Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 36 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b><small>CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH</small></b>
Lớp đào tạo chung nguồn Thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư khóa 5.2 tại TP. Hồ
<b>Giáo viên hướng dẫn: PHẠM LIẾNVai diễn: Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b><small>CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH</small></b>
Lớp đào tạo chung nguồn Thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư khóa 5.2 tại TP. Hồ
<b>Giáo viên hướng dẫn: PHẠM LIẾNVai diễn: Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>PHẦN 1: NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN...2</b>
<b>I.Tóm tắt nội dung vụ án...2</b>
<b>II. Xác định tư cách đương sự...4</b>
<b>III. Thẩm quyền của Tòa án...4</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Lê Minh, Trần Hồng Đức (tự Mạnh Đình) và Đỗ Văn Tùng là những đối tượng nghiện hút ma túy, đồng thời có tiền án về tội: “Đánh bạc”. Vào khoảng ngày 01/02/2018, Lê Minh mở quán cà phê tại góc đường số 10 và đường số 15, phường Tân Qui, quận 7. Trần Hồng Đức và Đỗ Văn Tùng hay đến uống cà phê nên cả 03 quen nhau. Sau khi trò chuyện và biết được Lê Minh bán ma túy, cả 03 cấu kết với nhau, cùng trao đổi số điện thoại để thuận tiện cho việc mua bán trái phép chất ma túy. Khoảng vào lúc 01 giờ ngày 16/03/2018, đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an quận 7 kết hợp với cơng an phường Bình Thuận quận 7 kiểm tra phòng số 101, khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ: 30A, đường số 1, phường Bình Thuận, quận 7 phát hiện các đối tượng: Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thành, Võ Quý Hiếu Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp. Vật chứng thu giữ bao gồm: 20 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA, 3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Tùng, số ma túy tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào các ngày 12/03/2018 và 15/03/2018 mỗi lần ½ 5 hộp về phân ra từng gói nhỏ có giá từ 200.000 – 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, nhưng chưa kịp bán thì đã bị Cơng an quận 7 bắt giữ.
Mở rộng điều tra đến khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/03/2018, tại ngã ba đường Phan Huy Thục và đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được Võ Quốc Cường (sinh năm 1985, HKTT: 450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 4, quận 4) dùng xe NOUVO biển số 54Z4-2723 chở Phạm Ngọc Thành mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện (nhưng Cường không biết Thành đi bán ma túy). Lực lượng công an đã thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng 0,0852 gram, 01 điện thoại di động, 300.000 đồng và xe gắn máy mang biển số 54Z4-2723.
Tiếp tục mở rộng điều tra đến khoảng 0 giờ 30 phút ngày 17/03/2018, trước khách sạn Lan Anh địa chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7, Đội ma túy Công an quận 7 đã phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956, HKTT: 245A/22 Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi bán. Thu giữ của Hồng 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methmphetamine, trọng lượng 2,3947 gram, 02 máy điện thoại di động và 600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra quận 7, Nguyễn Thị Hồng khai
<b>2</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">nhận đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Trần Hồng Đức ra, Hồng còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7. Việc Nguyễn Thị Hồng bán ma túy cho Dũng, Hồng được Dũng cho tiền hai lần, tổng cộng là 3.000.000 đồng.
Về việc mua bán ma túy giữa Lê Minh và Trần Hồng Đức, ngoài việc bán ma túy cho Đức, Lê Minh còn bán ma túy cho Thúng và Minh bê đê (không xác định nhân thân và lai lịch) 03 lần:
- Lần thứ nhất: vào ngày 02/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc (địa chỉ 30A đường số 1, phường Bình Thuận, quận 7). Lần này Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành đã trả trước 1.000.000 đồng và còn thiếu 2.500.000 đồng
- Lần thứ hai: vào ngày 10/03/2018, tại quán cà phê điểm hẹn quận 7, Lê Minh bán cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 ma túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Minh nói Đỗ Văn Tùng đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về đưa Minh
- Lần thứ ba: vào ngày 12/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành chưa trả tiền cho Minh.
Với lần thứ nhất và thứ ba, Thành mang về nơi tạm trú và phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 - 300.000 đồng cất giấu sẵn trong người, chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử dụng, điện thoại cho Thành theo số 0903536313, Thành sẽ bán cho các đối tượng ấy.
Riêng lần thứ hai, Thành mang bán cho Tuấn (không xác định nhân thân lai lịch), giá 12.800.000 đồng.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Minh ra, Trần Hồng Đức còn mua ma túy của Dũng (không xác định nhân thân lai lịch) được 02 lần:
- Lần thứ nhất: Cách ngày Trần Hồng Đức bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng
- Lần thứ hai: vào ngày 17/03/2018
Mỗi lần Trần Hồng Đức mua ma túy thì Dũng khơng trực tiếp bán mà nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán thay. Trong thời gian mua bán trái phép chất ma túy từ 17/02/2018 đến 17/03/2018, tổng số tiền Trần Hồng Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng.
<b>3</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>II.Xác định tư cách đương sự</b>
<b>4. Nguyễn Thị Hồng sinh năm 2001; HKTT: thơn Tân Mỹ, xã Ninh Xn, huyện</b>
Ninh Hịa, tỉnh Khánh Hịa
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Nguyễn Văn Hoa, sinh năm: 1956
Nơi ĐKHKTT: 245A/22, Ba Đình, p.8, q.8. TP.HCM 2. Võ Quốc Cường, sinh năm: 1985
Nơi ĐKHKTT: 450/110, Đoàn Văn Bơ, p.14, q.4, TP,HCM. - Người làm chứng:
1. Thạch Chí Khang, sinh năm: 1992
Nơi ĐKHKTT: Ấp Sa Bình, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh 2. Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 1992
Nơi ĐKHKTT: 30/99/35, Lâm Văn Bền, tổ 8, khu phố 4, phường Tân Kiểng, q.7, TP.Hồ Chí Minh.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS).
Tịa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
Tịa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tịa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tịa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Vì các lý do trên, nên Tịa án nhân dân Quận 7 – TP. Hồ Chí Minh là Tịa án có thẩm quyền xét xử.
<b>4</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">1.1. Kếế ho ch điếều khi n phiến tòa, kếế ho ch xét h iạ ể ạ ỏ Trao đổi với Hội thẩm nhân dân trước phiên tòa
+ Thống nhất nội dung và kế hoạch xét hỏi. + Phân công công việc từng người, ai hỏi câu nào
+ Đảm bảo Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. + Đảm bảo thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của Bị cáo Nguyễn Thị Hồng (người dưới 18 tuổi) Kế hoạch điều khiển phần thủ tục bắt đầu phiên tòa:
+ Yêu cầu Thư ký kiểm tra sự có mặt của KSV, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác, phổ biến nội quy phiên tòa và báo cho thẩm phán Chủ tọa phiên tòa biết để mời HĐXX vào phòng xử án
+ Tuyên bố khai mạc phiên tòa + Đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử
+ u cầu Thư ký phiên tịa báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa và lý do vắng mặt.
+ Kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, kiểm tra căn cước của bị cáo và kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền và nghĩa vụ của từng người.
+ Kiểm tra sự có mặt của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng (người dưới 18 tuổi) cũng như sự có mặt của đại diện hợp pháp đối với bị cáo này.
+ Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðồn thanh niên, người có kinh nghiê Šm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
+ Giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng.
+ Giải quyết yêu cầu, đề nghị của KSV và người tham gia tố tụng về thay đổi người tiến hành tố tụng (nếu có).
*LƯU Ý: Khi xét hỏi bị cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tịa, thì cần hỏi để làm rõ các vấn đề sau đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng (là người phạm tội dưới 18 tuổi): 1. Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dư1i 18 tuổi.
2. Ðiều kiện sinh sống và giáo dục.
