Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

BÀI tập lớn cơ sở văn hóa VIỆT NAM tên đề tài VAI TRÒ của CỘNG ĐỒNG đối với VIỆC GIỮ gìn bản sắc văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.2 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------------

BÀI TẬP LỚN
CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM

Tên đề tài: VAI TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI VIỆC
GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HĨA VIỆT NAM

GVHD: Hoàng Thị Mai Sa
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Hải Yến
Lớp: 19STH1

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2021


MỞ ĐẦU
Ở mỗi quốc gia đều có bản sắc văn hóa riêng, cách giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hóa cũng ln có cách riêng. Sự ra đời văn hóa, tạo nên những
nét văn hóa riêng ở các thời kì khác nhau, cịn tùy thuộc vào những nơi sinh
sống, sự sáng tạo của các tộc người khác nhau, nằm rải rác khắp nơi trên thế
giới.
Ở Việt Nam, nền văn hóa được tìm thấy ở thời đồ đá khoảng 10.000 năm
trước, các giai đoạn văn hóa được chia làm 3 giai đoạn chính: Vào thời kì đồ đá
(khoảng 10.000 năm về trước) -> Cuối thời đá mới tới đầu thời đại đồ đồng
(khoảng 5.000 năm về trước) -> Việt – Mường (thế kỉ VII – VIII). Văn hóa Việt
Nam rất là đa dạng và phong phú bởi Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em, phần
đơng chiếm đơng nhất đó là dân tộc Kinh (người Việt). Chỉnh thể văn hóa Việt
Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc
bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn hóa


đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Hiện trạng văn hóa
Việt Nam là kết quả của một q trình phát triển lịch sử lâu dài, bắt đầu từ khi
hình thành từ những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã
hình thành những hằng số văn hố tạo nên bản sắc văn hóa ln được giữ gìn và
phát huy, là nền tảng cho việc xây dựng một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”
Bản sắc văn hóa được lưu giữ đến hiện nay có cơng khơng nhỏ của ơng
cha ta đã lưu giữ và sáng tạo nên văn hóa của người Việt. Qua thời gian có
những phong tục, tập quán được loại bỏ vì khơng cịn phù hợp với cuộc sống
nữa. Muốn lưu giữ và phát huy bản sắc văn hóa, dân tộc Việt thì một người bảo
tồn thì khơng thể cần sức của nhiều người lưu truyền, gìn giữ qua các thế hệ để
không bị mai một những phong tục tập quán, nét đẹp văn hóa đó. Từ nét văn hóa
vật thể và phi vật thể, vì vậy vai trị của cộng đồng người Việt giữ gìn bản sắc
văn hóa Việt Nam khơng thể thiếu và rất quan trọng để bảo tồn nét văn hóa bản
sắc người Việt.
2


NỘI DUNG
1. Khái quát tiến trình lịch sử về sự phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam
(Qua các hình thái: ngơn ngữ, trang phục, ngơn ngữ)
a. Văn hóa Việt Nam thời Tiền sử và Sơ sử [1]
Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt
đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I.TCN. Đây là một giai
đoạn dài và có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị
của văn hóa Việt Nam. Giai đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời Tiền sử từ
buổi đầu đến cuối thời đại đá mới; thời Sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000
năm.
* Thời Tiền sử
Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình

thành nhà nước/ quốc gia (từ buổi đầu thế kỉ I TCN – cuối thời đại đá mới), trên
đất nước Việt Nam đã có một q trình phát triển văn hóa lâu dài. Với những vết
tích cịn lại là các di cốt người – vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai
(Lạng Sơn) và hang Thẩm Ồm (Nghệ An) và những phát hiện di cốt người hiện
đại trong hang Hùm (Yên Bái) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) đã chứng tỏ ở Việt
Nam, con người đã có mặt từ rất sớm và 13 đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người
vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan – Homo sapien).
Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là:
Văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ (cách đây
khoảng 300.000 năm) phát hiện ở núi Đọ - Thiệu Hóa – Thanh Hóa).
Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học
thuộc hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ
(tồn tại trong khoảng từ 20.000 đến 15.000 năm trước công nguyên.
3


