tụng, về cải cách tư pháp, hoạt động xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án
hình sự, bảo đảm nguyên tắc Tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: trong giới hạn của luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự, học viên chỉ nghiên cứu tranh tụng với tính
chất là một hoạt động cơ bản của TTHS Việt Nam dưới góc độ buộc tội và gỡ
5
tội và việc thực hiện hoạt động này trong điều kiện mô hình TTHS cụ thể của
Việt Nam hiện nay.
4. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu trên góc độ lý luận và
thực tiễn về hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam và đồng thời
đánh giá một cách khách quan, có căn cứ khoa học về sự thể hiện của nguyên
tắc tranh trụng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS ở nước ta
hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các định hướng, giải pháp góp phần hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động tranh tụng trong TTHS Việt
Nam, giúp cho việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đầy đủ, bảo vệ tốt
hơn các quyền con người, quyền công dân trong TTHS.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu là:
3.1. Chứng minh tranh tụng là hoạt động cơ bản của TTHS và khả năng
áp dụng hoạt động tranh tụng trong các mô hình tố tụng hình sự khác nhau.
- Khái niệm, bản chất, ý nghĩa, mục đích, phạm vi, điều kiện, nội dung
của hoạt động tranh tụng?
- Sự thể hiện của hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt nam?
3.2 Dựa trên điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam xác định:
- Những hạn chế của BLTTHS 2003 về tranh tụng?
- BLTTHS 2015 đã khắc phục được những hạn chế nào của BLTTHS
2003 về tranh tụng?
- Các yêu cầu cơ bản và những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đề
xuất các định hướng, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng trong
tố tụng hình sự và đưa nguyên tắc "Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"
mới được quy định trong BLTTHS năm 2015 vào thực hiện trên thực tế ?
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và những quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và của Nhà nước ta về Nhà nước
pháp quyền, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải
cách tư pháp va thủ tục tư pháp nói riêng.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Triết học
mác – Lê Nin và chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cách tiếp cận của luận văn là đặt hoạt động tranh tụng trong mối quan hệ của
hệ thống, trong mối quan hệ với các hoạt động cơ bản khác của TTHS để thấy
được mối quan hệ bên trong, vị trí, vai trò và tầm ảnh hưởng của hoạt động
tranh trụng trong quá trình tố tụng.
Luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
của khoa học xã hội và khoa học pháp lý phù hợp với yêu cầu cùa từng vấn đề
nghiên cứu, như: các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê… kết hợp với các phương pháp khảo sát thực tiễn đối với từng vấn
đề cụ thể để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn này nghiên cứu nhằm tìm ra
một khái niệm chung về hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự, vai trò
của tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và TTHS Việt Nam nói riêng,
các điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng diễn ra trong quá trình tố tụng
hình sự trên thực tế, và đảm bảo tranh tụng trong phiên toà xét vụ án hình sự
theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Đồng thời luận văn cũng đánh giá
những điểm tiến bộ và hạn chế của BLTTHS 2003 về tranh tụng, so sánh với
BLTTHS 2015 để tìm ra những điểm mới, tiến bộ của BLTTHS 2015 về hoạt
động tranh tụng. Hi vọng với kết quả đạt được luận văn sẽ góp phần bổ sung
lý luận về cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động tranh tụng trong xét xử;
bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm hoạt động tranh tụng trong tố tụng
7
hình sự. Những kiến nghị mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như một đề xuất
mang tính khoa học, góp phần bảo đảm hoạt động tranh tụng trong TTHS nói
riêng và nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử các vụ án hình sự ở Việt
Nam hiện nay nói chung, góp phần vào việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng
tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử mà Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị coi là điểm nhấn của cải
cách tư pháp, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng
dạy trong các trường đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh tụng trong tố tụng hình sự
Chương 2: Thực tiễn tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam và một
số kiến nghị
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
1.1. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự
1.1.1. Những quan điểm khác nhau về tranh tụng