<b>5</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">3. Có hay khơng có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục. 4. Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Kế hoạch xét hỏi
+ Hỏi bị cáo Trần Hồng Đức:
- Bị cáo đã nghe rõ vị đại diện VKS trình bày bản Cáo trạng hay chưa? - Bị cáo có đồng ý với ban cáo trạng của vị đại diện VKS không ? - Bị cáo bắt đầu mua bán ma túy đá từ bao giờ?
- Bị cáo hãy nói về phương thức mua bán ma túy của mình? - Bị cáo có biết mua bán ma túy là vi phạm pháp luật khơng?
- Ngồi mua ma túy đá từ Dũng và Minh, bị cáo còn mua của ai nữa không? - Bị cáo hay bán ma túy cho những ai?
- Mua bán ma túy như vậy bị cáo thu lợi được bao nhiêu?
- Bị cáo cho biết trước đây bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc kết án về một tội phạm khác hay chưa?
- Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình?
- Bị cáo có suy nghĩ gì về những hành vi của mình đã gây ra hay không? + Hỏi bị cáo Lê Minh:
- Bị cáo có quen biết các bị cáo Tùng, Đức, Hồng không? - Bị cáo cho biết mối quan hệ của bị cáo với Minh bê đê? - Bị cáo hay mua ma túy từ đối tượng nào?
- Bị cáo Đức vừa khai có mua ma túy từ bị cáo, bị cáo có thừa nhận khơng?
- Thế tại sao bị cáo lại khai lúc bị công an bắt là bị cáo có bán ma túy cho bị cáo Tùng và bị cáo Đức?
- Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình? + Hỏi bị cáo Tùng:
- -Bị cáo Tùng cho biết bị cáo quen biết Minh bê đê trong trường hợp nào? - Bị cáo mua ma túy từ Minh bê đê bao nhiêu lần?
- Thế trước khi bị bắt, những lần sử dụng ma túy đá, bị cáo mua ma túy từ ai? - Bị cáo có sử dụng ma túy cùng với bị cáo Minh không
- Những lúc đó, ma túy là của ai mua? Bị cáo hay Minh? - Bị cáo đã bán ma túy cho những ai rồi?
- Bị cáo có gặp Đức để lấy tiền mua ma túy hộ bị cáo Minh không? - Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình?
+ Hỏi bị cáo Hồng:
- Số ma túy đá công an thu giữ trên người bị cáo hôm 17/3 là của ai?
<b>6</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">- Bị cáo Hồng cho biết, mỗi lần đi giao ma túy thì đối tượng Dũng cho bị cáo bao nhiêu tiền?
- Bị cáo dùng số tiền này để làm gì?
- Bị cáo cho biết bị cáo sinh vào ngày tháng năm nào?
- Bị cáo có thể trình bày hồn cảnh gia đình của mình khơng? Bố mẹ bị cáo làm gì? Ở đâu?
- Bị cáo học hết lớp mấy thì nghỉ học? Sau khi nghỉ học thì làm gì? Ở đâu? Tại thời điểm phạm tội bị cáo có biết mình có thai khơng?
- Bị cáo nghiện ma túy từ khi nào? Gia đình bị cáo có biết việc này không? - Ai đã rủ rê, lôi kéo bị cáo sử dụng ma túy?
- Bị cáo cho biết đã quen Dũng trong trường hợp nào? Quan hệ của bị cáo với Dũng là như thế nào?
- Bị cáo có biết nơi cư trú của Dũng khơng? - Bị cáo nhận ma túy trực tiếp từ Dũng hay từ ai?
- Sau khi bán ma túy xong, tên Dũng thường trực tiêp đưa tiền công cho bị cáo hay thông qua ai.
- Trong suốt quá trình điều tra, hỏi cung bị can, xét xử có luật sư tham gia cùng với bị cáo không?
<b>- Bị cáo bị tạm giam từ khi nào? Bị tạm giam trong bao lâu?</b>
- Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình? Kế hoạch điều khiển tranh luận:
- Đề nghị KSV trình bày luận tội.