Văn hóa Hịa Bình (Hịa Bình) là văn hóa thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài
khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay, xuất hiện một nền nông nghiệp
sơ khai trong lịng văn hóa Hịa Bình.
Văn hóa Bắc Sơn (Lạng Sơn) là văn hóa thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài khoảng
từ 11.000 năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hóa Hịa Bình,
văn hóa Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá mới. Để đến
cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thủy đã tiến sang giai đoạn
nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản
xuất, thực sự bước vào lĩnh cực sáng tạo văn hóa
Về nghệ thuật: để lại những dấu vết như những hiện vật xương có vết
khắc tinh hình cá, hình thú và người trên vách hang Đồng Nội. Trong sự nhận
thức về thiên nhiên của người Hịa Bình, cịn thấy rõ những cảm nhận về những
nhịp điệu vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch
một trên các hịn đá cuội trong hang động. Tư duy về thời gian vũ trụ được con

người thể hiện bằng những hoa văn kí hiệu biểu thị mặt trời như hình trịn, hình
chữ…
* Thời Sơ sử
Cách đây 4.000 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu
vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này
trên lãnh thổ Việt Nam có ba trung tâm văn hóa:
Văn hóa Đơng Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt, gắn với sự ra
đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của
vua An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ những tiền đề của văn hóa thời
Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là văn minh
sơng Hồng – q trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hịa chung vào
một nền văn hóa thống nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung
cho đến bờ sông Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân

4


nhiều thành phần tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái,
Tạng – Miến, Nam Đảo.
Về trang phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến tới trồng
gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa
làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu…
Về nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa thời Đơng Sơn khá phát triển. Nhạc khí
phong phú và đa dạng như trống các loại, chiêng, cồng, chuông, sênh, phách,
khèn… Nghệ thuật múa gồm có múa hóa trang và múa vũ trang
Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền tố của người Chăm và vương
quốc Chăm Pa, tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (hơn 4.000 năm cách ngày
nay) cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 T.CN tới thế kỉ 1-2 S.CN).
Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với chủ nhân văn hóa Bàu
Tró là người tiền Mã Lai – Pơlinêdi và chủ nhân của văn hóa sơ kì đồng thau

miền cao nguyên Lâm Đồng là người tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á.
Về ngôn ngữ: tình hình nghiên cứu cũng chưa thật khả quan nhưng với quan
điểm hiện nay đa số ý kiến cho rằng cư dân Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo
(Malayo - Polynesiens). Tài liệu khảo cổ học cho thấy trong nội dung văn hóa
Sa Huỳnh có các yếu tố văn hóa thời đại kim khí vùng Đơng Nam Bộ và Thái
Lan. Và ngược lại, các yếu tố văn hóa Sa Huỳnh cũng có mặt ở các nơi trên và
trên các vùng khác của cư dân nói ngữ hệ Nam Á (Austro - Asiatic). Rõ ràng địa
bàn phân bố của người Sa Huỳnh đã có pha trộn ngữ hệ Nam Đảo và Nam Á
cổ. Tuy nhiên cư dân Sa Huỳnh khơng hẳn nói thứ tiếng không hẳn thuần Nam
Đảo mà là ngôn ngữ giao thoa giữa Nam Đảo và Nam Á đó là ngữ hệ Nam
Phương (Austric) (Ngô Thế Phong, 1995).[3] [4] [5]
Về trang phục: nhờ có sự giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực nên đồ
trang sức như: khuyên tai 3 mấu được làm bằng chất liệu đá ngọc, thủy tinh, đá
quý; gồm 2 loại: hình ovan vát hẹp ở phần mấu và loại hình thân trịn, có ba mấu
nhô ra sắc cạnh và ngắn; khuyên tai hai đầu thú; hạt chuỗi văn hóa Sa Huỳnh [6]
5