Tranh tụng là hình thức (kiểu) tố tụng được biết đến ngay từ những thời
đại xa xưa của xã hội loài người. Loại hình tố tụng này đã được áp dụng từ
thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng rộng rãi ở La Mã với tên gọi “thủ
tục hỏi đáp liên tục”1. Cùng với thời gian, tranh tụng được kế thừa, phát triển
và được khẳng định và đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ
thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Về mặt thuật ngữ thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”2 giữa
hai bên (bên nguyên và bên bị) có lập tường tương phản yêu cầu tòa án phân
xử. Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ
“tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng. Trong tiếng
Anh, thuật ngữ tranh tụng thường được gắn liền với khái niệm “hệ tố tụng
tranh tụng” (Adversarial System) với hàm ý đối lập với hệ tố tụng thẩm vấn
(Inquisitorial System). Trong pháp luật Liên bang Nga tranh tụng được ghi
nhận tại Điều 15 Bộ luật TTHS Liên bang Nga năm 2001 với tính chất là một
nguyên tắc cơ bản của TTHS Liên bang Nga.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam thuật ngữ "tranh tụng" đã được biết
đến từ lâu, tuy nhiên nhận thức một cách đúng đắn về thuật ngữ này vẫn còn
là vấn đề còn tồn tại nhiều ý kiến, nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác
nhau xung quanh khái niệm này. Cụ thể:
1
Nhà pháp luật Việt – Pháp: Kỷ yếu hội thảo "Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng –
Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng bổ nhiệm quản lý Thẩm phán", Hà Nội, 2002
2
Đại từ điển tiếng Việt, Nxb.Khoa học xã hội, 1991.
9
Theo Từ điển luật học thì tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực
hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền
bình đẳng với nhau trong việc thu thập đưa ra những chứng cứ để bảo vệ quan
điểm và lợi ích của phía đối lập3. Như vậy, theo định nghĩa này thì tranh tụng
được nhìn nhận như một hoạt động của tố tụng hình sự.
Có quan điểm khác cho rằng, tranh tụng là "một quá trình xác định sự
thật khách quan về vụ án đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được
mục đích, các nhiệm vụ đặt ra của Luật tố tụng hình sự"4.
Quan điểm này đồng nhất tranh tụng với quá trình xác định sự thật của
vụ án tức là với hoạt động chứng minh. Ở đây có sự nhầm lẫn giữa nội dung
và hình thức, giữa hoạt động tố tụng với chính hình thức hoặc cách thức tiến
hành của nó.
Tác giả của quan điểm này một thời gian sau đã đưa ra định nghĩa khác
hơn về tranh tụng. Theo đó, tranh tụng "được dùng theo nghĩa Hán Nôm để
chỉ một cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vụ án bằng cách các bên tham gia
đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho sự buộc tội
hay bào chữa của mình để người thứ ba đứng giữa hai bên là Tòa án làm trọng
tài phân xử"5.
Quan điểm mới này có bước tiến bộ so với quan điểm thứ nhất khi đề
cập đến vai trò trọng tài của Tòa án trong quá tình giải quyết vụ án như là một
đặc điểm của tố tụng có tính tranh tụng. Tuy nhiên, những đặc điểm khác của
khái niệm tranh tụng hay tố tụng có tính tranh tụng vẫn chưa được làm rõ.
Bên cạnh đó các diễn đạt này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn "tranh tụng" chính là
"tranh luận".
Ở Việt Nam, tranh tụng và vấn đề tranh tụng chỉ mới được đề cập và
trao đổi nhiều trong thời gian gần đây khi Đảng và Nhà nước ta khởi động
3
Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học , Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.807-808
Nguyễn Đức Mai, Nguyên tắc tranh trụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học số 1/1995
5
Nguyễn Đức Mai, Tranh tụng trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật số 1/1996
4
10
công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh
ngày càng hội nhập sâu vào đời sống kinh tế và đời sống pháp lý quốc tế.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết 08-NQ/TW) đã xác định: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát
viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác. Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo
cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa… để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để
Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu
hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa..”. Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49-NQ/TW) một lần nữa yêu cầu “Nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất
cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư
pháp…”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/1012 tiếp tục khẳng định
“Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét
xử các vụ án hình sự…Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục
đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”.
Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự; các qui định của Bộ luật TTHS
năm 2003 và qui định của Hiến pháp 2013, có thể nhận thấy khái niệm tranh
tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp, gần đây được Hiến pháp 2013 qui định. Tranh tụng được hiểu
với nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận
của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, cụ
11
thể là tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bao gồm cả phiên toà sơ thẩm và
phúc thẩm. Trong đó, Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng dựa trên các tài
liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy logic hình thức
để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ án.
Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn
dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức. Dưới góc độ pháp lý, bản chất của
tranh tụng gồm có các nội dung cơ bản sau đây:
- Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng
phải tuân theo các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tố
tụng khác có quyền và lợi ích đối lập với nhau trong vụ án hình sự. Các chủ
thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình đẳng với nhau
trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên có thể tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại
và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
- Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ
toạ phiên toà. Chủ tọa phiên toà có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh
tụng hoặc quyết định chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như
phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần
thiết làm rõ các vấn đề của vụ án.
- Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan
của vụ án. Sự thật khách quan này bao gồm các tình tiết vụ án và các tình tiết
liên quan đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ
pháp lý (dưới góc độ đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và pháp luật tố
tụng hình sự).
- Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận
chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án.
12
- Cách thức tranh tụng là các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng
cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới phát hiện hoặc
được cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện
hành để làm rõ các vấn đề cần tranh tụng của vụ án.
Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức, bản chất của
tranh tụng có các nội dung sau:
- Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên
tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định
quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên
tranh tụng đối lập.
- Tranh tụng không chỉ là quyền, là trách nhiệm của các bên tham gia
tranh tụng mà còn là một phương pháp hữu hiệu để xác định sự thật khách
quan của vụ án. Nói cách khác, tranh tụng không chỉ là quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể của tố tụng mà còn là phương tiện để đạt được sự thật khách quan
của vụ án. Chân lý về vụ án chỉ có thể được tìm thấy, có được thông qua tranh
tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những
vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ để khẳng định lời nhận tội của bị
cáo là có cơ sở, tại phiên toà không có những quan điểm xung đột thì không
phát sinh tranh tụng hoặc nếu có thì chỉ ở mức độ nhất định.
Như vậy có thể thấy, trên thế giới và ở Việt Nam, khái niệm “tranh
tụng” đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất. Ở mỗi quốc gia khác
nhau, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật mà khái niệm “tranh tụng” được hiểu
theo một nghĩa khác nhau.
1.1.2. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự
Trong khoa học tố tụng hình sự, khái niệm tranh tụng được nhìn nhận ở
nhiều góc độ khác nhau. Trước hết tranh tụng có thể được hiểu như là một
nguyên tắc cơ bản của TTHS. Có thể hiểu nguyên tắc của tố tụng hình sự là
những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với
13
một loại hoạt động nhất định, đó là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng
hình sự; hoặc đó là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt
động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
Khi tranh tụng là một nguyên tắc thì nó phải thể hiện tính dân chủ, công khai,
minh bạch, khách quan, bình đẳng trong tất cả các hoạt động tố tụng hình sự,
đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự, vì xét đến cùng, tranh tụng là
phải tiến đến giải quyết tranh chấp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại Tòa án.
Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng
các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên
tắc tranh tụng đề cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ
bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công
minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên
tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công
khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát Tòa án và luôn phải chịu trách sức
ép từ bên đối lập. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự
chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua
cuộc.
Tranh tụng có thể được xem xét ở góc độ là một loại mô hình tố tụng.