- Đề nghị Người bào chữa trình bày lời bào chữa
- Đề nghị bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và
<b>NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMTÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7</b>
<b>7</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:</b>
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa:... Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà ....
2. Bà ....
- Thư ký phiên tòa …... - Thư ký Tòa án nhân dân Quận 7. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 tham gia phiên tòa:
1. Ông ………... - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân Quận 7. 2. Ông ………... - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân Quận 7. Ngày 14 tháng 05 năm 2022, tại hội trường 5.1 Học viện tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh,TAND Q7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số LS.HS 07/TLST-HS ngày 15/3/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022 /QĐXXST - HS ngày 25 tháng 04 năm 2022 đối với các bị cáo:
<b>1/ Lê Minh: Sinh năm 1984, Tại: Cần Thơ;</b>
Nơi ĐKHKTT: 211D/7 Bến Ba Đình, phường 8, quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh;
Chỗ ở: 211D/7 Bến Ba Đình, phường 8, quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 9/12; Cha ơng: Lê Hy Cầu; Mẹ bà: Nguyễn Thị Hồng Lý; Tiền án, tiền sự: chưa;
Bị bắt giữ từ ngày 17/03/2018 đến nay tại trại tạm giam Cơng an Quận 7. (Có mặt)
<b>2/ Đỗ Văn Tùng: Sinh năm 1988; Tại: TP. Hồ Chí Minh</b>
ĐKHKTT: 92/2 khu phố 3, Tân Thuận Đông, quận 7– thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đơng, quận 7– thành phố Hồ Chí Cha ông: Lê Quang Thái, Mẹ bà : Trương Thị Kim Sa; Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: năm 2011 bị cơ quan CA Q7 xử phạt vi phạm hành chính về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
<b>8</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Bị bắt giam ngày 16/03/2018. (Có mặt).
<b>3/ Trần Hồng Đức, Sinh năm 1980,Tại: TP. Hồ Chí Minh,</b>
Tên gọi khác: Mạnh Đình
Nơi ĐKHKTT: 266/9 Tơn Đản, phường 4, quận 4 thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: 334/6A Tôn Đản, phường 4, quận 4– thành phố Hồ Chí Minh;
Quốc tịch: Việt Nam Nghề nghiệp: Khơng. Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 8/12;
Cha ơng: Nguyễn Hữu Hạnh; Mẹ bà : Tổng Thị Nhung; Tiền án, tiền sự: Có 02 tiền án
- Ngày 15/12/2016: Bị Cơng an quận 7 bắt về tội: “Đánh bạc”, Tòa án nhân dân quận 7 xử phạt 3 năm tù giam.
- Ngày 20/03/2018: Bị Công an quận 4 bắt về tội: “Đánh bạc”, Tòa án nhân dân quận 7 xử phạt 2 năm tù giam.
Bị bắt giam ngày 16/03/2018. (Có mặt).
<b>4/ Nguyễn Thị Hồng, Sinh ngày 10/10/2001 Tại: Khánh Hòa</b>
Nơi ĐKHKTT: thơn Tân Mỹ, xã Ninh Xn, huyện Ninh Hịa, tỉnh Khánh Hòa Chỗ ở: 43/5 đường 18, khu phố 6, phường Linh Tùng, quận Thủ Đức– thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc tịch: Việt Nam.
Dân tộc: Kinh. Trình độ văn hóa: 9/12. Nghề nghiệp: Khơng Cha ông: Nguyễn Tâm.
Mẹ bà : Trần Thị Tuyết Mai. Tiền án, tiền sự: Chưa có.
Bị can bị tạm giam từ ngày 17/03/2018 đến ngày 29/05/2018 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang biện pháp Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú do bị can đang có thai 11 tuần tuổi. (Có mặt).