Văn hóa Đồng Nai (miền Nam) là một trong những cội nguồn hình thành văn
hóa Ĩc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ
sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Văn hóa Ĩc Eo gắn với vương
quốc Phù Nam, một nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu
Long. Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay
khoảng 4.000 – 5.000 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông,
giáp biển.
Về nghệ thuật: đời sống người dân cịn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể
hiện qua nghệ thuật tạo hình như các di vật tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch,
tượng chó săn mồi bằng đồng … Ngồi ra cịn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60
thanh
Về trang phục: vì có sự giao lưu văn hóa với các nước láng giềng nên có phần

nào bị ảnh hưởng như: khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa
Huỳnh…
b. Văn hóa Việt Nam thiên niên kỉ đầu cơng ngun [2]
* Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc
Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước cơng ngun, nền văn hóa
Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc
và dân tộc hầu như vừa mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình
trạng bị đơ hộ. Năm 179 T.CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đơ ở Phiên
Ngung (Quảng Đông - Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu
Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 T.CN, nhà Hán chiếm
được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ, dưới đó là
bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ này
kéo dài từ năm 179 T.CN tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu
cho kỷ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Trong thời kì này văn
hóa Việt đấu tranh bảo vệ để khơng mất đi bản chất vốn có, khơng bị phai mờ
khi trở thành thuộc địa của phong kiến phương Bắc.
6


Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao văn hóa Việt – Hán: giai cấp thống trị Hán đã
tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện như:
chính trị - xã hội, tư tưởng, qua cách ăn mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất,
quan hệ xã hội, tiếng nói,.. nhưng Hán hóa với mục đích đồng hóa thì bọn xâm
lược phương Bắc khơng thành cơng.
Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn: từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến
hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên
kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn hóa Hán, luồng ảnh hưởng văn
hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ. Ở đời Hán, có 3 trung tâm
Phật giáo, trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của thương
nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà tới bằng đường biển và đường sông. Đạo

Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới
lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống. Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu
phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ gió mùa Đơng Bắc để trở về Ấn Độ. Một số
tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sống với người Việt và Hoa kiều, và đã ảnh
hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người Việt đã
tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngơn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó
có Phật giáo.
* Văn hóa Chăm Pa
Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ
hộ của phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa
tan rã. Trong quá khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ
Về ngôn ngữ: người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn Sancrit) để tạo ra chữ viết riêng của họ.
Về nghệ thuật: âm nhạc và múa có vai trị rất quan trọng trong đời sống tinh
thần, nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tín ngưỡng, tơn giáo như lễ
Tết Katê, lễ mở cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên
đồng. Trống Baranưng và trống Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ
7


gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, 21 chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt.
Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng. Người
Chăm có các loại múa như múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể và độc
diễn, múa đạo cụ và múa bóng...
Về trang phục: đàn ơng lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn
màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt ( vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các
tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tơn giáo), hai đầu
khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc
áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu
trắng, trong là quần sọc, ngoài quấn váy. Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm
thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc

quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quấn lên đầu, khăn đội đầu chủ
yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn
(khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc
khăn vắt vai ngồi chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua
vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng,
vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng. Nữ mặc áo cổ trịn cài nút phía
trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông
thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc. [7]
* Văn hóa Ĩc Eo
Ĩc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giồng Cát – Giồng
Xoài, nơi lần đầu tiên phát hiện ra di chỉ của một nền văn hoá, được người Pháp
tiến hành khai quật vào năm 1944. Hiện nay, địa danh này thuộc tỉnh An Giang.
Một số học giả cho rằng, chủ nhân của nền văn hoá này là thuỷ tổ của người
Khơ-me ngày nay, một số quan điểm khác lại coi đây là nền văn hoá của giống
người thuộc chủng Indonesia, sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ yếu. Nền văn hoá
rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỉ thứ VIII. Người Óc Eo ảnh hưởng mạnh
văn hoá Ấn Độ. Cư dân theo Bàlamôn giáo, Phật giáo, thờ cúng Linga. Hệ thống
8


đền đài và lăng tẩm khá quy mô, tất cả đều mang hơi hướng của nền văn hoá
Ấn. [8]
c. Văn hóa Việt Nam thời tự chủ [2], [1]
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ năm
938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ
quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh
Văn hóa thời Lý – Trần
Với việc dời đô về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, nhà Lý đã mở đầu
một giai đoạn phục hưng văn hóa Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà
Lý, đưa đất nước tiếp tục phát triển về mọi mặt

