Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.69 MB, 108 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của tiễn sĩ Phan Thị Thanh Mai.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trung thực. Luận văn của tơi có tham khảo một SỐ sách, báo, tạp chí và đã được trích dẫn nguồn tài liệu rõ ràng, đầy đủ.

<small>Hà Nội, tháng 7 năm 2017Tác giả luận văn</small>

Nguyễn Vĩnh Thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>MỤC LỤC</small>

MỞ DAU

CHƯƠNG 1. NHỮNG VAN DE CHUNG VE THỦ TỤC XÉT HOI TẠI PHIÊN TOA HÌNH SỰ SƠ THÁM

<small>1.1. Khái niệm thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự</small>

1.2.Y nghia cua thu tuc xét hoi tai phién toa hinh su so tham

1.3. Thu tuc xét hoi tai phién toa hinh su so thâm theo mơ hình tố tụng thâm van va mơ hình tố tụng tranh tụng, mơ hình tố tụng hình sự đan xen CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TĨ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TĨ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VẺ THỦ TỤC XÉT HOI TẠI PHIÊN TOA HÌNH SỰ SƠ THẤM 2.1. Quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm trong

<small>BLTTHS năm 2003</small>

2.2. Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm

CHUONG 3. THUC TIEN THI HANH VA MOT SO GIẢI PHÁP NANG CAO CHAT LƯỢNG HOAT DONG XÉT HOI TẠI PHIEN TOA HÌNH SỰ SƠ THAM

3.1. Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

<small>3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>Bộ luật hình sự</small>

Bộ luật tố tụng hình sự Cơ quan điều tra

Kiểm sát viên <small>Tòa án nhân dân</small>

Tòa án nhân dân tối cao

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án là cơ quan thực thi quyên tư pháp, là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nên công lý của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời thê hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống <small>tư pháp nói chung.</small>

Nhận thức được tầm quan trọng về vị trí và vai trị của Tịa án, trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã khẩn trương tiễn hành cơng cuộc cải cách tư pháp nói chung, cải cách tơ chức và hoạt động của tịa án nói riêng. Cơng cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng lãnh đạo, toàn thể các cơ quan và nhân dân thực hiện với quyết tâm cao, bước đầu đã đạt kết quả đáng kê.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số <small>nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có xác định “Khi xét</small> xử, các tồ án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan... phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tồ...” Một trong những nhiệm vụ của cơng cuộc cải cách tư pháp hiện nay theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đó là phải “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hon vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trong chiến lược cải cách tư pháp, tòa án được xem là khâu trung <small>tâm của quá trình cải cách, xét xử được coi là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt</small> động tư pháp bởi vì hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu thông qua hoạt động xét xử tại tịa án, nhất là thơng qua phiên tịa. Trước u cầu đó, pháp luật tố tụng hình sự phải khan trương cụ thé hóa ngun tắc tranh tụng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

luật như Luật tổ chức VKS nhân dân và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các luật quan trọng khác. Theo đó phải thiết lập cơ chế bảo đảm nó cả về mặt quy phạm, cả về mặt thực tiễn. Bên cạnh đó tinh thần Hiến pháp năm 2013 coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong những nhiệm vụ chính tri trọng tam, trong đó nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự phải được xác định rõ và thực thi có hiệu quả.

Thơng qua việc xét xử trực tiếp, cơng khai tại phiên tồ, Tồ án ra bản án, quyết định giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án hình sự. Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau và các giai đoạn đều có một vị trí, vai trị nhất định trong việc tìm ra sự thật của vụ án. Tất cả các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm phục vụ cho việc xét xử của Toà án và đều được thê hiện một cách cơng khai tại phiên tồ. Trong đó, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa là khâu trung tâm, quan trọng nhất trong giai đoạn xét xử; ở đó còn là cơ sở dé làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền lợi <small>ích hợp pháp của công dân và xã hội.</small>

Thực tiễn cho thấy mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một số sửa đơi, bơ sung quan trọng về thủ tục tố tụng tại phiên tồ hình sự sơ thâm so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, song mơ hình tố tụng hình sự nước ta chưa tiếp thu nhiều các hạt nhân hợp lý của mơ hình tranh tụng, nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã trở nên bất cập, trong đó quy định về thủ tục xét hỏi chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn tranh tụng. Trên thực tế, trong những năm gần đây có sự chun biến tích cre vé moi mat trong hoạt động tu pháp hình sự, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả xét xử van chưa cao; việc tô chức phiên tịa hình sự và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới trong xã hội. Về tổ chức phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp và vấn đề văn hố pháp lý cũng <small>có tính thời sự được dư luận quan tâm; thực trạng án bị huỷ, sửa do vi phạm</small> thủ tục tố tụng đáng kể hoặc có trường hợp gây oan, sai xâm phạm đến quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

lợi ích hợp pháp của công dân. Trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, nhà nước mong muốn đạt được mục tiêu là hoạt động xét xử được diễn ra theo hướng tranh tụng, công bằng, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền cơng dân trong tơ tụng hình sự. Vì lẽ đó, nhu cầu hồn thiện pháp luật tố tụng và đơi mới phiên tịa hình sự, hồn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm càng trở nên cấp thiết. Đó cũng chính là lý do thúc day người viết lựa chọn đề tài “Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm” làm luận văn thạc <small>sĩ luật học của mình.</small>

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến những khía cạnh khác nhau về thủ tục phiên tòa sơ thâm hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp của các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Cải cách các cơ quan tu pháp, hoàn thiện các thủ tục <small>tư pháp, náng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước</small> pháp quyên xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của tác giả Uông Chu Lưu (năm 2005); Đề tài nghiên cứu khoa học “Hồn thiện pháp luật to tung hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh than cải cách tu pháp” của nhóm tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm đề tài (năm 2009); Luận văn thạc sy Dao Trung Kiên: “Tử tuc phiên tịa hình sự sơ thẩm theo qui định của Bộ luật tơ tụng hình sự năm 2003”, Trường đại học Luật Hà Nội (năm 2008); Luận văn thạc sỹ Nguyễn Văn Toản, “?ranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm” tại Học viện Khoa học xã hội (năm 201 1); Luận văn thạc sỹ, Đỗ Văn Thinh, Thi tuc xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh ( năm 2006); Luận văn thạc sỹ Phạm Đình Thanh, <small>Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự, Trường Đại học luật Hà Nội ( năm2011), Nguyễn Hải Ninh, Thu tuc xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ</small> thẩm, Đại học Luật Hà Nội (năm 2002); Bài báo khoa học “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tổ tụng hình sự về thủ tục phiên tịa sơ thẩm đáp ứng yêu câu cải cách tr pháp” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2009: Bài báo khoa hoc “M6t số vấn dé hoàn thiện quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Ngồi những cơng trình đã nêu trên, cịn có nhiều bài viết có liên quan đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát... Tuy nhiên hầu hết các cơng trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách đơn thuần và riêng lẻ các quy định pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật về từng giai đoạn xét xử mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thong và tồn diện các quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thâm vụ án hình sự trước yêu câu cải cách tư pháp. Vì vậy việc nghiên cứu một số van đề lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm sẽ không trùng lặp với các công trình đã được nghiên cứu và cơng bố, đồng thời nghiên cứu đề tài trong thời điểm hiện nay là rất cấp thiết và có tính thời sự.

Luận văn này nghiên cứu một cách hệ thống về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay va trong đó có cả những nhận xét, bổ sung, hoàn thiện đối với thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình <small>sự theo qui định tai BLTTHS năm 2015.</small>

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn:

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thầm, pháp luật TTHS về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm và thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ tham..

<small>Phạm vi nghiên cứu của luận van:</small>

- Về lý luận, luận văn tập trung làm rõ khái niệm thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, ý nghĩa của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thầm, đặc điểm của thủ tục xét hỏi trong các mơ hình TTHS

- Luận văn là tập trung nghiên cứu qui định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm trong BLTTHS năm 2003 và những điểm mới trong BLTTHS năm 2015, so sánh với quy định về thủ tục xét hỏi trong luật một số <small>quoc gia.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Về thực tiễn thi hành, luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành qui định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét hỏi trên phạm vi cả nước trong năm

<small>năm từ 2012-2016.</small>

- Về giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm,luận văn tập trung vào giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật BLTTHS năm 2015 và giải pháp triển khai thực hiện qui định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong BLTTHS năm 2015.

<small>4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn</small>

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ những van dé lý luận và thực tiễn về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm, từ đó đề xuất một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm và nâng cao hiệu quả <small>của nó trong hoạt động xét xử VAHS.</small>

Dé đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu <small>được đặt ra cho luận văn là:</small>

- Xây dựng khái niệm khoa học về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm; làm rõ ý nghĩa của thủ tục này, khái quát về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm theo mơ hình tố tụng thầm vấn và mơ hình tố tụng tranh <small>tụng, mơ hình TTHS dan xen.</small>

<small>- Phân tích, đánh giá những qui định của BLTTHS năm 2003 và những</small> điểm mới trong BLTTHS năm 2015 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm, làm rõ những bắt cập trong quy định của pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm.

<small>- Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS năm</small> 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm, làm rõ nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm.

5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.

Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thé và đặc thù của khoa học luật TTHS đó là phương pháp phân tích và tơng hợp lý thuyết, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn và phương pháp quan sát.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phan bổ sung, củng cô và phát triển các van dé lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm trong khoa <small>học pháp lý Việt Nam. Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật TTHS Việt</small> Nam về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm; đồng thời nghiên cứu so sánh, rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam cùng vấn đề này ở các nước Liên bang Nga, Nhật Bản và Pháp; Luận văn đánh giá thực tiễn thực hiện thủ tục

xét hỏi phiên tịa hình sự sơ thấm, xác định những bat cap va han ché trong

các quy định của pháp luật về thủ tục xét hỏi cần phải được hoàn thiện, những vướng mắc trong việc thi hành pháp luật cần phải được khắc phục và xác định rõ ngun nhân của tình trạng đó. Luận văn đã đưa ra một SỐ giải pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 2015 nhằm hoàn thiện những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự trong luật TTHS Việt Nam và một số giải pháp khác nhằm đảm bảo việc nâng cao hiệu quả xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Các kiến giải trong luận văn được tiếp thu, vận dụng vào thực tiễn khơng những góp phan hồn thiện pháp luật TTHS và đổi mới phiên tịa hình sự, mà cịn góp phần bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực TTHS.