- Người bào chữa cho các bị cáo::
<b>Ông Hà Trung Kiên - Luật sư thuộc văn phòng luật sư ABC bào chữa cho bị cáo</b>
<b>Trần Hồng Đức; (có mặt)</b>
Ơng Nguyễn <b>Tiến Sơn Lâm</b> - Luật sư thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý ABC bào
<b>chữa cho Nguyễn Thị Hồng, (có mặt).</b>
Ơng <b>Nguyễn Minh Cảnh</b> - Luật sư thuộc văn phòng luật sư <b>Công Lý</b> là bào
<b>chữa cho bị cáo Đỗ Văn Tùng; (có mặt) </b>
<b>Ơng Võ Tuấn Khanh - Luật sư thuộc văn phòng luật sư DEF là người bào chữa</b>
cho bị cáo <b>Lê Minh</b>; (có mặt)
<b>9</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Nguyễn Văn Hoa, sinh năm: 1956
Nơi ĐKHKTT: 245A/22, Ba Đình, phường 8, quận 8. TP.HCM 2. Võ Quốc Cường, sinh năm: 1985
Nơi ĐKHKTT: 450/110, Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, TP,HCM. - Người làm chứng:
1. Thạch Chí Khang, sinh năm: 1992
Nơi ĐKHKTT: Ấp Sa Bình, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh 2. Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 1992
Nơi ĐKHKTT: 30/99/35, Lâm Văn Bền, tổ 8, khu phố 4, phường Tân Kiểng, quận 7, TP.HCM
<b>NỘI DUNG VỤ ÁN:</b>
Theo nội dung bản cáo trạng của VKSND quận 7 – TP. Hồ Chí Minh, thì nội dung vụ án như sau:
Khoảng vào lúc 1h ngày 16/03/2018, đội cảnh sát điều tra tội phạm ma tuý Công an quận 7 kết hợp với cơng an phường Bình Thuận quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách sạn khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ số 30A đường số 1 phường Bình Thuận quận 7 phát hiện các đối tượng Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thành, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép chất ma tuý tổng hợp.
Vật chứng thu giữ gồm : 20 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng : 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA; 3,500,000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Tùng số ma túy tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào các ngày 12/03/2018 và 15/03/2018 mỗi lần 2 hộp 5 về phân ra từng gói nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, Đội ma tuý phát hiệnMinh đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh Ngọc cùng địa chỉ và đã mời Minh về làm rõ và mở rộng điều tra đến khoảng 16 giờ 45 ngày 16/03/2018, tại ngã ba đường Phan Huy Thực và đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được tên Võ Quốc Cường dùng xe NOUVO biển số 54Z4 2723 chở Thành mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện (Nhưng Cường không biết Thành đi bán ma túy). Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng 0,0852gram, 01 điện thoại di động và 300.000 đồng và xe gắn máy mang biển số 54Z4 2723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang Trần Hồng Đức thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành để mua ma túy nên bị đội ma túy mời về làm việc; Phạm Văn Chính; (tự Ty) sinh năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, Long An; Phạm Quốc Hiệp; sinh năm 1988, HKTT: C84 xóm Chiếu, phường 14, quận 4.