Về ngôn ngữ: Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển. Văn học chữ viết
được hình thành với một đội ngũ tác giả hùng hậu. Bên cạnh dòng văn học viết
bằng chữ Hán, lịch sử thời kì này chứng kiến sự hình thành của văn học chữ
Nôm. Thơ ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại lại có những
ánh văn mang tính nhân văn và giá trị văn hóa sâu sắc như Nam quốc Sơn Hà
(Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)… Cùng với văn học là sự ra đời
và phát triển các ngành nghệ thuật như chèo, tuổng
Kiến trúc và điêu khắc phát triển chủ yếu là các cơng trình chùa chiền như chùa
Một Cột, tháp Báo Thiên, chùa Giạm,… Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm
thể hiện một phong cách đặc sắc và tay nghề khá thuần thục. Từng chi tiết chú ý
đến chạm trổ, đường con mềm mại, gợi tả nên rất thanh thốt và nhẹ nhàng.
Về trang phục: kiểu tóc nữ giới: búi tóc thành một bọc trịn trên đỉnh đầu; búi
tóc trên đỉnh đầu, uốn tóc thành hình rẻ quạt, tết tóc thành một dải rồi quấn
quanh đầu; búi tóc thành hai bọc trịn hai bên đỉnh đầu; búi tóc trên đỉnh đầu, búi
tóc thấp, rẽ mái sang hai bên. Kiểu tóc nam giới: Búi thành búi trịn cao trên
đỉnh đầu, Buộc tóc đi ngựa; Búi thành búi trịn cao trên đỉnh đầu nhưng khác
kiểu 1 ở chỗ người nam giới khơng giấu tóc thừa vào trong búi tóc mà để thừa ra
9


chừng 10cm; Cắt tóc ngắn; Cạo trọc đầu. Mũ: mũ Quyển Vân (Thông Thiên),
mũ Đinh Tự, mũ Đầu hổ. Trang sức: trêntóc gồm có các dải hoa quấn quanh
trán, thơng thường một dải có 5 đến 6 bơng hoa giống nhau về tạo hình. Cắm
vào búi tóc có loại trang sức hình bán nguyệt chạm hoa lá theo trục đối xứng;
ngồi ra cịn vịng cổ, gài trâm hình ph ượng, tai đeo khuyên ng ọc, người

đeo ngọc thơm. Áo giao lĩnh, áo viên lĩnh, giày, Minh quang giáp,…[9]
Văn hóa thời Minh thuộc và Hậu Lê
Cuối thời nhà Trần, nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400
- 1407). Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định.

Tháng 4 năm 1407, sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh đổi nước ta thành
quận Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền
độc lập của Đại Việt. Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn,
tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho
Tổ quốc, trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hóa dân tộc bước vào thời
kì phục hưng lần thứ hai.
Về văn hóa ngơn ngữ, nhiều tác phẩm chữ Nơm vẫn không ngừng ra đời và phát
triển. Với Quốc Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở
đầu nền thơ cổ điển Việt Nam.
Về nghệ thuật: sân khấu là tuồng và chèo, đạt được sự ổn định về mặt nghệ thuật
được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh). Về kiến trúc và
điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng
Về trang phục gồm các dạng trang phục Giao Lĩnh Thường, Giao lĩnh vạt ngắn,
Giao lĩnh vạt dài, Viên Lĩnh Thường, Viên lĩnh vạt ngắn, Viên lĩnh vạt dài, Nội
Y – Đối Khâm [10]
d. Văn hóa từ thế kỉ XVI đến năm 1858
sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột giữ nhà Mạc và
nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa
10


Nguyễn ở Đàng Trong, sự thống nhất đất nước buổi đầu của Nguyễn Huệ và sau
đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hóa giai đoạn này một diện
mạo khá đa dạng.
Về ngôn ngữ: văn học giai đoạn này là văn Nôm, được khởi phát từ các giai
đoạn trước đã ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ đã dùng
văn Nôm để 25 sáng tác, và sang đến thế kỷ XVIII – XIX những tác phẩm chữ
Nơm đã hồn tồn chiếm ưu thế trên văn đàn như Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, thơ của Bà Huyện Thanh Quan, những
truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị độ mai, Quan Âm Thị Kính, Phạm Cơng –