Y nghĩa thực tiễn: Luận văn sé là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ <small>ích dành cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên</small> cứu sinh, học viên cao học và sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật. Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang cơng tác tại VKS,

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Tịa án nói chung trong q trình giải quyết VAHS đảm bảo tính khách quan, <small>có căn cứ và đúng pháp luật.</small>

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ câu gồm có ba chương:

Chương 1: Những van dé chung về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm.

Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và những điểm mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.

Chương 3: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

XÉT HOI TAI PHIEN TOA HÌNH SỰ SƠ THẤM <small>1.1. Khái niệm thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự</small>

Theo Từ điển tiếng Việt, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, dé tiến hành một cơng việc có tính chính thức”!. Nhu vậy, thủ tục chứa đựng nội hàm là những việc cụ thé bắt buộc phải làm theo trật tự nhằm tiến hành cơng việc có tính chính thức. Cịn những việc chung chung, thiếu cụ thể thì khơng coi là thủ tục. Xét hỏi trong TTHS là một thủ tục trong quá trình xét xử. Bởi vì thủ tục này phải được tiến hành thơng qua chính những hoạt động xét hỏi công khai do các chủ thể theo quy định của pháp luật thực hiện. “Xét hỏi” được giải thích trong Từ điển Tiếng Việt là một động từ chỉ việc “(Nhà chức trách) hỏi kỹ trực tiếp để phát hiện hành vi phạm pháp hoặc tìm kiếm sự thật về một vụ an, v.v. Nhu vậy về mặt ngôn ngữ, xét hỏi được hiểu một chủ thé có quyền hạn làm rõ một sự việc băng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho người khác.

Đề có thé làm rõ “thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thâm”. Theo tác giả luận văn, dé cụ thé hóa va đưa ra định nghĩa khái niệm này cần phải

<small>làm rõ những nội dung sau:</small>

- Thời điểm tiễn hành thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Giải quyết vụ án hình sự là một q trình rất khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với sự tham gia của nhiều chủ thể vào quan hệ pháp luật TTHS. Mỗi giai đoạn tố tụng đều có một vị trí, vai trị nhất định <small>trong việc tìm ra sự thật của vu an, trong đó, giai đoạn xét xử của Toa án được</small> coi là trung tâm của quá trình TTHS. Ở giai đoạn này những chứng cứ, tài liệu thu được trước khi mở phiên tòa đều phải được đưa ra kiểm tra, xem xét một cách công khai, trực tiếp thơng qua thủ tục xét hỏi tại phiên tịa. Quan điểm về <small>vụ án của các bên buộc tội, gỡ tội cũng được trình bày, được thê hiện rõ ràng,</small>

<small>' Trung tâm Từ điền học (1994), Tir điền tiéng Việt, Nxb Khoa học xã hội, tr. 9272 Trung tam Từ điên học (1994), Tờ điên tiéng Việt, Nxb Khoa học xã hội, tr.1108</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

trực tiếp tại phiên tịa. Một phiên tồ trang nghiêm, được tiến hành theo đúng <small>trình tự, thủ tục pháp luật quy định sẽ là một trong những bảo đảm cho công</small> tác xét xử được khách quan, chính xác, thể hiện được vai trị, vị thế của tồ án trong việc thực hiện quyền lực của nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật Việt Nam và đa số các nước trên thế giới việc xét xử được thực hiện theo nguyên tac hai cấp xét xử, trong đó xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất và xét xử phúc thầm là cấp xét xử thứ hai. Tuy nhiên, không phải vụ án nào cũng trải qua hai cấp xét xử. Việc xét xử phúc thâm chỉ đặt ra khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Một số bản án sơ thâm nếu không bị <small>kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì sẽ có hiệu lực và khơng</small> phải xét xử ở cấp thứ hai. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng đối với quyền và lợi ích của cơng dân, ngun tắc này bảo đảm

một vụ việc được xem xét một cách kỹ lưỡng nhằm không bỏ lọt tội phạm

cũng như khơng làm oan người vơ tội. Ở phiên tịa sơ thâm và phiên tịa phúc thâm đều có thủ tục xét hỏi. Về cơ bản thủ tục xét hỏi tại hai phiên tòa này là giống nhau, tuy nhiên do khác nhau về nhiệm vụ và phạm vi xét xử của hai cấp xét xử này khác nhau nên dẫn đến có những điểm khác nhau nhất định về thủ tục xét hỏi ở hai phiên tòa sơ thâm va phúc thẩm.

Giai đoạn xét xử sơ thấm và đặc biệt là phiên tịa hình sự sơ thâm là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết một VAHS. Tại phiên tịa hình sự sơ thâm, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do cơ quan điều tra, VKS thu thập trong quá trình điều tra, truy tổ đều được Hội đồng xét xử kiểm tra, xem xét một cách trực tiếp, cơng khai tại phiên tồ. Hội đồng xét xử và những người có quyền xét hỏi trực tiếp đặt câu hỏi, trực tiếp xem xét vật chứng, tài liệu, xem xét tại chỗ dé làm rõ sự thật của vu án. Những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận bình đăng tại phiên tịa, được cơng khai nêu quan điểm, những yêu cầu của mình đối với việc giải quyết vụ án. Đó là những việc mà tại CQDT họ khơng có điều kiện thực hiện. Xét xử sơ tham được coi như <small>là đỉnh cao của quyên tư pháp, tại phiên toà, các chức năng buộc tội, gỡ tội và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

xét xử được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất. Những lo âu của bị cáo, người bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải toa tại phiên tồ. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử để họ biết được Toà án sẽ phán quyết như thế nao’. Trong giai đoạn xét xử sơ thâm, có thé nói, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa là khâu trung tâm, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm rõ sự

thật khách quan của vụ án, là cơ sở cho việc ra bản án, quyết định của Tòa án.

Trên cơ sở những chứng cứ đã được xem xét trực tiếp tại phiên tịa tại phiên tồ, Tồ án ra bản án, quyết định giải quyết tat cả các van dé của VAHS đúng <small>người, đúng tội, đúng pháp luật, qua đó bảo vệ lợi ích của cơ quan nhà nước,</small> tổ chức xã hội, quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân.

Thời điểm tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm là tại phiên tịa hình sự sơ thâm. Thời điểm thủ tục xét hỏi được tiến hành sau khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và được kết thúc khi xét hỏi xong. Đó là khi thâm phán chủ tọa phiên tịa nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét day đủ và người tiến hành tố tụng, người tham gia tơ tụng khơng cịn yêu cầu chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về vấn đề gì khác. Trên cơ sở đó hình <small>thành những thơng tin chính xác giúp cho việc tranh luận, nghị án và tuyên án</small> được chính xác hơn. Mặc dù việc xét hỏi là dựa vào kết quả của giai đoạn điều tra, truy tố nhưng chỉ những chứng cứ được xem xét tại phiên tịa thì mới được Hội đồng xét xử dùng làm căn cứ dé ra bản án, quyết định. Các thủ tục sau xét hỏi như tranh luận, nghị án và tuyên án hoàn toàn dựa vào kết quả của thủ tục xét hỏi. Khi tranh luận, nghị án có vấn đề nào đó cần xem xét mà chưa được làm rõ tại thủ tục xét hỏi thì HDXX phải quay trở lại phần xét hỏi.

- Chủ thể xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

Chủ thé có qun xét hỏi tại phiên tịa về cơ bản đó là chủ thé xét xử, chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và gỡ tdi. Đề thực hiện chức năng tố <small>tụng của mình, các chủ thê này có quyên xét hỏi đê làm rõ những tình tiét của3 Dinh Văn Qué, Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Tổ tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoànthiện, Tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/33/, ngày truy cập 05/7/2017.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

vụ án. Trên cơ sở kết quả của việc xét hỏi, các bên trong vụ án bảo vệ quan điểm của mình trong quá trình tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thấm va <small>cũng trên cơ sở những chứng cứ được thu được qua việc xét hỏi tại phiên tòa,</small> Tòa án ra bản án và quyết định. Tuy nhiên, tùy theo quy định của từng nước, ở từng thời kỳ khác nhau mà phạm vi chủ thé có quyền xét hỏi có thé rộng hẹp khác nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì chủ thể có thầm quyền xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm đó là HĐXX, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và người giám định. Do chức năng và tư cách tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thé này khác nhau nên phạm vi, nội dung xét hỏi cũng khác nhau. HDXX hỏi dé thu thập, kiêm tra, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện vụ án để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm căn cứ cho việc ra bản án và quyết định. KSV hỏi về các tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo vệ quan điểm buộc tội bị cáo; người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa (gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo); người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự; người giám định hỏi về những vấn đề liên quan đến việc giám định. Ngồi chủ thé có qun xét hỏi, các chủ thé có quyền đề nghị xét hỏi gồm người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, bi cáo, bi hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng. Do đối tượng xét hỏi là những người có tư cách tơ tụng; đặc điểm về thé chat, tinh thần và tâm lý của họ khác nhau, thậm chí tâm lý, thái độ khai báo của từng người cịn có thê thay đổi trong q trình tố tụng, vì vậy địi hỏi chủ thê xét hỏi phải có trình độ chun mơn và kỹ năng nghé nghiệp vững vàng dé đảm bảo xét hỏi có hiệu qua cao. Chủ thê xét hỏi ở phiên tịa hình sự sơ thẩm có điểm khác biệt so với phiên tịa hình sự sơ thâm đó là về thành phần Hội đồng xét xử. Ở phiên tịa hình sự sơ thâm, đa số thành viên của HDXX là Hội thâm (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do một thâm phán xét xử), còn HDXX ở phiên tịa phúc thâm da số hoặc tồn bộ HDXX là thâm phán.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- Đối tượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

Đối tượng xét hỏi đó là những người tham gia tố tụng biết những tình tiết của vụ án hình sự. Những người bị xét hỏi có thể có quyền lợi, nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án như bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc khơng có quyền lợi, nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, như người làm chứng, người giám định.