<b>10</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Mở rộng điều tra đến khoảng 0h 30 ngày 17/03/2018 trước khách sạn Lan Anh địa chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7, Đội ma túy Công an quận 7 đã phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT: 245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi bán. Thu giữ của Hồng 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng lượng 2,3947 gram, 2 máy ĐTDĐ và 600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an quận 7, Nguyễn Thị Hồng khai nhận đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Trần Hồng Đức ra, Hồng còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7. Việc Nguyễn Thị Hồng bán ma túy cho Dũng, Hồng được Dũng cho tiền hai lần, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Hồng đã ăn xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết. Ngoài việc bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng, Lê Minh còn bán ma túy của Thúng và Minh bê đê (không xác định nhân thân và lai lịch) tổng cộng 03 lần Lần thứ nhất vào ngày 02/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ 30A đường số 1, phường Bình Thuân, quận 7. Lần này Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức 1/2 hộp năm ma túy tổng hợp giá 3,500,000 đồng, Thành trả trước 100,000 đồng và thiếu lại 2,500,000 đồng. Lần 2 vào ngày 10/03/2018, tại quán café Điểm hẹn quận 7, Lê Minh bán cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 mà túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Minh nói Đỗ Văn Tùng đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về đưa Minh. Lần thứ 3 vào ngày 12/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức , hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành chưa trả tiền cho Minh. Tổng cộng Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Minh 03 lần, riêng lần mua 10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không xác định nhân thân lai lịch) giá 12.800.000 đồng. Trần Hồng Đức thu lợi bất chính 600.000 đồng. Cịn hai lần Trần Hồng Đức mua của Lê Minh , hộp năm ma túy tổng hợp, Thành mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 đến 300.000 đồng cất giấu sẵn trong người. Chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử dụng, điện thoại cho Thành theo số 0903536313, Thành sẽ mang đi bán cho các đối tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của Trần Hồng Đức gồm có: Phạm Văn Chính (tự Ty), Phạm Quốc Hiệp và Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường (cùng bị bắt ngày 16/03/2018) và 5 đối tượng khác không biết rõ tên và địa chỉ. Địa điểm Trần Hồng Đức thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên quận 4 và quận 7.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Minh ra, Trần Hồng Đức còn mua ma túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Trần Hồng Đức bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/03/2018. Mỗi lần Trần Hồng Đức mua ma túy của Dũng thì Dũng khơng trực tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2018 đến ngày 17/03/2018), tổng số tiền Trần Hồng Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số tiền này Thành đã ăn sài và mua ma túy sử dụng hết.
- Kết luận giám định số 475/KLGĐ-H ngày 4/4/2018 giám định hai gói tinh thể khơng màu được gói bằng nilon của Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng kết luận như sau:
<b>11</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">+ Gói 1 được niêm phong bên ngồi có chữ ký ghi tên Trần Hồng Đức là Methamphetamine (MA), ma túy tổng hợp có trọng lượng 0, 0852 gram; + Gói 2 được niêm phong bên ngồi có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng là Methamphetamine (MA), ma túy tổng hợp có trọng lượng 2,3947 gram; - Kết luận giám định số 473/KLGĐ-H ngày 04/4/2018 giám định hai gói tinh thể khơng màu được gói bằng nilon của Đỗ Văn Tùng được kết luận như sau: “Gói được niêm phong bên ngồi có chữ ký ghi tên Đỗ Văn Tùng là Methamphetamine (MA), ma túy tổng hợp có trọng lượng 4,0852 gram”.
- Một máy điện thoại NOKIA, số khung, số máy, sim
- Số tiền mặt 3.500.000 đồng của bị cáo Đỗ Văn Tùng và một số dụng cụ dung để sử dụng ma túy.
- Một xe gắn máy mang biển số 54Z6-0098, số máy 1512399, số khung: 5055490 do Phạm Thị Hoa đứng tên đăng ký.
- Một gói nylon chứa tinh thể khơng màu (Qua giám định là hợp chất ma túy tổng hợp MA, cân nặng: 4,0852 gr)
- Một điện thoại di động hiệu MOBELL, sim số: 0903536313.
- Số tiền mặt 300.000 đồng của bị cáo Trần Hồng Đức là số tiền bán cho đối tượng Nguyễn Văn Lành.
- Một xe gắn máy hiệu NOUVO mang BKS số 54Z4-2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt là chủ xe. Anh Kiệt đã bán chiếc xe cho anh Võ Quốc Cường.
- Một gói nylon chứa tinh thể không màu (Khi thực hiện giám định là ma túy tổng hợp MA, cân nặng: 2, 3947 gram)
- Một máy điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu tím đen, sim số : 01664456039 do Nguyễn Thị Hồng sử dụng;
- Một điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen sim số: 0903027803. - Số tiền mặt 600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Hồng trong hoạt động mua bán ma túy.