Cúc Hoa… Tương ứng với sự phát triển của văn học viết bằng chữ Nôm là sự
phát triển của thể lục bát và song thất lục bát, cùng những sáng tác dân gian như
truyện trạng, truyện cười, tục ngữ; các hình thức diễn xướng như hát tuồng, hát
chèo, hát ả đào… đều phát triển. Về kiến trúc và điêu khắc là sự nở rộ của
những cơng trình mang đậm màu sắc Phật giáo và Đạo giáo như chùa chiền,
đình đền… Bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế, điêu khắc đình làng thời
kỳ này cịn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời thường. Nghệ
thuật tạc tượng thế kỷ XVIII đã đạt đến một trình độ nghệ thuật điêu luyện.
Đáng chú ý là kiến trúc và điêu khắc thời các vua Nguyễn nửa đầu XIX, thể hiện
qua các cơng trình của Kinh đô Huế và các đền đài lăng tẩm.
e. Văn hóa từ năm 1858 đến năm 1945 [2]
sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Pháp; giao lưu văn hóa tự
nhiên Việt Nam với thế giới Đơng Tây.
Báo chí tiếp tục phát triển và ngày càng có nhiều tờ báo nổi tiếng như Gia Định
báo, Phan n báo, Nơng cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đăng
cổ tùng báo, Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn… Văn học lúc này là một
thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ
xã hội nên văn học giai đoạn này có bước phát triển nhanh chóng về cả nội dung
và hình thức. Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc
11


ngữ đã phát triển với các thể loại như kí sự, tiểu thuyết, văn xuôi, truyện ngắn,
truyện dài… Về mặt nội dung, cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình u đơi
lứa được thể hiện trong hầu hết các thể loại của văn học.
Kiến trúc đô thị cũng phát triển không kém. Các kiến trúc Tây phương được đưa
vào Việt Nam nhưng đã được Việt Nam hóa. Giao thơng vận tải có diện mạo
mới với các con đường liên tỉnh dài 20 ngàn km, hệ thống đường sắt dài với
2059 km (1912)… Trang phục, những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đơ thị
có nguồn gốc phương Tây.

g. Văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay [2]
Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, chấm dứt hơn
80 năm đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vịng một nửa thế
kỉ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiên tranh giải phóng dân
tộc và thống nhất đất nước.
Các hoạt động in ấn, báo chí, xuất bản, hoạt động văn học nghệ thuật rất được
chú trọng để phát triển. Các đoàn nghệ thuật như kịch nói, ca múa nhạc được tổ
chức lại; các thể loại như nhạc, kịch hát, thơ múa, kịch múa, các thể loại âm
nhạc thính phịng tiếp thu từ tinh hoa văn hóa bác học thế giới phát triển. Nghệ
thuật điện ảnh qua thời kì phơi thai trước năm 1945 đến nay đã có bước phát
triển đột biến, có những phim Việt Nam như Cánh đồng hoang và một số phim
khác được giải thưởng. Trang phục phù hợp với cuộc sống hiện đại
2. Vai trò cộng đồng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam
Việc giữ gìn bản, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc từ Bắc thuộc khi
nước ta trở thành thuộc địa của, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm
trước. Trên cơ sở vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố
văn hóa Đơng Nam Á, Ấn Độ, Trung Á và Tây Á… có tác dụng trung hịa
những ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc
vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù, khác và vẫn có thể phân biệt được với văn
12


hóa Trung Hoa. Nhân dân ta đã biến những của cải đi vay thành tài sản của dân
tộc để bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc. Ngay
trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Ví dụ như
từ chỗ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tịi,
khai thác nguyên liệu địa phương để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng và
có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Hay là trong khi chịu ảnh
hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo

như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở
chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào Mơnông gần đây. Biểu hiện rõ
rệt của sự bảo tồn nịi giống và văn hóa Việt là sự bảo tồn tiếng Việt – tiếng mẹ
đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt
chẽ, tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó khơng thể
tiêu diệt được tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng
lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách
sống riêng của mình, cho nên họ duy trì được tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu
hiện cuộc sống và tâm hồn Việt. Tiếng Việt đã phát triển ngày càng xa với trạng
thái ban đầu của nó do có tiếp thu nhiều yếu tố của ngơn ngữ Hán. Tiếng Việt có
nhiều từ gốc Hán, và chúng được nhân dân biến đổi để trở thành những từ Hán –
Việt. Ngoài ra, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai,
Tạng-Miến và nhất là Ấn Độ làm cho vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Về mặt
chữ viết, người Việt cũng tiếp nhận một cách sáng tạo loại hình chữ khối vuông
của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt đã dẫn đến sự hình thành chữ Nơm. Nhiều tục
lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình,
tục chơn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục
nhuộm răng, ăn trầu... Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của
Trung Hoa như khánh, chuông… chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như
trống cơm, hồ cầm,… vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như
trống, khèn, cồng chiêng… Giống như một học giả phương Tây đã nhận xét, qua
Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không bị thay
đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng là
13