Đối tượng xét hỏi là những người có tư cách, vai trò tố tụng khác nhau; đặc

điểm về thé chat, tinh thần của từng người cũng khác nhau, phạm vi khai báo của họ cũng khác nhau. Chính vì vậy, thủ tục xét hỏi đối với từng chủ thể mặc dù về cơ bản là giống nhau những cũng có một số điểm khác nhau, phù hợp với từng loại đối tượng xét hỏi, nhằm bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đối tượng

xét hỏi không chỉ là đối tượng thụ động của việc xét hỏi mà họ cịn có quyền

dé nghị những người có quyền xét hỏi tiễn hành xét hỏi thêm về những tình tiết của vụ án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ mà họ thấy cần làm rõ thêm. Đối tượng xét hỏi ở phiên tịa hình sự sơ thẩm và ở phiên tịa hình sự phúc thâm có thể khác nhau. Do giới hạn, phạm vi xét xử sơ thầm va phúc thẩm khác nhau nên dẫn đến phạm vi đối tượng xét hỏi ở hai phiên tịa có thé khác nhau. Phiên tịa hình sự phúc thâm xem xét giải quyết nội dung của kháng cáo, kháng nghị, nếu xét thấy cần thiết có thể xem xét các phần khác khơng bị kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, tại phiên tịa phúc thâm khơng nhất thiết phải có sự tham gia của tat cả các chủ thé tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.

- Cở sở pháp lý của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

<small>Hoạt động xét xử của Tịa án nói chung và thủ tục xét hỏi tại phiên tịa</small> hình sự sơ thâm nói riêng là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp của nhà nước vì vậy phải được nhà nước quy định một cách chính thức và hình thức ghi nhận thủ tục này ở các nước có thé khác nhau. Ở Việt Nam, thủ tục này được quy định trong BLTTHS. Nội dung của thủ tục bao gồm các điều luật quy định về những người có quyền xét hỏi,

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

những người bi xét hỏi, trình tự xét hỏi và các quy định cu thể việc xét hỏi các chủ thé và tiễn hành các hoạt động khác nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án v.v. Trong BLTTHS năm 2003, thủ tục này được qui định từ Điều 206 đến Điều 216. Ngoài ra, thủ tục này còn được hướng dẫn ở các văn bản pháp luật khác hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS năm 2003 như nghị quyết của Hội đồng thâm phán của TANDTC, quy chế của VKS v.v...

- Mục dich của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm

Mục đích của thủ tục này nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Các tình tiết của vụ án được xác định một cách đầy đủ cơng khai, chính xác bằng cách hỏi trực tiếp bị cáo và những người tham gia tô tụng khác; trực tiếp xem xét vật chứng và các tài liệu khác của vụ án một cách cơng khai tại phiên tịa. Mọi vấn đề thuộc về xác định lời <small>khai, các tài liệu và chứng cứ khác có phải là chứng cứ của vụ án hay khơng,</small> xác định tính hợp pháp và có căn cứ của các chứng cứ đều được thực hiện <small>trong thủ tục này. Việc xét hỏi tại phiên tịa khơng phải là buộc bị cáo xác</small> nhận những lời họ đã khai tại CQDT mà phải hiểu mục đích chính là dé kiểm tra tính hợp pháp của chứng cứ, tài liệu, kiểm tra lại sự kiện pháp lý. Các chứng cứ mà được Tòa án dùng dé kết luận về vụ án phải là những chứng cứ <small>đã được đưa ra xem xét thông qua thủ tục xét hỏi. Tại phiên tịa hình sự sơ</small> thâm, hoạt động xét hỏi rất quan trong vi nó biểu hiện tính cơng khai trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, việc đưa ra lý lẽ, lập luận, đối đáp dân chủ, bình đăng tại phiên tịa tạo điều kiện cho người tham gia tô tụng bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của

Qua nghiên cứu một số Luận văn của các tác giả khác, thay rang cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Khái niệm thủ tục xét hỏi tại PTHS được tác giả Phạm Đình Thanh tiếp cận như sau: “ Xét hỏi tại phiên tòa hình sự là một thủ tục xét hỏi do HĐXX, Kiểm sát viên và những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện tại phiên tịa hình sự bằng cách hỏi trực tiếp bị cáo và những người tham gia t6 tụng khác va bằng một số hoạt động cần thiết nhằm

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ một cách công khai nhằm góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án”?

Việc tiếp cận khái niệm xét hỏi dưới góc độ là một thủ tục TTHS vừa nêu là hợp lý. Đồng thời khái niệm này coi hoạt động xét hỏi là việc đặt câu hỏi trực tiếp của các chủ thể có thâm quyền xét hỏi bao gồm hỏi trực tiếp và có các hoạt động khác như thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Cách tiếp cận ở khía cạnh này là hợp lý, bởi hoạt động xét hỏi là việc các chủ thê muốn nắm bắt thông tin của người được hỏi, trên cơ sở đặt câu hỏi và sự trả lời thì chủ thể có quyền hỏi mới đạt được mục đích. Việc đặt câu hỏi này với tính chất trực tiếp. Thủ tục xét hỏi theo qui định của BLTTHS bao gồm cả việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, việc cơng bố tài liệu trong q trình điều tra. Do vậy, khái niệm nêu trên cho rằng hoạt động xét hỏi bao gồm “bằng một số hoạt động cần thiết khác nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ một cách cơng khai” là có cơ sở lý luận. Tuy nhiên ở đây có sự nham lẫn khi cho rằng hoạt động thu thập chứng cứ tại phần xét hỏi vì xét hỏi ở phiên tịa hình sự nước ta với mục đích chính là dé thâm tra đánh giá chứng cứ. Các hoạt động khác như xem xét địa điểm phạm tội, vật chứng của vụ án, công bố tài liệu cũng là hoạt động kiêm tra, đánh giá chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố mà thôi. Việc tác giả nêu “Xét hỏi tại phiên tịa hình sự <small>là một thủ tục xét hoi...” chưa giải thích được rõ nghĩa của xét hỏi.</small>

Khái niệm thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thầm được tác giả Đỗ <small>Văn Thinh xây dựng: “ Thủ tục xét hỏi là một thủ tục chính và quan trọng cua</small> phiên tịa sơ thấm, trong đó Tịa án cùng các bên tranh tung xem xét, kiểm tra các chứng cứ của bên buộc tội thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ đo bên bào chữa đề xuất được Tịa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án.”

Khai niệm nay đã hợp lý khi coi xét hỏi là một thủ tục t6 tụng hình sự <small>có vi tri trọng tâm trong giai đoạn xét xử, được thực hiện bởi Tòa án, các bên</small>

<small>* Phạm Đình Thanh (2011), Thu tục xét hoi tại phiên tịa hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật </small>

<small>học-Trường Đại học luật Hà Nội, tr. 10.</small>

<small>” Đỗ Văn Thinh (2006), Th tuc xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Luận văn Thạc sỹ Luật học-Trường Dai học luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.23.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>buộc tội và bào chữa. Khái niệm này đã phản ánh được các chức năng cơ bản</small> của tố tụng và việc xét hỏi gắn liền với việc xuất trình chứng cứ. Ở các khía <small>cạnh nay là hợp lý, bởi thủ tục xét hỏi có vi trí trọng tâm, quan trọng của phiên</small> tịa hình sự sơ thấm, và xét hỏi là lúc các bên buộc tội, bào chữa và cơ quan xét xử thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình tại phiên tịa. Do đó, các chức năng cơ bản của tố tụng được bộc lộ. Xét hỏi với mục đích làm rõ chứng cứ, kiểm tra vật chứng và thường gắn liền với việc xuất trình chứng cứ dé chứng minh. Tuy nhiên, hạn chế ở khái niệm này là chưa nêu được thuộc tính cơng

khai của hoạt động xét hỏi; đối tượng bị xét hỏi là ai.

Từ những phân tích ở trên, tác giả luận văn có thé đưa ra khái niệm về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thấm như sau:

Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là những việc phải làm <small>theo trật tự được BLTTHS qui định do HDXX, KSV, người bào chữa và những</small> người tham gia tô tụng khác theo luật định thực hiện bằng cách hỏi trực tiếp những người biết các tình tiết của vụ án và tiến hành các hoạt động xem xét chứng cử, tài liệu khác tại phiên tòa xét xử VAHS ở cấp thứ nhất nhằm xác định sự thật của VAHS một cách khách quan, toàn diện và day du.