Theo Cáo trạng trạng ngày 22 tháng 08 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo bao gồm: Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo
<b>12</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">quy định tại điểm b, Khoản 2 Điều 251 BLHS. Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận như sau:
Bị cáo Đỗ Văn Tùng khai số ma túy tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào các ngày 12/03/2018 và 15/03/2018 mỗi lần 2 hộp 5 về phân ra từng gói nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, Đội ma tuý phát hiện Minh đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh Ngọc.
Bị cáo Lê Minh khai thì Tùng có sử dụng ma túy tổng hợp với số lượng ma túy lớn 20 gói tổng hợp mà Công an quận 7 đã thu giữ của Đỗ Văn Tùng.
Bị cáo Nguyễn Thị Hồng khai đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Trần Hồng Đức ra, Hồng còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7.
Bị cáo Trần Hồng Đức khai mua ma túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Trần Hồng Đức bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/03/2018. Mỗi lần Trần Hồng Đức mua ma túy của Dũng thì Dũng khơng trực tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và khẳng định hành vi của Bị cáo Lê Minh, Bị cáo Nguyễn Thị Hồng, Bị cáo Trần Hồng Đức, Bị cáo Đỗ Văn Tùng đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy. Đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự: Xử phạt Bị cáo Lê Minh từ ……… năm đến ……. năm tù; Xử phạt Bị cáo Nguyễn Thị Hồng từ ……… năm đến ……. năm tù; Xử phạt Bị cáo Trần Hồng Đức từ ……… năm đến ……. năm tù; Xử phạt Bị cáo Đỗ Văn Tùng từ ……… năm đến ……. năm tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">+ Số tiền mặt 3.500.000 đồng của bị cáo Đỗ Văn Tùng.
+ Số tiền mặt 300.000 đồng của bị cáo Trần Hồng Đức là số tiền bán cho đối tượng Nguyễn Văn Lành.
+ Số tiền mặt 600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Hồng trong hoạt động mua bán ma túy.
- Trả một xe gắn máy hiệu NOUVO mang BKS số 54Z4-2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt là chủ xe. Anh Kiệt đã bán chiếc xe cho anh Võ Quốc Cường; Một xe gắn máy mang biển số 54Z6-0098, số máy 1512399, số khung: 5055490 do Phạm Thị Hoa đứng tên đăng ký. Trả lại cho các bị cáo các điện thoại đã thu giữ sau khi kết thúc vụ án.
Các bị cáo khơng tranh luận, bào chữa gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
<b>NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:</b>
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tồ, Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về mức độ, hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy qua lời khai của Tùng số ma túy tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào các ngày 12/03/2018 và 15/03/2018 mỗi lần 2 hộp 5 về phân ra từng gói nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, Đội ma tuý phát hiệnMinh đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh Ngọc cùng địa chỉ và đã mời Minh về làm rõ và mở rộng điều tra đến khoảng 16 giờ 45 ngày 16/03/2018, tại ngã ba đường Phan Huy Thực và đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được tên Võ Quốc Cường dùng xe NOUVO biển số 54Z4 2723 chở Thành mang ma túy đi bán cho đối tượng
<b>14</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">nghiện (Nhưng Cường không biết Thành đi bán ma túy). Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng 0,0852gram, 01 điện thoại di động và 300.000 đồng và xe gắn máy mang biển số 54Z4 2723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang Trần Hồng Đức thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành để mua ma túy nên bị đội ma túy mời về làm việc; Phạm Văn Chính; (tự Ty) sinh năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, Long An; Phạm Quốc Hiệp; sinh năm 1988, HKTT: C84 xóm Chiếu, phường 14, quận 4.