Khái niệm mô hình TTHS được hiểu là một cách thức tổ chức hoạt động TTHS
trong số nhiều cách thức tổ chức khác mà nhân loại đã biết đến. Mô hình tố
tụng tranh tụng đã hình thành và tồn tại ở mỗi quốc gia dưới tác động của nhiều
yếu tố, điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, truyền thống pháp lý…Mục đích của
mô hình này là nhằm bảo đảm sự bình đẳng tuyệt đối giữa bên buộc tội (cơ
quan công tố) và bên bào chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật vụ án. Đây là
mô hình tạo ra nhiều cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng tố
tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mô hình này có một quy
trình tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử thể hiện tính công bằng cao, thể
hiện qua vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Ở giai đoạn tiền xét
14
xử, công tố viên và luật sư có quyền điều tra, thu thập chứng cứ như nhau. Khi
xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra để thẩm tra trước tòa, đều có quyền
lựa chọn nhân chứng để thẩm tra… Thông qua đối tụng giữa công tố viên và
luật sư mà tòa án gồm đoàn bồi thẩm và thẩm phán chủ tọa phán quyết về sự
thật khách quan và định hình phạt. Mô hình này cho phép luật sư có thể tham
gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên tòa án có thể thêm được một nguồn thông
tin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các
chứng cứ có trong hồ sơ hình sự thì đoàn bồi thẩm được tiếp cận chứng cứ của
cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Điều này bảo đảm cho mục đích tìm ra sự thật
khách quan và chất lượng tranh tụng được nâng lên.
Trong mô hình tố tụng tranh tụng không tồn tại một “hồ sơ hình sự”
theo nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn. Bên buộc tội và bên bào
chữa đều có quyền lập tài liệu, hồ sơ và khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ
sơ đều không có giá trị chứng cứ mà chỉ có chứng cứ nào được trình bày và
thẩm tra tại tòa bằng miệng, được tòa án chấp nhận thì đó mới là chứng cứ và
được sử dụng để định tội.
Ngoài ra, trên phương diện là một hoạt động tố tụng hình sự, tranh tụng
được nhìn nhận như là "một quá trình cọ sát các quan điểm, lập luận về vụ án
giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình
TTHS nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án"6 và đỉnh điểm của quá
trình này diễn ra tại phiên tòa trước tòa án có vai trò là trọng tài.
Như vậy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau: tranh tụng có thể được hiểu như là một hoạt động của TTHS; tranh tụng
được hiểu như một nguyên tắc của TTHS và tranh tụng cũng được hiểu như
một kiểu, mô hình tố tụng. Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vấn đề "tranh
tụng" ở những góc độ khác nhau tùy mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi
luận văn này, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình được hiểu dưới góc độ
6
Lê Tiến Châu, Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003
15
là một hoạt động trong tố tụng hình sự. Để làm rõ khái niệm tranh tụng dưới
góc độ là một hoạt động trong tố tụng hình sự, cần làm rõ một số điểm sau.
- Phạm vi của hoạt động tranh tụng:
Dưới góc độ là một hoạt động tố tụng hình sự, việc xác định phạm vi
tranh tụng được có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự. Theo tiến sĩ Lê Tiến Châu thì có hai quan điểm khi xác
định phạm vi của tranh tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng: "quá trình tranh
tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước
khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được
tiếp tục trong một số trường hợp khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử lại"7. Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng
chỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn xét xử vụ án (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
không có giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm) với sự có mặt đầy đủ ba
chủ thể: bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án.8
Theo quan điểm thứ nhất, có thể hiểu rằng, khi nào xuất hiện bên buộc
tội và bên gỡ tội thì khi đó xuất hiện tranh tụng, vì vậy việc tranh tụng được
diễn ra trong điều kiện mà ở đó chỉ cần có chủ thể của hai bên buộc tội và bào
chữa tham gia. Với quan điểm này, quá trình tranh tụng được bắt đầu từ khi
xuất hiện người bị tình nghi phạm tội (khi tạm giữ người bị tình nghi hoặc bắt
người phạm tội quả tang, hoặc khi khởi tố vụ án), cho đến khi vụ án được đưa
ra xét xử và kết thúc khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Quan
điểm này chưa có đầy đủ cơ sở để thuyết phục. Bởi lẽ Trong các giai đoạn điều
tra, truy tố, việc buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên đối tụng thực hiện
một cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình, các bên đều có quyền tự
7
Nguyễn Đức Mai, Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội 1999
8
Lê Tiến Châu, Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 1/2003
16
thu thập, đưa ra những tài liệu chứng minh quan điểm của mình, bác bỏ quan
điểm của bên còn lại, nhưng lại không có quyền quyết định quan điểm nào,
chứng cứ nào là đúng, là có căn cứ… Quá trình tranh tụng ở đây còn thiếu một
chủ thể giữ vai trò quyết định đó là Tòa án với chức năng xét xử. Chỉ khi đến
giai đoạn xét xử thì Tòa án mới tham gia với vai trò là trọng tài phán quyết
chấp nhận hoặc bác bỏ lập luận của các bên, quyết định bên nào là người thắng
cuộc. Tại phiên tòa, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể, quá trình tranh tụng mới
được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.