1.2. Y nghĩa của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thắm

- Ý nghĩa chính trị và xã hội: Cơng bằng và bình đăng là yếu tố quan trọng nhất và là hạt nhân của hoạt động xét xử. Do đó việc thực hiện thủ tục <small>xét hỏi tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Nó bảo đảm giúp tìm</small> ra sự thật khách quan của vụ án đồng thời thé hiện sự công khai minh bạch và bình đắng cần có trong việc xét xử VAHS đồng thời cũng bảo đảm cho việc bảo vệ lợi ích tối đa của con người. Thủ tục này thực hiện theo đúng tinh thần của Điều 10 Tuyên ngơn tồn thế giới về nhân quyền năm 1948 “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử cơng bằng và công khai bởi một toa án độc lập và khách quan, dé xác định các quyền và nghĩa vụ của họ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Công ước Châu Âu về quyền con người “Moi người đều có quyền được xét xử công bang và công khai trong thời gian hợp lý bởi một tịa án độc lập

khơng thiên vi được thành lập theo pháp luật”. Chính vì vậy mà bất ky quốc

gia nào trên thế giới cũng đều đề cập đến vấn đề cơng băng và bình đăng trong pháp luật hình sự nước mình và điều đó được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa xét xử hình sự - nơi tiến hành các thủ tục một cách cơng khai đề <small>xác định một người có phạm tội hay không.</small>

Pháp luật Việt Nam cũng rat quan tâm đến van dé quyền con người, quyền công dân. Mục tiêu của nhà nước ta là xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ, mang tính nhân văn sâu sắc đồng thời vẫn bảo đảm đúng đường lối chủ trương của Đảng. Chính vì vậy trong Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận quyền con người là một quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con nguoi, qun cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Luật TTHS đã quy định rất cụ thé về trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự công khai nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Thủ tục xét hỏi công khai bắt buộc tại Tịa án chính là biểu hiện cụ thê việc Nhà nước bảo vệ các quyền cơ bản của con người đồng thời nhằm mục đích bảo đảm cơng bang xã hội củng cố lòng tin của nhân dân.Trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu <small>cao cái gương “phụng cơng, thủ pháp, chí cơng vơ tư” cho nhân dân noi</small> theo””. Việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm cho thấy yếu tơ cơng bang, bình đăng, cơng khai của một phiên tịa có tác động tích cực đến xã hội, đến thể chế nhà nước. Thông qua hoạt động xét hỏi, các quy định của pháp luật sẽ <small>“ ước châu Âu về Nhân quyềnC4.90i.E1.BB.81u 6 .E2.80.93_x.C3.A9</small>

<small>tx.EI.BB.AD_c.C3.B4ng b.E1.BA.BIng, truy cập ngày 05/6/2017</small>

<small>Š Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1995), Hé Chi Minh toàn tập, Hà Nội, tr 381-382</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

được giải thích khơng phải chi dé bị cáo cho tat cả công dân tham dự phiên tịa đó. Giúp cơng dân hiểu rõ chính sách, quan điểm của Nhà nước đối với người phạm tội, sự quan tâm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người nói chung, đồng thời xây dựng uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quần chúng nhân dân. Xét xử công minh góp phần bảo đảm lịng tin của nhân dân đối với tịa án, đường lối, chủ trương Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

- Ý nghĩa pháp lý: Xét hỏi là một thủ tục bắt buộc cần phải tuân thủ trong phiên tịa hình sự sơ thâm và điều đó có nghĩa là những người có liên quan cần phải tuân thủ chặt chẽ những quy định đó. Quá trình xét hỏi được tiến hành theo một trình tự nhất định bắt đầu từ chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Việc xét hỏi được tiễn hành với bị cáo, người bị hại, người có quyên lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Cũng từ đó các chứng cứ, tình tiết của vụ án được sang tỏ và sự thật của vụ án cũng mở ra. Xét hỏi vừa là thủ tục giúp kiểm tra, đánh giá các van đề đã thu thập được ở giai đoạn điều tra cũng đồng thời cũng là cơ sở để tịa án có được kết luận khách quan. Trên cơ sở đó HDXX xác định có tội phạm xây ra hay khơng, bị cáo có tội hay vơ tội, nếu có tội thì phạm tội gì, động cơ, mục đích, ngun nhân và điều kiện phạm tội... Như vậy, xét hỏi có ý nghĩa vơ cùng quan trọng về mặt pháp lý vì nó ảnh hưởng đến những phán quyết cuối cùng của HĐXX hay nói cách khác kết quả của xét hỏi là căn cứ quan trọng cho việc ra bản án, các quyết định.

Thực hiện thủ tục xét hỏi cịn có ý nghĩa giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho những người tham gia phiên tòa và quần chúng nhân dân. Qua thực tế xét hỏi và tiến hành t6 tụng các cơ quan tiến hành tố tụng thé phát hiện sự bất cập, hạn chế của pháp luật, dé có những đề xuất cơ quan có thâm quyền hồn thiện qui định của pháp luật; kiến nghị yêu cầu khắc phục, sửa chữa những sơ hở, thiếu sót trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cơ quan nhà nước khác dẫn đến tội phạm và vi phạm pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

1.3. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ tham theo mơ hình tố tụng thâm van và mơ hình tố tụng tranh tụng, mơ hình TTHS đan xen

1.3.1. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm một số nước theo mơ hình TTHS thẩm van

Mơ hình TTHS thâm vắn, tố tụng xét hỏi hình thành và phát triển ở những nước thuộc hệ thống luật châu Âu lục địa hay hệ thống luật dân sự (Civil Law) như các nước châu Âu (Pháp, Đức, Italia...), Nhật bản và một số nước châu Mỹ Latinh (Braxin,Venezuela...). Tố tụng theo mơ hình này nghĩa là huy động các co quan tố tụng chun nghiệp của Nhà nước (CQDT, VKS-cơng tố, Tịa án) vào quá trình di tìm sự thật của vụ án, các cơ quan nay cùng được giao trách nhiệm chứng minh tội phạm. Trình tự giải quyết VAHS được xem như là một cuộc điều tra, trong đó, người tiến hành điều tra là đại điện của quyền lực Nhà nước và phương pháp điều tra là thâm vấn. Tòa án giải quyết vụ án dựa trên hồ sơ vụ án kết hợp với việc tiếp tục thâm van tại phiên tịa. Thâm phán có vai trị trọng tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Điều này ngược lại với mơ hình tranh tụng, nơi mà quyền lực được san sẻ giữa các bên, bơi thâm đồn giao quyền chủ động cho công tổ viên và luật sư tại phiên tòa và chỉ quyết định khi bị thuyết phục bởi lý lẽ, chứng cứ của một trong hai bên.

Khác với mơ hình tố tụng tranh tụng, vai trị của cơ quan nhà nước trong việc tham gia tố tụng theo mơ hình này là chủ yếu. Hiện diện trong suốt quá trình tố tụng là một hồ sơ VAHS thống nhất được lập từ giai đoạn điều tra va là nơi chứa đựng chứng cứ xác định tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm CQDT, VKS (Cơ quan cơng tố) va Tịa án là những chủ thé đóng vai trị chính trong tồn bộ q trình tố tụng và chi phối tồn bộ mơ hình tố tung. Các cơ quan tiễn hành tố tụng là chủ thé xác định sự thật khách quan của vụ án, có tồn qun trong việc xây dựng hồ sơ vụ án và coi đó là chứng cứ dé xem xét định tội. So với công tố viên, vai trò của người bào chữa trong tố tụng thâm vấn không được coi trọng dẫn đến quyên bào chữa của bị cáo bị hạn chế, quyền con người trong tố tụng thấm van của người bị buộc tội dé bị xâm phạm, nhất là trong giai đoạn điều tra. Công tố viên thường xuất hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

trong vụ án sớm hơn so với luật sư bào chữa. Giai đoạn điều tra trong mơ hình tố tụng thâm van thì các co quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án và có đặc trưng là khơng cơng khai, tố tụng viết. Tòa án vừa chi phối, giám sát hoạt động điều tra trước phiên tòa, vừa thực hiện chức năng xét xử. Trong tố tụng thâm vấn “khi các vị thâm phán xuất hiện bao giờ cũng có trong tay tồn bộ tài liệu về q trình điều tra, họ biết rõ rất rõ là nhân chứng đã nói gì với cảnh sát, họ đã nghiên cứu hồ so”. Tham phan sẽ là người tích cực thấm tra bị cáo, người bị hại và các nhân chứng dé tìm ra sự thật của vụ án, khơng giữ trung gian như một trọng tài. Thực chất việc mở phiên tòa xét xử được xem như việc điều tra cơng khai. Theo mơ hình t6 tung này, luật sư muốn hỏi nhân chứng điều gì phải yêu cầu hay nhờ thâm phán hỏi về điều đó. Khác hắn với các nước theo hệ thống luật án lệ, các luật sư có thê hỏi thang nhân chứng. Việc tranh luận sẽ được tiễn hành sau khi tất cả các chứng cứ đã được thâm phán kiểm tra đồng thời những người tiễn hành tố tụng và tham gia tố tụng khác khơng có u cau hỏi nữa. Phiên tịa trong tô tụng thâm vấn không phải là sự đối tụng nhau giữa hai bên buộc tội và gỡ tội mà là sự tiếp tục điều tra công khai nhằm làm rõ sự thật của thâm phan. Vi lo ngại cơ quan thực thi quyền điều tra, truy tố và người tham gia tô tung che giấu sự thật nên qua thâm van các thâm phán sẽ kiểm tra tích cực chứng cứ, kiểm tra nhân chứng, cho dù việc này thuộc về chức năng buộc tội của công tố viên. Vì thế, thâm phán tại phiên tịa được trao qun hạn rất <small>lớn. Việc thu thập chứng cứ trước khi xét xử chỉ được giao cho CQDT và cơ</small> quan truy tố, phía bị buộc tội và người bào chữa tham gia rất mờ nhạt. Chứng cứ được tập hợp đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Chính vì vậy, phiên tòa thuộc hệ thấm vẫn thường ngắn hơn và kém sinh động, thiếu tính tranh tụng và khó <small>phân biệt rành mạch giữa các chức năng tại phiên tòa; bị cáo thường nhanh</small> chóng nhận tội và chấp nhận hình phạt. Ưu điểm của mơ hình này là Nhà nước

<small>? Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1999), Chuyên dé Tư pháp hình sự so sánh, Thơng tin khoa</small>