một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa,
giành lại độc lập dân tộc.
Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vẫn được tiếp
tục, tuy nhiên về trang phục có sự giao lưu văn hóa từ các nước phương Tây và

Trung Hoa nên nhiều thiết kế táo bạo cách tân với trang phục truyền thống.
Trang phục truyền thống sau khi được thiết kế ảnh hưởng phong cách của các
nước khác làm mất đi vẻ đẹp, thể hiện được vóc dáng của người mặc khơng phù
hợp với truyền thống. Ví dụ như áo dài Việt Nam thì đã cách tân tà áo dài ngắn,
quần thì là quần jean ôm đã làm mất đi vẻ đẹp của chiếc áo dài; chiếc áo dài
truyền thống thì vẫn được may và lưu truyền như cũ với ống quần rộng, 2 tà áo
dài xẻ vẫn tôn lên dáng được người phụ nữ Việt. Cịn các tộc ít người trang phục
họ có nét hoa văn, bản sắc riêng, đa số người phụ nữ họ tự dệt, may lên các họa
tiết được gia đình họ truyền lại qua các thế hệ. Ở Việt Nam có 54 tộc người nên
ngơn ngữ của từng tộc người khác nhau, phần đông chiếm đa số là dân tộc Kinh
(người Việt) nên ngơn ngữ chính của nước ta là tiếng Việt (chữ Quốc ngữ), mỗi
đứa trẻ được sinh ra được gia đình dạy các từ đơn giản, được tiếp xúc nói
chuyện bằng tiếng Việt hằng ngày. Dần dần, hình thành ngôn ngữ cho đứa trẻ.
Khi đến tuổi đi học, ngơn ngữ chính được sử dụng là tiếng Việt, trẻ sẽ được học
viết và đọc, giao lưu với bạn bè ngơn ngữ mẹ đẻ này.
Cịn với các tộc người ít người, họ bảo tồn cho con cháu là giao tiếp với
cùng dân tộc người với nhau, họ sẽ sử dụng ngơn ngữ của mình nói chuyện với
nhau nhằm ngơn ngữ không bị mai một, sáng tạo ra chữ viết để được lưu giữ.
Đối với những tộc người chưa có chữ viết, thì Đảng và nhà nước có những chính
sách bảo tồn và phát huy ngơn ngữ của dân tộc ít người như sáng tạo các chữ
viết vừa đơn giản, dễ nhớ,… Các dân tộc ít người, khi họ giao tiếp khác dân tộc
mình hay đi học được giáo dục dạy chữ Quốc ngữ, họ giao tiếp và sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ (tiếng Việt) để nói chuyện được người Kinh hay dân tộc ít người
khác.

14


Đối với nghệ thuật, các cơng trình kiến trúc của cha ông để lại qua các
thời gian vẫn được giữ gìn, qua thời gian lịch sử các cơng trình đã bị xuống cấp

để bảo tồn, Việt Nam thực hiện tu sửa các cơng trình. Tuy nhiên, khi tu sửa q
mức đã làm thay đổi cấu trúc vốn có, làm mất đi giá trị ban đầu. Nghệ thuật văn
hóa tinh thần, các bộ môn như trèo, tuồng, hát xoan,… ở các gia đình có truyền
thống, vẫn được ơng bà, cha mẹ truyền dạy cho con cháu của họ để bảo tồn được
những giá trị nghệ thuật. Nhà nước ta có nhiều chính sách liên quan đến giáo
dục mở trường liên quan đến các bộ môn nghệ thuật, để đào tạo ra các thế hệ
tương lai có niềm đam mê và phát huy truyền thống.
3. Giải pháp để gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam
Để bản sắc dân tộc khơng bị mai một và thái hóa, trước hết phải từ sự tự ý
thức của mỗi người, phải thực sự thấy được giá trị của văn hóa dân tộc - đã và
đang ăn sâu vào máu thịt của mỗi người dân máu đỏ da vàng. Gia đình, cộng
đồng cũng phải chung sức, chung lịng để tơ đậm thêm nữa những giá trị văn
hóa đó trong sự trà trộn của những luồng văn hóa khác. Nhưng giữ gìn ở đây
khơng đồng nghĩa với ôm khư khư lấy những cái cổ hủ, lạc hậu. Phải biết chắt
lọc, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp nhất, hãy bắt đầu ngay từ việc điều
chỉnh hành vi, ý thức của bản thân mình.
Đưa văn hóa Việt Nam vào giáo dục qua các môn học khác nhau như lịch
sử, nghệ thuật như âm nhạc và mĩ thuật. Cho các em trải nghiệm đi thực tế đến
các bảo tàng qua các tiết đi thực tế.
Khi có sự giao lưu văn hóa cần học hỏi và tiếp thu những tinh hóa văn hóa
phù hợp, loại bỏ những hủ tủ khơng cịn phù hợp. Bảo tồn và phát triển những
nét văn hóa riêng của người Việt. Học hỏi nhưng khơng bị đồng hóa hồn tồn
với những sự giao lưu văn hóa của các nước trên thế giới.
Tổ chức các lễ hội truyền thống, trang phục của dân tộc Việt; có các chính
sách khuyến khích và cơng nhận các lễ hội văn hóa để được bảo tồn. Khi có sự
mai một thì cần phải lưu truyền như mở lớp dạy, hoặc viết sách ra để bảo tồn
15


tinh hoa văn hóa các loại hình nghệ thuật như các làn điệu múa, hát trèo, hát

tuồng,…

KẾT LUẬN
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa đã là truyền thống từ thời khi bị phong kiến
phương Bắc xâm lược. Chúng muốn làm mất đi văn hóa của người Việt cổ và
đồng hóa văn hóa của chúng. Nhưng nước ta chỉ tiếp thu, những tinh hoa phù
hợp và vẫn giữ gìn văn hóa của mình để khơng bị đồng hóa. Đến hiện đại vai trò
của cộng đồng rất quan trọng, từ các cá nhân, rồi gia đình và có chính sách của
Đảng và nhà nước để bảo tồn nét văn hóa bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm chung của tất cả những
con người Việt Nam mang dòng máu đỏ da vàng chúng ta. Chính vì thế, ta cần
có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống đó để nó ngày càng đẹp đẽ và
phát triển rộng rãi hơn.
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa trên mặt tinh thần được kế thừa và phát triển
qua các thế hệ khác nhau, trên mặt vật chất thì các thế hệ giữ gìn các di tích trở
thành các di tích lịch sử, được trở thành điểm du lịch và giới thiệu cho bạn bè
năm châu, đem lại nguồn thu nhập. Điều kiện hình thành văn hóa tùy các khu
vực nên văn hóa trở nên phong phú và đa dạng hơn.

16


TÀI LIỆU KHAM KHẢO
[1] Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam do TS. Nguyễn Thị Xuân Hương biên
soạn
/>[2] Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam – tài liệu học tập của trường Đại học Sư
phạm – Đại học Đà Nẵng
[3] Ngô Sĩ Hồng (1987), "Nguồn gốc và quá trình phát triển của văn hố Sa
Huỳnh", KCH (3) tr 37 - 53.
[4] Chử Văn Tần (1978), "Về văn hoá Sa Huỳnh", KCH (1), tr. 52 – 60

[5] Ngô Thế Phong(1995), "Văn hố Sa Huỳnh trong bối cảnh Đơng Nam á",
KCH (4), tr. 45 – 47
[6]

/>
huynh-mot-suu-tap-djoc-djao.html viết bởi Phan Thị Chiên đăng ngày 7/6/2012
[7] viết bởi Vĩnh Thông đăng ngày 21/2/2021
[8] Lưu Trần Tiêu, Văn hóa Ĩc Eo - Nhận thức và vấn đề. NCVHNT 1992, số 3;
tr. 11-14
[9] trang web Đại Việt Cổ Phong
[10] trang
web Đại Việt Cổ Phong đăng ngày 15/7/2016

17



×