Do đó, theo quan điểm cá nhân của tác giả, quá trình tranh tụng chỉ thực sự
được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới
sự kiểm tra, giám sát của Tòa án… Chính vì vậy mà quá trình này chỉ có thể
được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa.
Về thời điểm kết thúc của quá trình tranh tụng. Có thể thấy, thông qua
quá trình tranh tụng, mâu thuẫn giữa các bên được giải quyết, sự thật của vụ án
được làm sáng tỏ và khi có một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật
thì quá trình tranh tụng sẽ kết thúc. Có ý kiến cho rằng, sau quá trình xét xử sơ
thẩm là quá trình xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, quá trình
tranh tụng vẫn còn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham
gia và các chức năng được thực hiện. Phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử
cũng không được thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, có thể
khẳng định rằng tranh tụng tồn tại tồn tại ở các giai đoạn tố tụng khi mà ở đó
có sự hiện diện của các bên buộc tội, bào chữa... Theo ý kiến này, tranh tụng
tồn tại ở cả giai đoạn Giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
rằng, trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, tranh tụng không tồn tại. Theo
quy định của luật tố tụng hình sự thì giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là
một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm việc triệu tập những những
17
người tham gia tố tụng không phải là bắt buộc, do vậy hầu nhưu không có sự
hiện diện đủ của các bên tranh tụng, nhất là bên gỡ tội, vì vậy không thể có
tranh tụng. Và kết quả của việc giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ đặt dấu chấm hết
cho vụ án (trong trường hợp không chấp nhận kháng nghị) hoặc tạo ra một
quá trình tố tụng mới (nếu phán quyết của hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm
chấp nhận kháng nghị, quyết định việc điều tra, xét xử lại vụ án). Như vậy có
thể xác định tranh tụng chỉ tồn tại đến gia đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
chứ không tồn tại trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Chủ thể của hoạt động tranh tụng
Chủ thể của hoạt động tranh tụng chính là các bên tham gia vào quá
trình tranh tụng trong tố tụng hình sự. Trong vụ án hình sự không phải chỉ có
các bên buộc tội và gỡ tội mà trong nhiều trường hợp còn tồn tại một bên thứ
ba đó là những người tham gia để giải quyết các vấn đề khác như nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan… và các bản án,
quyết định của Tòa án cũng không đơn thuẩn chỉ xác định bị cáo có tội hay vô
tội mà còn xác định cả các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Như vậy, có thể
thấy được, chủ thể trong tố tụng hình sự rất đa dạng. Tuy nhiên, như đã phna
tích ở trên, tranh tụng chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, do đó cũng chỉ
có các chủ thể được tham gia trong giai đoạn này mới là các chủ thể của tranh
tụng. Có thể phân thành bốn nhóm chính sau:
+ Nhóm các chủ thề thực hiện chức năng buộc tội: Kiểm sát viên (đại
diện Viện kiểm sát), người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của
họ.
+ Các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bao gồm: bị cáo (đối với bị
cáo chưa thành niên thì còn có người đại diện hợp pháp của họ); người bào
chữa, bị đơn dân sự, người đại diện của bị đơn dân sự.
+ Chủ thể thực hiện chức năng xét xử là Tòa án, gồm có: thẩm phán,
hội thẩm
18
+ Cuối cùng là các chủ thể tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo xác
định sự thật của vụ án như: người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch…
- Đối tượng của hoạt động tranh tụng
Đối tượng chính là điều mà các bên hướng tới, trong hoạt động tranh
tụng, đối tượng mà các bên hướng tới chính là các quan điểm, luận cứ và luận
chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án để vụ án được xem xét
một cách khách quan, công bằng, qua đó giải quyết các mâu thuẫn, bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của bên mình, tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Trong
hoạt động tranh tụng, các bên buộc tội và gỡ tội phải thông qua việc thu thập
tài liệu, chứng cứ để đưa ra những luận điểm của mình, phản bác luận điểm
của bên đối tụng, đó có thể là việc xác định tính hợp pháp, tính đúng đắn của
các quyết định tố tụng hoặc các thủ tục tố tụng (như áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đúng hay sai, việc lấy lời khai có đúng thủ tục không, lời khai có
đúng không, lời khai là buộc tội hay gỡ tội, hay việc kết quả giám định, kết
quả khám nghiệm hiện trường có khách quan không…)
- Mục đích của hoạt động tranh tụng:
Mục đích chính là điều mà các bên mong muốn đạt được. Mục đích của
hoạt động tranh tụng đó là khẳng định, chứng minh quan điểm của bên mình
là đúng đắn, bác bỏ quan điểm của bên đối lập. Cụ thể, đó là nhằm làm rõ bản
chất của vụ án, chứng minh xem có sự việc phạm tội xảy ra hay không, xảy ra
bao giờ, vào thời gian nào, địa điểm ở đâu, ai là người thực hiện hành vi phạm
tội, sự việc có lỗi hay không và là lỗi cố ý hay vô ý, những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ tách nhiệm hình sự; hậu quả do hành vi gây ra; mục đích, động cơ
phạm tội là gì….
- Hình thức của tranh tụng
Hình thức của hoạt động tranh tụng đó là những phương pháp, cách
thức mà các bên thể hiện ra để nhằm đạt được mục đích của mình. Đố chính
19
là việc thông qua các hoạt động thu thập và đưa ra những chứng cứ, tài liệu;
phản bác, khiếu nại về quá trình thu thập chứng cứ và bảo quản chứng cứ;
xác định căn cứ và thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn; sự chính xác và
đúng đắn của các hoạt động khám nghiệm, giám định trong giai đoạn điều,
tra, truy tố để tiến hành xét hỏi và tranh luận và đối đáp tại phiên tòa giữa các
bên dưới sự giám sát, trọng tài của Tòa án.
Qua phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm về tranh tụng như sau:
Tranh tụng là một hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi các
chủ thể tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) dưới sự trọng tài của Tòa án để
bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối lập, trên cơ sở
đó giúp Tòa án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức.
1.2. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng hình sự
Việc thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS không
đơn thuần chỉ có ý nghĩa trên phương diện pháp lý mà còn có ý nghĩa trên
nhiều phương diện khác nhau.
1.2.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội
Trên phương diện chính trị -xã hội, cần hiểu tranh tụng là một sản
phẩm, giá trị của nền dân chủ thực sự. Điều này đã được chứng minh qua quá
trình hình thành, tồn tại và pháp triển của TTHS thế giới. Trong các nhà nước
cổ đại, trung cổ hầu như giai cấp thống trị thời kỳ này không ghi nhận tranh
tụng như là một nguyên tắc, một hoạt động của TTHS, bởi lẽ, các nhà nước
thời kỳ này phần lớn là các nhà nước chuyên chế của chủ nô và phong kiến,
sự tồn tại của nhà nước là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị bóc lột,
trong xã hội không thể có bình đẳng và càng không thể có dân chủ. Chính
điều này là cơ sở chính trị cho việc không thể có việc ghi nhận tranh tụng là
một hoạt động trong TTHS, các hành vi xúi giục người khác làm đơn thưa
kiện (điều 17 - Quyển 16 Hoàng Việt luật lệ) đều bị trừng trị, việc phán quyết