<small>học pháp ly, tr.11.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

đóng vai trị chủ đạo trong việc tìm kiếm sự thật, nên trong chừng mực nhất

định, quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội luôn được bảo vệ tốt hơn khi quyền đó xâm phạm bởi cá nhân người phạm tội. Với cách thức thấm tra

truyền thống, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm. Thủ tục phiên tịa đơn giản,

nhanh chóng. Việc xét xử khơng cần thiết phải có mặt đầy đủ những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thâm tra lại tại phiên tòa và việc xét hỏi chủ yêu do Tòa án đảm nhận. Hạn chế của mơ hình này là trong giai đoạn điều tra các cơ quan tiến hành t6 tụng dé lạm dụng quyên lực, áp đặt ý thức chủ quan, sử dung các biện pháp trái pháp luật dé thu thập chứng cứ như bức cung, dùng nhục hình, mớm cung... và Tịa án khó mà nhận biết được tại phiên tòa xét xử. Vai trò của thẩm phán xét xử trong hệ thống luật lục địa trong thực tế khá là giới hạn, thâm phán trong hệ thống luật lục địa ít khi tiễn hành việc kiểm tra chứng cứ một cách thực sự tại phiên tòa, mà có vẻ như là dựa vào hồ sơ nhiều hơn. Chính vì cơng việc chứng minh tội phạm được nhà nước ủy nhiệm phan lớn cho các co quan tư pháp (đặc biệt là Tòa án), với hy <small>vọng họ sẽ nhanh chóng khám phá vụ án, bảo vệ công lý mà không chú trọng</small> đến việc tạo lập cho bị cáo các quyền để họ tự bảo vệ mình, nên dẫn đến một hệ quả tất yếu là các chức năng tố tụng (buộc tội, bào chữa, xét xử) khơng được phân định rạch rịi, địa vị pháp lý của chủ thể tham gia tố tụng khơng bình dang thực sự, quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự dễ bị xâm hại.

1.3.2. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm một số nước theo <small>mơ hình TTHS tranh tụng</small>

Mơ hình TTHS tranh tụng là một trong các mơ hình TTHS phổ biến hiện nay trên thế giới, nó được hình thành và phát triển ở những nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law (hay còn gọi là luật Anglo-Saxon, thông luật) mà Vương quốc Anh luôn được xem là quê hương. Hiện nay có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ áp dung mơ hình t6 tụng tranh tụng như: Hop chủng quốc Hoa kỳ, Vương quốc Anh, Hồng Kơng, Ấn độ, Austraylia... Theo mơ hình

này thì giữa bên buộc tội và bên gỡ tội được đảm bảo sự bình đăng tuyệt đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

trong suốt qua trình đi tìm sự thật của vụ án và Tòa án sẽ ra phan quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tịa. Mơ hình này mang tính chất <small>cơng khai và mở ra cơ hội cho các bên buộc tội và gỡ tội. Vụ án chỉ được coi</small> là bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức nang bao chữa, các bên được vận dụng hết khả năng dé thực hiện chức năng của mình “trong suốt q trình tơ tụng tranh tụng, bên buộc tội và bên bị buộc tội liên tục trao đổi với nhau những lập luận, chứng cứ. Các bên ra trước tòa với tư cách như hai đối thủ”'” Việc xét hỏi được thực hiện bang cách kiểm tra chéo, bên bào chữa cũng như bên buộc tội đều có thé hỏi về tinh trung thực <small>trong lời khai của các nhân chứng, tìm ra sự thiên vị và chỉ ra được cái mà</small> nhân chứng biết thật chứ không phải cái ma họ nghĩ rang họ biết. Mô hình tố tụng tranh tụng thường khơng dé cho qun lực tập trung vào một cơ quan hay người nào mà nó thường được san sẻ cho cơng tố viên (bên buộc tdi), luật sư (bên gỡ tội), thâm phán, bồi thâm đoàn dé phối hợp với nhau nhằm đạt đến cơng ly. Vai trị của luật sư được dé cao và thẩm phán được coi như trọng tai trong phiên tịa. Tham phán có nhiệm vụ điều khiến trình tự xét xử, hướng dan cho các bên đưa ra chứng cứ và điều tiết sự tranh luận giữa các bên, thầm phán có thé chấp nhận hay khơng chấp nhận chứng cứ mà các bên đưa ra. Thâm phán không được nghiên cứu hồ sơ vụ án từ trước dé tránh có thái độ phiến diện về các tình tiết của vụ án và đưa ra phán quyết dựa trên cơ sở chứng cứ và lý lẽ mà các bên đã đưa ra tại phiên tòa, “các vị thâm phán khơng biết một cái gì hết. Họ chỉ biết có mỗi tên thơi. Khơng có hồ sơ cho các vị thâm phán. Hồ sơ trong tay luật sư công tổ ủy viên va nằm trong tay của luật sư bào chữa chứ khơng trong tay thắm phán”!" Phiên tịa xét xử là giai đoạn điều tra chính thức vụ án, các chứng cứ được đưa ra, các bên trình bày lý lẽ, luận điểm nên <small>quyên được suy đoán vô tội được tôn trọng hơn so với các mô hình tơ tụng</small>

<small>'° Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002)- Kỷ yếu hội thảo một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh</small>

<small>tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyên chọn, bôi dưỡng, bô nhiệm, quản lý thâm phán, tháng 01/2002,</small>

<small>!! Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1999), Chuyên đề Tư pháp hình sự so sánh, Thơng tin khoa</small>

<small>học pháp lý, tr. 11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

khác. Người bị tình nghi có quyền giữ im lặng bất hợp tác với cảnh sát trước khi phiên tòa diễn ra. Do khi phiên tòa mở ra thì giai đoạn điều tra mới bắt đầu, các chứng cứ, lý lẽ các bên mới đưa ra dé đánh giá thâm định. Đồng thời trong quá trình diễn ra phiên tịa các bên cịn có quyền triệu tập thêm nhân <small>chứng, thu thập những chứng cứ mới, vì vậy phiên tịa thường kéo dài. Trong</small> mơ hình tố tụng này không tồn tại một “hồ sơ VAHS” theo nghĩa sử dụng trong mơ hình tơ tụng thâm van, bên buộc tội và bên gỡ tội đều có quyền lập hồ sơ và các hồ sơ này đều được trình bày, thẩm tra tại phiên tịa. Tố tụng tranh tụng được thé hiện trực tiếp bang lời nói, nên nhiều tài liệu trong tô tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trong của vụ án thì trong t6 tụng tranh tụng lại khơng được cơng nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, dé làm rõ các tài liệu liên quan đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày trước tịa.

Phiên tịa theo tố tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra. Nếu như ở hệ tổ tụng tranh tụng, vai trò của Tòa án là thụ động, quá trình thâm van của Tham phán ngay tại phiên tịa cũng chỉ mang tính chất gián tiếp thì tố tụng xét hỏi ln dé cao vai trị chủ động của Thâm phan trong các giai đoạn điều tra, truy t6 và xét xử. Trong hệ t6 tụng tranh tụng khơng có sự tố tụng xét hỏi nên chứng cứ trong tố tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ, ngay cả Thâm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất. Tại phiên tịa chỉ có các luật sư hỏi nhau và hỏi nhân chứng, thậm chí có quyền ngắt lời bên kia dé phản bác, thâm phán khơng hỏi câu nào. “Vì hồn tồn được thực hiện băng lời nói nên mọi chứng cứ viết, chang hạn như biên bản của cảnh sát tư pháp, đều không được công nhận là chứng cứ.”'

<small>' Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002)- Kỷ yếu hội thao một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh</small>

<small>tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyên chọn, bôi dưỡng, bô nhiệm, quản lý thâm phán, tháng 01/2002,</small>

<small>tr.3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Qua xem xét các đặc điểm của mơ hình TTHS tranh tụng có thé rút ra những ưu điểm và hạn chế của mơ hình này như sau:

Về ưu điểm:

- So với các mơ hình tố tụng khác thì mơ hình tơ tụng tranh tụng dé cao qun con người hơn, với ngun tắc suy đốn vơ tội “thà bỏ sót cịn hơn bat nhằm” các cơ quan tiễn hành tố tụng luôn đặt trách nhiệm tôn trọng quyền của cơng dân lên trên hết.

- Mơ hình tổ tụng tranh tụng là biểu hiện của việc phát huy tối đa tinh thần dân chủ trong hoạt động tố tung. Các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên hoặc có ưu thế vượt trội hơn bên gỡ tội mà giữa họ có vi thế ngang bằng nhau, bình dang về quyền và nghĩa vụ. Tại phiên tịa cơng tố viên và luật sư bào chữa tranh luận một cách dân chủ cả về nội dung và hình thức, Tịa án chỉ đóng vai trị trung gian như một trọng tài để có một phán quyết khách quan, cơng bằng.

- Do mơ hình tố tụng tranh tụng hoạt động theo nguyên tắc đề cao quyền bào chữa của bị cáo, bình đăng giữa cơng tổ viên với luật sư, phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tịa và suy đốn vơ tội nên hạn chế tối đa các trường hợp bị kết án oan.

- Với những đặc trưng cơ ban của mơ hình tố tụng tranh tụng đã giúp nâng cao trình độ pháp luật, nhất là pháp luật TTHS cho những người tiến hành tố tụng và người dân. Kiểu tố tụng tranh tụng dành cho người dân rất nhiều quyền dé tự bảo vệ mình trước các cơ quan tư pháp vi vậy ho đã khơng ngừng tìm hiểu các quy định pháp luật dé thực hiện các quyền đó. Đồng thời nó cũng biểu hiện của một nền văn hóa pháp ly cao thông qua không chỉ ở thái độ tôn trọng luật pháp, cách xử sự có khn phép của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tơ tụng.

Về hạn chế: Mơ hình tố tụng tranh tụng với những ưu điểm đã nêu trên được nhiều quốc gia sử dụng và được dân các nước đó ca ngợi là một mơ hình tố tụng khách quan, dân chủ và vì con người. Nhưng bên cạnh đó nó vẫn có nhiều hạn chế xuất phát từ chính những ưu điểm mà nó có, đó là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

- Với ưu điểm là đề cao nguyên tắc suy đốn vơ tội nên Tịa án chỉ buộc tội bị cáo khi công tố viên đưa ra đủ chứng cứ và lý lẽ thuyết phục, nếu chứng cứ và lý lẽ buộc tội cịn bị nghi ngờ hoặc khơng thuyết phục thì Tịa án sẽ khơng kết tội mặc dù trên thực tế có thể bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Tại phiên tịa bên cơng tố có trách nhiệm buộc tội, bên luật sư có trách nhiệm <small>gỡ tội, cả hai bên chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện trách</small> nhiệm của mình mà thơi, điều này làm cho chứng cứ hay quan điểm riêng của <small>một bên khi đưa ra tại phiên tịa khơng bao giờ phản ánh sự thật của vụ án.</small> Chính vi vậy trong mơ hình tố tụng tranh tụng bộc 16 hạn chế là dé bỏ lọt tội <small>phạm, tội phạm không bị trừng phạt làm ảnh hưởng tới chức năng bảo đảmcơng lý của Tịa án.</small>

- Do phiên tịa ở mơ hình tố tụng tranh tụng mới là bắt đầu giai đoạn điều tra nên thường kéo dài nên làm tốn kém tiền bạc, thời gian của nhà nước và người dân. Mặt khác với chi phí luật sư cao, luật sư giỏi sẽ được nhiều người muốn thuê và gây nên bất công cho người nghèo.

- Xuất phát từ việc nhà nước trao cho người dân quyền tố tụng bình đăng với các cơ quan tư pháp nên vai trò của các cơ quan tư pháp rất mờ nhạt và nó khơng cịn chỗ dựa đáng tin cậy của người dân.

1.3.3. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm một số nước trong

<small>mơ hình TTHS dan xen</small>

Mơ hình TTHS dan xen hay pha trộn là mơ hình có sự dan xen, kết hợp của cả hai cách thức tô chức hoạt động TTHS tranh tụng và thâm vấn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp luật của các quốc gia có xu hướng giảm bớt những yếu tơ đặc thù, “xích lại gần nhau” hơn và trong đó pháp luật TTHS không phải là ngoại lệ. Nghiên cứu các mô hình TTHS cho thấy, đến nay khơng tồn tại mơ hình TTHS thuần túy là thẩm van hay tranh tụng. Trong q trình tồn tại, các mơ hình TTHS đã có sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tiễn bộ, tích cực của nhau dé đáp ứng ngày càng cao yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con người trong TTHS. Nhằm khắc phục những nhược điểm của kiểu tố tụng tranh tụng và kiểu tố tụng thâm vấn, nhiều quốc gia hiện nay đã áp dụng kiểu tố tụng thâm vấn đan xen một số yếu tố tranh

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

tụng mà điển hình như Cộng hoa Pháp, Liên bang Đức va một số nước có mơ hình chuyển đổi như Trung Quốc, Việt Nam, Lao, Cu Ba, Triều Tiên... Theo đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm vẫn thuộc về các CQDT, cơng tố, xét xử, nhưng vai trị của Luật sư được coi trọng hơn trong các giai đoạn tố tụng. Tồ án vẫn có trách nhiệm tìm ra sự thật và coi phiên toà xét xử là giai đoạn điều tra cơng khai mà Thâm phán giữ vai trị chủ đạo. Vị trí của Cơng tố viên khơng hăn chỉ là người giữ vai trị buộc tội mà cịn có trách nhiệm đưa ra những chứng cứ gỡ tội cho bị cáo, do đó Cơng tơ viên khơng chi là một bên "đối tụng, đối kháng" với bị cáo, với người bào chữa. Việc tranh tụng tại phiên toà giữa bên buộc tội và bên gỡ tội như đưa ra chứng cứ, tranh luận, đối đáp về chứng cứ, tội danh và áp dụng pháp luật được diễn ra một cách dân chủ. '” Cộng hòa Pháp bắt đầu sử dụng mơ hình thâm van từ thế ky XIII, nhưng trong quá trình thực hiện đã nhận thấy các yêu điểm của mơ hình tố tụng này khi khơng chú trọng đến quyền con người và nguyên tắc suy đoán vơ tội. Chính vì vậy vào năm 2000, Pháp đã đưa một số nội dung của mơ hình tố tụng tranh tụng vào hệ thong pháp luật nước mình, trong đó vai trị của luật sư được dé cao, bản án hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Nhật bản là một quốc gia với truyền thống thuộc hệ thống pháp luật Civil law nhưng hiện nay nên tư pháp đã có nhiều những hoạt động đặc trưng của hệ tố tụng tranh tụng. Công tố viên và luật sư có quyền ngang nhau, bình đăng trong việc thu <small>thập chứng cứ và trình bày chứng cứ tại phiên tòa. Hoạt động TTHS của</small> Trung quốc từ lâu đã được tơ chức theo mơ hình tố tụng thâm van. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập kiểu tố tụng này đã bộc lộ nhiều hạn chế nên năm 1997 Trung quốc đã sửa đổi BLTTHS có nhiều nội dung mới như: Mở rộng quyền của luật sư, quyền của bị cáo và người bị hại, áp dụng thủ tục tranh tụng <small>tại phiên tòa....</small>

Ở Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về mơ hình TTHS của nước ta đang áp dụng hiện nay. Có quan điểm cho rằng kiêu tố tụng hiện

<small>13 xử BEE i XS Ñ Ä š ai h aK š ix " 3ã</small>

<small>Dương Thanh Biêu, “Luận tội và tranh luận của Kiêm sát viên tại phiên tịa hình sự”,</small>

<small> truy cập ngày 10/6/2017.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nay ở nước ta là kiểu tơ tụng thẩm van cịn yếu tố tranh luận tại phiên tịa khơng mang đặc trưng của tố tụng tranh tụng vì phán quyết của Tịa án khơng dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên. Quan điểm khác cho rằng tuy cũng thừa nhận tố tụng nước ta là tố tụng thâm vấn nhưng đã có những yếu tố của tố tụng tranh tụng. Ngoài ra cịn có các quan điểm cho rằng mơ hình tố tụng của Việt nam là mơ hình tố tụng pha trộn thiên về thâm vấn và đặc biệt có quan điểm thi khang định TTHS Việt Nam khơng có đặc trưng quan trọng của tô tụng tranh tụng cũng như của tố tụng thâm vấn mà nó là kiểu tố tụng riêng biệt, đó là “tố tụng buộc tội”. Từ góc độ học thuật, tại một hội thảo giảng viên Nguyễn Duy Hưng (Giảng viên bộ môn TTHS Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cho rang: “Mơ hình TTHS của nước ta là mơ hình tố tụng pha trộn giữa tố tụng thâm vấn với tố tụng tranh tụng. Đây là mơ hình tố tụng ưu việt nhất trong bốn loại mơ hình tố tụng từ xưa đến nay trên thế giới (tố tung tố cáo, tố tụng thâm van, tố tụng tranh tụng, tố tụng pha trộn giữa thẩm van với tranh tụng), xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ 18, đầu thé kỷ 19 tại Pháp. Nó kết hợp được các ưu điểm của hai mơ hình tố tụng thâm van và tranh tụng ra đời trước đó: nhà nước kiêm sốt được tội phạm nhưng cũng đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của nghi can”. Nhưng tựu trung lại có thé thay đa số đều khang định luật TTHS Việt nam mang đặc trưng của tố tụng thầm vấn, việc BLTTHS quy định một số điều về tranh luận tại phiên tòa dé cho rang mơ hình tố tụng của nước ta có chứa đựng yêu t6 của tố tụng tranh tụng là chưa thuyết phục bởi lẽ các quy định đó cịn quá sơ sài, không rõ ràng và thực tiễn áp dụng cịn rất hình thức. Nhiệm vụ xác định sự thật khách quan, trách nhiệm chứng minh tội phạm được giao cho các cơ quan tiễn hành tố tụng đảm nhiệm. Người bị <small>tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ còn khá thụ động và trong</small> nhiều trường hợp lệ thuộc vào các co quan tiến hành tổ tụng. Điều tra, thâm van là phương pháp chủ yếu được áp dụng ở tat cả các giai đoạn tố tụng, thậm chí tại phiên tịa. Tuy nhiên tơng kết thực tiễn thi hành mơ hình TTHS ở nước ta thời gian qua cho thấy, mơ hình TTHS hiện hành đã phát huy tác dụng tích cực trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

xã hội va từng bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền va lợi ich hợp pháp của công dân. “Dù theo kiểu tố tụng thấm van hay tranh tung thì mục đích cuối cùng của tồn bộ hoạt tố tụng là tìm ra sự thật khách quan, <small>xác định được tội phạm và người phạm tội, bảo vệ cơng lý, bảo vệ lẽ phải. Do</small> đó khơng thể nói vì luật tố tụng hình sự của ta xây dựng theo kiểu tố tụng thâm vấn nên không thể đưa nguyên tắc tranh tụng vào luật tố tụng hình sự.. 4

Qua nghiên cứu về các mơ hình tố tụng với những ưu, nhược điểm nêu trên, cùng với một số nhận xét chung nhất về thực trạng mơ hình TTHS ở Việt

Nam hiện nay, có thể thấy, việc lựa chọn mơ hình TTHS nao trong q trình

thực hiện cải cách tư pháp là một van dé quan trọng, cơ bản và được nhiều người quan tâm. Bên cạnh những hạn ché, tố tụng thâm vấn mà chúng ta đang áp dụng cũng có nhiều ưu điểm, vì vậy khơng thể nơn nóng đột ngột chun han từ mơ hình t6 tụng này sang mơ hình tổ tụng khác. Điều quan trọng chúng ta cần tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý nước ta từ mơ hình tố tụng tranh tụng và khắc phục những hạn <small>chê vơn có của mơ hình tơ tụng hiện tại.</small>

<small>“V6 Thị Kim Oanh (2006), Nguyên tắc tranh tụng, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thâm vụ án hình</small>

<small>sự, Tap chí Kiém sát ( sơ 17), tr.37</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<small>CHƯƠNG 2.</small>

QUY ĐỊNH CUA BỘ LUAT TO TUNG HÌNH SỰ NAM 2003 VÀ BỘ LUAT TO TUNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VE THỦ TỤC XÉT HOI

TẠI PHIÊN TOA HÌNH SỰ SƠ THẤM

2.1. Quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

2.1.1. Quy định của BLTTHS năm 2003 về một số nguyên tắc cơ bản điều chỉnh việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

Hoạt động TTHS cũng có những nguyên tắc của nó. Trong khoa học luật TTHS, nguyên tắc của luật TTHS được hiéu là “những phương châm định hướng, chi phối toàn bộ hay một số hoạt động TTHS và được các văn bản pháp luật TTHS ghi nhan.”!> Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự cũng phải chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm việc xét hỏi đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có sức thuyết phục với tất cả những người quan tâm theo dõi việc giải quyết vụ án từ đó phát huy ý nghĩa giáo dục, ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thầm chịu sự điều chỉnh của nhiều nguyên tắc cơ bản, có thê nêu một số nguyên tắc

- Nguyên tắc không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9

Ngun tắc suy đốn vơ tội hình thành rất sớm trên bình diện pháp luật thế giới. Tại Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 quy định: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội”. Nguyên tắc được ghi nhận cụ thé tại Điều 11 Tuyên ngôn chung về quyền con người được Liên hiệp quốc thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1948 với nội dung như sau: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vơ tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử

<small>18 Hoang Thị Son, Bui Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tổ tụng hình sự Việt Nam,Nxb</small>

<small>Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

công khai với moi đảm bảo biện hộ can thiét...”'° Điều 9 BLTTHS quy định “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt. Nhưng Hiến pháp năm 2013 đã nhân mạnh và chỉ rõ ở khoản 1 Điều 31 “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”, một người bị kết tội phải có hai điều kiện: một là, phải tuân theo một trình tự luật định và hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh điều tra hành vi phạm tội của người <small>đó theo trình tự luật định và phải nhanh chóng đưa ra Tòa án xét xử đúng thời</small> hạn, việc tuyên án phải được công khai ké cả trong những trường hợp xét xử kín. Việc ghi nhận ngun tắc suy đốn vô tội nhằm khắc phục sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiễn hành t6 tụng đối với người bi tình nghi, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời còn tạo điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.

Ngun tắc khơng ai bị coi là có tội chứa đựng nội dung cơ bản sau: - Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội có hiệu lực của Tịa án.

- Việc chứng minh đó phải được tiễn hành theo một trình tự, thủ tục do <small>BLTTHS qui định.</small>

- Những nghi ngờ hoặc tranh cãi về pháp luật và chứng cứ được giải <small>thích theo hướng có lợi cho người bi buộc tội.</small>

<small>'® Các văn kiện quốc tế về quyền con người (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 64-65.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Áp dụng nguyên tắc này trong việc xét hỏi đòi hỏi người tiễn hành tố tụng tại phiên tịa hình sự sơ thầm khơng được có săn định kiến là tìm cách buộc tội cho bị cáo bằng được. Bởi vì, khi đã có định kiến thì sẽ dẫn đến việc đánh giá chứng cứ một cách phiến diện, một chiều hậu quả dẫn đến kết quả phiên tịa khơng đảm bảo tính dân chủ. Khi xét hỏi nếu bị cáo không trả lời thì chủ thé xét hỏi những người tham gia tố tụng khác dé làm rõ chứng cứ, vi bị cáo có quyền khơng tra lời câu hỏi của HDXX, KSV và những người tham gia tố tụng khác.

- Nguyên tắc xác định sự thật của vu án (Điều 10 BLTTHS)

Theo quy định của Điều 10 BLTTHS thì nguyên tắc này bao gồm hai nội dung co bản. Nội dung đầu tiên khang định việc các cơ quan tiễn hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp dé xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nội dung thứ hai xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bi can, bi cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội. Ngun tắc này địi hỏi trong q trình xét hỏi tại phiên tịa những người tiễn hành xét hỏi khơng được thiên vi, tình cảm cá nhân, phải đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kĩ mọi tình tiết dé giải quyết đúng đắn vụ án. Dé thực hiện tốt nguyên tắc này HDXX, KSV phải có tư duy pháp lý, nắm chắc kiến thức pháp luật, có sự chuẩn bị tốt cho phiên tịa, cần thiết có sự chuẩn bị đề cương xét hỏi và có sự chủ động xử lý tình huống phát sinh khi xét hỏi. Bên cạnh nội dung xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Luật TTHS không qui định bị cáo buộc phải chứng minh mình vơ tội. Muốn xác minh bị cáo có tội hay khơng thì HDXX phải tiến hành xét hỏi để kiểm chứng lại những chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tô trước đó, “trong q trình điều tra, truy t6 và xét xử, việc xác định sự thật khách quan của vụ án khơng chỉ là mục đích của hoạt động tố tụng mà nó cịn thê hiện tồn bộ nội dung bản chất của quá trình chứng minh

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>i 17</small>

<small>tội phạm” . Những phán xét sau cùng phải dựa trên cơ sở những chứng cứ thu</small> được trong q trình xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thâm nhằm kết hop với những chứng cứ khác. Phải thực hiện tốt những địi hỏi trên thì vấn đề xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như quá trình xét hỏi mới được tiễn hành một cách công tâm và vô tư được. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án cần được hiểu như một yêu cầu, đòi hỏi HĐXX, KSV phải sử dụng hết mọi nỗ lực trong quá trình xác định các tình tiết của vụ án, có thái độ làm việc, khách quan, tồn diện trong việc tìm kiếm và đánh giá chứng cứ.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo (Điều II

“Quyên bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”, nguyên tắc này được quy định tại Điều 103 Hiến pháp 2013 và tại Điều 11 BLTTHS “Người bị tạm giữ, bị can, bi cáo có quyền <small>bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Bộ luật TTHS còn quy định trách</small> nhiệm của các cơ quan tiễn hành tố tụng trong việc bao đảm cho bị can, bi cáo thực hiện được quyền này. Tại phiên tòa, bào chữa là tất cả các hoạt động của bị cáo và người bào chữa từ khi bị buộc tội đến khi có bản án, quyết định có <small>hiệu lực pháp luật của Tịa án khơng bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua</small> hành vi cụ thé, họ sử dụng các quyền luật định dé làm sáng tỏ những tình tiết <small>chứng minh cho sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như</small> những tình tiết khác có lợi cho người bị cáo. Đó có thé là hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng; hoặc nhằm đưa ra chứng cứ nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo; hoặc các hành vi tố tụng nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bi cáo ké cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm

<small>giảm trách nhiệm hình sự trong vụ an.</small>

Việc áp dụng nguyên tắc này trong q trình xét hỏi tại phiên tịa hình sự có ý nghĩa quan trọng, giúp Tịa án có một quyết định chính xác về cách

<small>1 Dinh Văn Quế (2001), Thu tuc xét xử sơ tham trong Luật to tung hình sự Việt Nam, Nxb Chính tri quốc gia,</small>

<small>Hà Nội, tr.17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

thức xử lý vụ án. Bị cáo, người bào chữa có quyền đưa ra chứng cứ và các u cầu, có quyền trình bày lời bào chữa, đáp lại ý kiến của người khác và nói lời sau cùng. Các chứng cứ cũng như những yêu cầu của họ đều phải được xem xét công khai nhằm xác định giá trị chứng minh của chúng. Việc chấp nhận hay khơng chấp nhận các chứng cứ đó đều phải thé hiện trong biên bản nghị án. Tránh tình trạng “luật sư nói thế nào cứ nói cịn Tịa án chăng cần đếm xỉa đến lời bào chữa của luật sư, coi luật sư như món đồ trang sức cho phiên tịa, thậm chí khơng tạo điều kiện cho luật sư thực hiện nhiệm vụ của họ””Ÿ, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo được coi là tập trung nhất, thé hiện rõ nét nhất là ở giai đoạn xét xử VAHS, đặc biệt trong quá trình xét hỏi và tranh luận. Nếu trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 của BLTTHS mà người bào chữa vắng mặt, thì HĐXX phải hỗn phiên tịa theo quy định tại Điều 190 BLTTHS. Người bào chữa được bình dang với đại diện của VKS trong việc đưa ra những chứng cứ và tranh luận tại phiên tòa. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong q trình xét hỏi tại phiên tịa hình sự, chính là bảo đảm cho HDXX có thể ra được một quyết định khách quan, chính xác. Quyền bào chữa “có ý nghĩa quan trọng không chỉ dé bảo vệ lợi ich của bi can, bị cáo mà còn dé nâng cao uy tín của việc xét xử, dé tạo sự tin tưởng đối với việc xét xử của Tòa an””

- Ngun tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án (Điều 19

Dé vu án được giải quyết một cách khách quan, tồn diện và day đủ thì bên buộc tội và bên gỡ tội và những người khác có quyên và lợi ích liên quan đến vụ án đều phải được bình dang trước tịa án, Điều 19 BLTTHS quy định: <small>“KSV, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân</small> sự, người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp <small>của họ, người bảo vệ quyên lợi của đương sự đêu có qun bình đăng trong</small>

<small>'3 Định Văn Qué (2001), Thủ tuc xét xử sơ thẩm trong Luật to tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,</small>

<small>Hà Nội, tr. 22.</small>

<small>' Nguyễn Văn Tuân (2001), Vai trị của luật sư trong tơ tụng hình sự, Nxb Dai học quốc gia, Hà Nội, tr.15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

việc đưa ra chứng cứ, tai liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tịa án. Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhăm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”. Nguyên tắc này là sự thể hiện cụ thể nội dung nguyên tắc: mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật trong TTHS. Nội dung của nguyên tắc là xác định sự bình dang giữa các chủ thé thuộc bên buộc tội và gỡ tội trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu trong <small>quá trình xét hỏi tại phiên tịa hình sự.</small>

BLTTHS Liên bang Nga cũng qui định quyền bình đẳng giữa các bên được qui định rõ ràng tại phiên toà bên buộc tội và bên bào chữa bình đăng về quyền đưa ra đề nghị thay đối người tham gia tố tụng và đưa ra các yêu cầu, đưa ra chứng cứ, tham gia vào việc xem xét chứng cứ, phát biéu khi tranh luận tại phiên toà ( Điều 244 BLTTHS Liên bang Nga) và Chủ toạ phiên tồ có trách nhiệm điều khiến phiên tồ và áp dụng tat cả những biện pháp do Bộ luật này quy định để đảm bảo sự tranh tụng và bình đăng của các bên. Bên buộc tội đưa ra các chứng cứ trước dé xem xét, sau đó bên bào chữa đưa ra chứng cứ. Nếu trong vụ án có nhiều bị cáo thì trình tự đưa ra chứng cứ của các bị cáo do chủ toạ phiên toà quyết định trên cơ sở ý kiến của các bên (Điều 274 BLTTHS Liên bang Nga).””

Trong qua quá xét hỏi tại phiên tịa Tịa án phải tơn trọng quyền của <small>những người đưa ra chứng cứ không phân biệt họ là ai, KSV hay luật su; bị</small> cáo hay là người bị hại, người có quyên lợi nghĩa vụ liên quan. Tuyệt đối tạo điều kiện về thời gian cho bị cáo và người bào chữa trong việc trình bày trước Tịa án về mọi tình tiết của vụ án cũng như quan điểm, bảo vệ quyền lợi của <small>mình. Các chứng cứ và lý lẽ do họ trình bày phải được HDXX xem xét và trên</small> cơ sở đó có những quyết định cơng minh sáng suốt. Thơng qua nguyên tắc <small>này, Tòa án phải xác định vi trí của mình là “người trọng tai cơng minh giữa</small> bên buộc tội (KSV duy trì cơng tố trước Tịa án) và bên gỡ tội (bị cáo và

<small>© VKSNDTC (2006), Bo luật to tung hình sự Liên bang Nga sửa đổi theo luật liên bang số 58/LLB ngày</small>

<small>29/5/2002), bản dich tiêng Việt, tr. 147</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

”“! thì mới có được thái độ khách quan trong việc tiếp <small>người bào chữa của họ)</small>

nhận các chứng cứ do các bên trình bay dé từ đó có cách đánh giá tồn diện, đầy đủ và đưa ra kết luận về vụ án phù hợp với thực tế khách quan.

2.1.2. Quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong

<small>BLTTHS năm 2003.</small>

<small>Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và</small> cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật của vụ án. Trong giai <small>đoạn này, HĐXX, KSV và những người khác theo quy định của BLTTHS</small> phải kiểm tra các chứng cứ, tài liệu của vụ án một cách công khai bằng cách trực tiếp xét hỏi bi cáo, người bi hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; tiễn hành các công việc khác như nghe nhận xét, kết luận của người giám định, xem xét vật chứng, công bồ lời khai, xem xét tại chỗ... nhằm “tái hiện, củng cô và khang định những tinh tiết, sự kiện của vụ án một cách đầy đủ và toàn diện nhất. Trên cơ sở đó hình thành những thơng tin chính xác giúp cho việc tranh luận, nghị án và tuyên án được tốt”<small>Những hoạt động này</small> được tiễn hành theo một trình tự nhất định, đó là thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định trong Chương XX, BLTTHS từ Điều 206 đến Điều 216. Như vậy, có thé hiểu thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là trình tự tiến

<small>hành xét hỏi và những cơng việc khác tại phiên tịa theo quy định của</small>

BLTTHS nhằm kiểm tra chứng cứ của vụ án một cách cơng khai tại phiên tịa. Qua đó có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho quá <small>trình tranh luận, nghi án và tuyên án.</small>

2.1.2.1. Quy định về xét hỏi

- Quy định về phạm vi, thứ tự, nội dung xét hỏi tại phiên tòa

Dé việc xét hỏi đạt kết quả, Điều 207 BLTTHS quy định: “HĐXX phải <small>xác định đây đủ các tình tiêt vê từng sự việc và vé từng tội của vụ án theo thứ</small>

<small>ˆ' Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2001), Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam, Nxb Chính</small>

<small>trị qc gia, Hà Nội, tr.45</small>

<small>? Đỗ Văn Thinh (2006), Thu tuc xét hoi tai phién toa hinh su so thâm, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại hoc</small>

<small>Luật thành phơ Hồ Chí Minh, tr. 23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

tự xét hỏi hợp lí”. Thứ tự xét hỏi hợp lí khơng phải là thứ tự bat biến, phù hợp với tất cả các vụ án mà là thứ tự được xác định một cách hợp lí trên cơ sở nội dung từng vụ án cụ thể cũng như thái độ khai báo của những người tham gia tố tụng trong vụ án đó. Xác định thứ tự xét hỏi hợp lí thực sự là cơng việc khơng đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, kĩ năng của người xét hỏi. Về nguyên tắc chung, theo tác giả luận văn việc xác định thứ tự xét hỏi phải xuất phát từ nội dung xét hỏi (các van dé cần được làm rõ) trong từng vụ án, từ đặc điểm của những người tham gia tố tụng và phải đảm bảo nguyên tắc <small>xác định sự thật vu an.</small>

Về nội dung xét hỏi, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa cần lập kế hoạch xét hỏi trong đó nêu rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ bao gồm các tình tiết định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt như tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo; các tình tiết liên quan đến việc giải quyết van dé dân sự, xử lí vật chứng, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trên cơ sở những van đề cơ ban đó, tùy từng vụ án cụ thể, thâm phán cần xác định được một cách chính xác những điểm mau chốt cần làm rõ tại phiên tòa sơ thâm. Từ nội dung các vẫn đề cần xét hỏi, thâm phán xác định thứ tự xét hỏi đối với từng van đề một. Cách thức xét hỏi theo van đề như vậy sẽ giúp quá trình xét hỏi được mạch lạc, rõ ràng, tránh sự trùng lặp, hỏi đi hỏi lại về cùng một van dé.

Đối với nội dung tham gia xét hỏi của KSV, Khoản 3 Điều 209, BLTTHS quy định: “KSV hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc <small>buộc tội, gỡ tội bị cáo”. Ngồi ra, trong q trình xét hỏi, KSV cịn tham gia</small> xét hỏi những tình tiết liên quan đến việc giải quyết nội dung khác trong VAHS như vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án... Vì vậy, nội dung xét hỏi của KSV tại phiên tịa là tồn bộ những tình tiết liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và nhưng tình tiết liên quan đến việc giải quyết các nội dung khác trong VAHS. Việc quy định KSV phải làm rõ các tình tiết liên quan đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<small>cả việc buộc tội và gỡ tội cho bị cáo tại phiên tịa là hồn tồn phù hợp vì nó</small> thé hiện bản chất TTHS của nước ta là tố tụng thâm vấn và nguyên tắc xác định sự thật là ngun tắc tối thượng. Bởi vì, VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tổ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không dé lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người khơng có <small>tội. Sự thật vụ án được xác định thông qua việc hỏi bị cáo; người bị hại,</small> nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyên lợi nghĩa vụ liên quan đến <small>vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người làm chứng; người giám</small> định; xem xét vật chứng: xem xét tại chỗ. BLTTHS không quy định cụ thể phải hỏi ai trước, ai sau mà tùy thuộc vào từng vụ án cụ thé, HĐXX tiễn hành xét hỏi theo thứ tự hợp lí. Tuy nhiên, trên thực tế, gần như đã thành thơng lệ, việc xét hỏi tại phiên tịa được bắt đầu từ bị cáo. Đối với vụ án có đồng phạm, HDXX thường chọn bị cáo chính để hỏi trước, bị cáo khác hỏi sau hoặc hỏi bị cáo khai nhận tội rõ ràng trước với hi vọng bị cáo này sẽ cung cấp những tài liệu, chứng cứ quan trọng làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo <small>chính. Thứ tự xét hỏi này không vi phạm quy định của BLTTHS và trên thực</small> tế đã phát huy tác dụng, giúp việc xét hỏi không bị kéo dài mà vẫn làm rõ <small>được nội dung vụ án. Tuy nhiên, ở góc nhìn khác, việc xét hỏi bị cáo trước</small>

(nhất là bị cáo nhận tội) dễ tạo cảm giác không khách quan, khiến người tham

gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa cho rằng mọi việc xét hỏi sau đó chỉ nhằm củng cô lời nhận tội của bị cáo; bản thân HDXX cũng khó tránh khỏi định kiến là bi cáo da có tội và chỉ cần củng cố chứng cứ dé kết tội. Vì lẽ đó, dé tránh việc tạo ra thành kiến là bị cáo đã phạm tội, giúp làm rõ nội dung vụ án một cách khách quan, nên chăng cần đặt câu hỏi cho bị cáo (nhất là bị cáo nhận tdi) sau khi đã hỏi người bi hại, người làm chứng về từng van đề liên quan đến nội dung vụ án trừ trường hợp có lí do đặc biệt phải xét hỏi bị cáo trước như việc cần xác định các điểm mâu thuẫn trong vụ án mà bị cáo phủ <small>nhận việc buộc tội.</small>

Ngoài ra, về mặt kĩ năng, khi lập kế hoạch xét hỏi và tiễn hành xét hỏi <small>dường như những người xét hỏi mới quan tâm đên môi liên hệ giữa bị cáo,</small>

</div>

×