Mở rộng điều tra đến khoảng 0h 30 ngày 17/03/2018 trước khách sạn Lan Anh địa chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7, Đội ma túy Công an quận 7 đã phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT: 245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi bán. Thu giữ của Hồng 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng lượng 2,3947 gram, 2 máy ĐTDĐ và 600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an quận 7, Nguyễn Thị Hồng khai nhận đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Trần Hồng Đức ra, Hồng còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7. Việc Nguyễn Thị Hồng bán ma túy cho Dũng, Hồng được Dũng cho tiền hai lần, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Hồng đã ăn xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết. Ngoài việc bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng, Lê Minh còn bán ma túy của Thúng và Minh bê đê (không xác định nhân thân và lai lịch) tổng cộng 03 lần Lần thứ nhất vào ngày 02/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ 30A đường số 1, phường Bình Thuân, quận 7. Lần này Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức 1/2 hộp năm ma túy tổng hợp giá 3,500,000 đồng, Thành trả trước 100,000 đồng và thiếu lại 2,500,000 đồng. Lần 2 vào ngày 10/03/2018, tại quán café Điểm hẹn quận 7, Lê Minh bán cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 mà túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Minh nói Đỗ Văn Tùng đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về đưa Minh. Lần thứ 3 vào ngày 12/03/2018, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức , hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành chưa trả tiền cho Minh. Tổng cộng Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Minh 03 lần, riêng lần mua 10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không xác định nhân thân lai lịch) giá 12.800.000 đồng. Trần Hồng Đức thu lợi bất chính 600.000 đồng. Cịn hai lần Trần Hồng Đức mua của Lê Minh , hộp năm ma túy tổng hợp, Thành mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 đến 300.000 đồng cất giấu sẵn trong người. Chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử dụng, điện thoại cho Thành theo số 0903536313, Thành sẽ mang đi bán cho các đối tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của Trần Hồng Đức gồm có: Phạm Văn Chính (tự Ty), Phạm Quốc Hiệp và Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường (cùng bị bắt ngày 16/03/2018) và 5 đối tượng khác không biết rõ tên và địa chỉ. Địa điểm Trần Hồng Đức thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên quận 4 và quận 7.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Minh ra, Trần Hồng Đức còn mua ma túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Trần Hồng Đức bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/03/2018. Mỗi lần
<b>15</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Trần Hồng Đức mua ma túy của Dũng thì Dũng không trực tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Nguyễn Thị Hồng mang đi bán cho Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2018 đến ngày 17/03/2018), tổng số tiền Trần Hồng Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số tiền này Thành đã ăn sài và mua ma túy sử dụng hết. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
<b>Điều 251 quy định: </b>
1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) ….
[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về tội danh truy tố và ý kiến luận tội, mức hình phạt đề nghị đối với các bị cáo Lê Minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng là có căn cứ phù hợp với pháp luật.
[4] Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Các bị cáo đều là những người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong cuộc sống, các bị cáo biết được rằng ma tuý là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi mua bán trái phép và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc. Song do ý thức coi thường pháp luật và vì mục đích tư lợi cá nhân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố ý thực hiê Šn hành vi phạm tô Ši, và đã mua bán ma túy nhiều lần. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tô Ši của các bị cáo là hết sức nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho xã hội; hành vi phạm tội của các bị cáo còn là nguyên nhân gây tổn hại cho sức khoẻ con người, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trâ Št tự trị an chung của xã hội. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện và cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời đảm bảo đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt và đảm bảo tác dụng răn đe, phịng ngừa tơ Ši phạm chung trong xã hội.
[5] Tình các tiết tăng nặng:
Xét thấy các bị cáo đều phạm tội nhiều lần, như vậy VKS truy tố các bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS là có căn cứ. Trong vụ án này, có nhiều bị cáo nên cần phân tích mức độ, tính chất của hành vi phạm tội và lượng ma túy đã bán được của từng bị cáo để áp dụng một hình phạt tương xứng.
Đối với bị cáo Trần Hồng Đức, xét thấy bị cáo có 02 tiền án, nhưng bị cáo khơng lấy đó làm bài học để chuyên tâm làm ăn mà vẫn tiếp tục vi phạm, nên cần phải xử lý
<b>16</b>
</div>