Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.66 MB, 129 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>…………. </b>
<b>NGUYỄN NHÂN TÀI </b>
<b>KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG </b>
<i><b>(PERFORMATIVE ARCHITECHTURE) </b></i>
LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC
TP. HỒ CHÍ MINH - 2015
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HỒ CHÍ MINH </b>
<b>…………. </b>
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
<b>TS.KTSTRƯƠNG THANH HẢI </b>
TP. HỒ CHÍ MINH – 2015
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">1. Lý do chọn đề tài 1 2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
<b>PHẦN 2 PHẦN NỘI DUNG </b>
<b>CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG </b>
1.1.1 Sự biểu đạt - hiệu quả của kiến trúc (Architectural performance) 9 1.1.2 Hiệu ứng (Effects) và hành động (Action) 11 1.1.3 Hệ biến hóa của các yếu tố (The device paradigm) 13
1.2.1 Sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội đương đại 16 1.2.2 Cơ sở triết học và sự ảnh hưởng đến tư duy thiết kế 19 1.2.3 Sự ảnh hưởng của công nghệ và các cơng cụ thiết kế dùng máy tính 22
<b>1.3 Giới thiệu một số chuyên gia nghiên cứu và thiết kế hướng hiệu năng 25 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG </b>
2.1.2 Sự đồng nhất giữa hệ thống bao che và hệ thống kết cấu 30
<i>2.1.3.4 Bảo tàng tại Milwaukee của Santiago Calatrava 37 </i>
<b>2.2 Tiêu chí về sử dụng năng lượng và sự tương tác với môi trường 38 </b>
2.2.2 Khả năng tương tác của hình khối cơng trình với mơi trường 40
2.3.1 Sự thay đổi tư duy trong thiết kế kỹ thuật 45 2.3.2 Thiết kế theo quy cách (prescriptive design) và thiết kế tối ưu hóa
2.3.3 Một số cơng cụ, chương trình ứng dụng cho tính tốn kỹ thuật 48 2.3.3.1 <i>Các chương trình tính tốn kết cấu của Buro Happold 49 </i>
2.3.3.2 <i>Chương trình tính tốn khí - động lực học (CFD – </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.4.2 Phân khu chức năng theo kỹ thuật sinh học 54
3.1.3 Phân tích kỹ thuật – tính tốn hiệu năng 68
3.2.1 Khả năng ứng dụng của Kiến trúc Hiệu năng vào Việt Nam 72
<i>3.2.2 Tinh thần “hướng hiệu năng” trong các cơng trình bằng tre của kiến </i>
<b>PHẦN 3 PHẦN KẾT LUẬN </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>PHẦN 1 </b>
<b>1. Lý do chọn đề tài </b>
<i>Kiến trúc Hậu hiện đại(Post-Modern Architecture)manh nha xuất hiện từ </i>
<i>những năm 1950 và được xem như là một sự kế thừa, tiếp nối củaKiến trúc Hiện </i>
<i>đại(Modern Architecture). Nó đánh dấu sự trở lại của chi tiết trang trí trong kiến </i>
trúc, và tính đa nguyên trong thiết kế hình khối. Kể từ khi nhà sử học kiến trúc
<i>Charles Jencks(1977) chính thức khai tử Kiến trúc Hiện đại trong cuốn sách “The </i>
<i>Language of Post-Modern Architecture” (tạm dịch : Ngôn ngữ của Kiến trúc hậu hiện đại), với thông cáo "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32", thìKiến trúc Hậu hiện đại đã được công nhận </i>
như một trào lưu trên toàn thế giới và tồn tại cho đến ngày nay. Trong hơn nửa thế kỷ dẫn dắt nền kiến trúc thế giới,Kiến trúc Hậu hiện đại đã để lại rất nhiều những thành tựu quan trọng và sản sinh ra những con người, những kiến trúc sư vô cùng tài năng, cũng như những cơng trình mang tính biểu tượng cao.
Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội hiện nay,Kiến trúc Hậu hiện đại đang dần mất đi sự hào nhống vốn có của mình. Giờ đây chúng ta khơng chỉ quan tâm đến tính tượng trưng, sự phô trương hay vẻ đẹp thẩm mỹ đơn thuần của một cơng trình,
<i>mà cịn quan tâm đến tính hiệu quả, khả năng hoạt động hay “cách ứng xử”, phản </i>
ứng của cơng trình đó với mơi trường bên ngoài. Bởi lẽ, những vấn đề khủng hoảng kinh tế, sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên cũng như các vấn đề về môi trường cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ máy tính là những đề tài vơ cùng nóng bỏng, rất được quan tâm.Và lẽ dĩ nhiên kiến trúc đương đại không thể nào đứng ngồi cuộc. