Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 22 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỤC LỤC</b>
<b>I. MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ KHÁI NIỆM...3</b>
<b>1. Khái niệm lễ hội:...3</b>
<b>2. Các khái niệm liên quan:...4</b>
<b>II.NGHIÊN CỨU VỀ LỄ HỘI...6</b>
<b>1. Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thống...6</b>
<b>2. Cấu trúc của lễ hội:...7</b>
<b>3. Phân loại:... 8</b>
<b>4. Đặc điểm của lễ hội:...9</b>
<b>5. Chức năng, vai trò:...11</b>
<b>6. Một số lễ hội ở miền Bắc:...13</b>
<b>7. Một số lễ hội ở miền Trung:...15</b>
<b>8. Một số lễ hội ở Miền Nam:...17</b>
<b>III.KẾT LUẬN...20</b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...22</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>I.MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ KHÁI NIỆM</b>
<b>1. Khái niệm lễ hội:</b>
<b>Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống</b>
ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa tơn giáo nghệ thuật, , của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
<b>Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến </b>tín ngưỡng tơn giáo, . Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện tượng đó. Tơn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội đê phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tơn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tơn giáo dần giảm bớt và chỉ cịn mang nặng tính văn hóa.
(Theo Wikipedia)
<b>Lễ hội là một hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể, “là một hình thức diễn xướng tâm</b>
linh tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia đơi” như người ta quan niệm mà nó hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó (thường là tơn thờ một vị thần linh - lịch sử hay một thần linh nghề nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hoá phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội cho nên trong lễ hội phần lễ là phần gốc rễ chủ đạo, phần hội là phần phát sinh tích hợp.
<b>(Phạm Lan Oanh - Nguyễn Hồng, NXB CTQG - ST, Hà Nội, 2015)</b>
<b>Lễ hội là một dạng sinh hoạt văn hóa tổng hợp của con người, là nhu cầu văn hóa chính</b>
đáng của một cộng đồng người, là dịp để mọi người “thăng hóa” một cách bay bổng nhất những phẩm chất, tài năng tốt đẹp của mình, hịa nhập “cái tơi cá nhân” vào “ cái ta chung” của cộng đồng để tạo thành niềm vui chung, sức mạnh chung cho cả cộng đồng. (Trịnh Đăng Khoa – Khái quát về lễ hội)
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>2. Các khái niệm liên quan:</b>
<i><b>2.1.Cờ ngũ sắc:</b></i>
Cờ ngũ sắc là một loại cờ có màu sắc rực rỡ, thường được treo ở các ngơi đình, đền thờ, và đặc biệt là trong các lễ hội ở Việt Nam. Về tổng quan, cờ ngũ sắc gồm các hình tứ giác mang nhiều màu sắc đặt lồng vào nhau. Phía ngồi cùng của lá cờ có các dải hình dạng như ngọn lửa. Theo các câu chuyện dân gian thì cờ ngũ sắc đã được nhắc tới ở Việt Nam từ thời Hai Bà Trưng (thế kỷ 1 SCN). Lá cờ này được gọi là cờ Thần, xem như biểu tượng cho sức mạnh của thần thánh.
Theo các nhà nghiên cứu, màu sắc trên cờ ngũ sắc xuất phát từ quan niệm Ngũ hành trong triết lý phương Đông, theo đó tất cả vạn vật đều phát sinh từ 5 nguyên tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ.Mỗi nguyên tố này tương ứng với một màu: Màu đen (hoặc tím) ứng với Kim, màu xanh ứng với Mộc, màu trắng ứng với Thủy, màu đỏ ứng với Hỏa, màu vàng ứng với Thổ.
Trên báo Đồng Nai, GS.TS Trần Ngọc Thêm cho rằng, người Việt có nền văn minh lúa nước hiền hòa, nên chọn hành chủ là Thổ. Nếu để ý, cờ ngũ sắc treo tại các đình, chùa, lễ hội trước đây lấy màu vàng làm trung tâm, viền xung quanh lần lượt là các màu còn lại của ngũ hành.
Trong dân gian, trống được sử dụng phổ biến các sinh hoạt xuân, tết và lễ hội thường ngày. Có ba loại trống chính: trống đại, trống nhạc, trống sắp (có nơi gọi là trống ếch). Trống xuất hiện nhiều nơi, nhiều lĩnh vực. Đó là trong không gian nghi lễ thiêng liêng, không gian diễn xướng lễ hội dân gian. Tiêng trống, tiếng phèng la, não bạt, mõ… nhằm truyền tải những thông điệp giữa con người với thần linh, với đất trời. Mỗi cung bậc âm thanh là sự thể hiện tình cảm con người với các đấng bề trên bằng thứ ngôn ngữ đặc biệt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Trống đại đứng một mình chuyên cử lệnh, để nơi các đền, miếu, điện thờ, đứng trên một giá đỡ bằng gỗ. Vì chuyên cử lệnh nên có nơi gọi trống đại là trống lệnh. Trống lệnh khi cử lên là báo hiệu cho mọi người biết có một sự kiện hệ trọng nào đó sắp xảy ra. Chẳng hạn như tiếng trống hội đua thuyền nhịp hai hay nhịp ba giục giã; trống hội kéo co nhịp ba thúc giục, khi thắng thua có một hồi dài kết thúc…
Còn trống nhạc là loại trống nhỏ vừa, có hai khuy chốt hai bên móc quai quàng lên hai vai nghệ nhân sử dụng. Khi biểu diễn, dễ di động theo dàn nhạc rước lễ, hòa cùng các nhạc cụ khác như kèn, sáo, xập xoãng, mõ, sanh… Loại trống sắp nhỏ nhất, cầm trên một tay và một tay cầm dùi gõ, hòa thanh vào dàn nhạc.
Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chiếc trống luôn hiện hữu trong đời sống của cộng đồng trong các hoạt đô …ng tâm linh, cúng tế hay hội hè, vui chơi. Quan niệm của cha ông ta từ ngày xưa coi trống là hiện vật thiêng. Tiếng trống là một trong những phương tiện cần thiết để tạo ra không gian giao cảm, để con người bày tỏ các cung bậc cảm xúc vui, buồn, gửi gắm những ước mơ, nguyện vọng về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc. Cũng vì thế, chiếc trống được xem là một sản phẩm văn hóa khơng thể thiếu trong sinh hoạt của cộng đồng.
<i><b>I.3.Múa Lân</b></i>
Người phương Đông quan niệm rằng, Lân chính là một trong tứ linh bao gồm “Long, Lân, Quy, Phụng” tượng trưng cho sức mạnh siêu nhiên có thể xua đuổi tà khí, mang lại may mắn và an yên. Đặc biệt, trong đội hình múa Lân đều phải có sự xuất hiện của ơng Địa với tạo hình bụng to, khn mặt cười vui vẻ. Người Việt Nam tin rằng, ông Địa là đại diện của Đất trong tín ngưỡng Phật giáo có khả năng kêu gọi Lân về và mang đến điềm lành. Ông Địa thường luôn đi trước đầu Lân với ngụ ý mở đường, dẫn đường cho Lân và dẫn dắt sự may mắn.
Múa lân thường được biểu diễn trong dịp tết và các lễ hội truyền thống, văn hóa và tơn giáo. Nó cũng có thể được thực hiện tại các dịp quan trọng như sự kiện khai trương kinh doanh, trong ngày Tết,… với phần âm nhạc sôi nổi vừa thể hiện sự náo nhiệt, vui vẻ. Nó
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">vừa để cầu mong sự tốt lành, xua đi những điều khơng may mắn, đón chào hạnh phúc phát tài, phát lộc, phát bình an.
<b>II.NGHIÊN CỨU VỀ LỄ HỘI</b>
<b>1. Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thống</b>
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hố, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống q báu đó của cộng đồng, tơn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lịng tri ân cơng đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đồn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí...
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn.
<b>2. Cấu trúc của lễ hội:</b>
Cấu trúc của một lễ hội thường bao gồm: Phần lễ và Phần hội.
<i><b>2.1.Phần lễ:</b></i>
Lễ trong lễ hội là một hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của dân làng với các thần linh, lực lượng siêu nhiên nói chung với Thành hồng nói riêng. Đồng thời lễ hội cũng phản ánh nguyện vọng, mơ ước chính đáng của con người trước cuộc sống đầy rẫy những khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng để cải tạo. Lễ trong lễ hội không đơn lẻ, mà nó là một hệ thống liên kết có trật tự cùng hỗ trợ nhau.
Vd: Lễ rước nước, lễ mộc đục, lễ tế gia quan , …
<i><b>2.2.Phần hội:</b></i>
Hội được tổ chức nhân dịp một sự kiện quan trọng nào đó và liên quan đến cộng đồng như làng, bản … nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng mang tính cộng đồng cả về tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó. Hội còn là một hệ thống trò chơi diễn ra phong phú và đa dạng. Trong hội có thể kế đến các trò chơi sau đây theo đặc trưng tương đối của nó:
Hội là để vui chơi thoả thích, nó không ràng buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp, tuổi tác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">- Lễ: là tổng thể nghi thức, thể chế hoá trật tự gắn liền với sự tích và quyền năng của thần diễn đạt mối quan hệ người và thần.
- Hội: thường được diễn ra bên ngoài thần điện hay mở rộng đến toàn lãnh thổ cộng đồng hay đến từng gia đình. Hội mang hai tính chất: Chúc mừng thần linh và hưởng ân huệ mà thần linh ban cho.
Không nhất thiết có hội là phải có lễ và ngược lại. Nhưng khi lễ và hội đã kết hợp thành lễ hội thì giữa lễ và hội có mối quan hệ tuy khác biệt mà vẫn cơ bản. Hội cơ bản vẫn là đời thường, lễ cơ bản vẫn là đời thiêng. Trong thực tế giữa lễ và hội khó có thể tách rời mà hoà quyện lại với nhau cả về phần lễ và phần hội, cả đạo lẫn đời đều là một cuộc vui lớn của cộng động nhằm đáp ứng yêu cầu giải trí tín ngưỡng, thi thối tài năng, biểu dương sức mạnh. Tái hiện cuộc sống trong trường kỳ lịch sử.
<b>3. Phân loại:</b>
Căn cứ vào mục đích và đối tượng thờ phụng, có thể chia làm 3 loại lễ hội lớn: lễ hội nghề nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội tín ngưỡng.
<i>- Lễ hội nghề nghiệp là hoạt động quảng bá về đặc trưng, thế mạnh của các ngành</i>
nghề; tôn vinh các tổ chức, nghệ nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn và phát triển ngành nghề.
<i>- Lễ hội lịch sử là lễ hội mới ra đời sau tháng Tám năm 1945 do chính quyền các</i>
cấp và nhân dân tham gia tổ chức. Nội dung lễ hội liên quan đến các nhân vật tiền bối cách mạng của Đảng và các sự kiện lịch sử trên chặng đường hoạt động cách mạng từ khi thành lập Đảng tới nay. Rất nhiều lễ hội lịch sử cách mạng được hình thành thu hút sự tham gia đông đảo quần chúng nhân dân dưới nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, dịch vụ thương mại…
<i>- Lễ hội tín ngưỡng là hình thức hoạt động tín ngưỡng có tổ chức, thể hiện sự tơn</i>
thờ, tưởng niệm và tơn vinh những người có công với nước, với cộng đồng, thờ cúng tổ tiên, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Lễ hội được các nhà khoa học phân thành nhiều loại khác nhau. Có thể phân loại lễ hội theo niên đại, gần gũi với phân kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam, hoặc phân loại lễ hội theo từng thành tố riêng biệt, hay theo cấu trúc và các thành tố khác nhau. Tuy nhiên, dù phân loại theo tiêu chí lựa chọn nào, cũng đều có những yếu tố hợp lý và hạn chế nhất định. Trong tư cách là đối tượng quản lý, các lễ hội hiện nay đang chưa có sự thống nhất về tên gọi trong các văn bản pháp lý.
Cục Văn hóa cơ sở (thuộc Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch) là cơ quan quản lý nhà nước về lễ hội, thống kê các loại lễ hội trên địa bàn cả nước và chia thành các loại như sau:
Tổng cộng cả nước có 327 lễ hội do cấp tỉnh quản lý. Cấp bộ quản lý 8 lễ hội.
Theo cách gọi đã nêu trên, có thể hiểu lễ hội dân gian đồng nhất với khái niệm lễ hội truyền thống vì đây là những lễ hội gắn bó mật thiết nhất đối với đời sống văn hóa tinh thần của đại đa số người dân ở khắp các vùng miền Việt Nam.
<b>4. Đặc điểm của lễ hội:</b>
Lễ hội ở nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lịng người hân hoan. Lễ hội là chứng tỏ tính cố kết của cộng đồng, là minh chứng cho nét đẹp văn hố ngàn đờ i của ơng cha ta.
Phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có cơng với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trị vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném cịn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v...
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Một số đặc điểm của lễ hội như: Tính cộng đồng, Tính địa phương, Tính thiêng, Tính cung đình, Tính đương đại.
<i><b>4.1.Tính cộng đồng:</b></i>
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
<i><b>4.2.Tính địa phương:</b></i>
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó.
Tính địa phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà cịn ở phong cách của lễ hội. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
<i><b>4.3.Tính thiêng:</b></i>
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính "thiêng" nào đó.
Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có cơng với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc...). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân. Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
<i><b>4.4.Tính cung đình: </b></i>
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Những nghi thức diễn ra trong lễ hội,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mơ phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mơ phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn.
Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người dân.
<i><b>4.5.Tính đương đại: </b></i>
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại.
Những trị chơi mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
<b>5. Chức năng, vai trò:</b>
<i><b>5.1.Chức năng của lễ hội:</b></i>
- Chức năng liên kết cộng đồng - Chức năng giáo dục
- Chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị văn hoá truyền thống - Chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh
- Chức năng hưởng thụ và giải trí - Chức năng kinh tế văn hóa
Đến với lễ hội mọi người “được ăn, được nói, được gói mang về" nghĩa là được hưởng thụ những lễ vật mà mình dâng cúng, được vui chơi, giải trí (cũng là một dạng hưởng thụ), được “hóa thân" đóng một vai trong hội hay "nhập thân" vào một trị chơi... Người đi hội khơng cảm thấy mình là người ngồi cuộc, chính điều đó đã đem lại niềm an ủi, sự xúc động thật sự và là nguồn động viên sâu sắc cho những thân phận nhỏ bé ngày thường
</div>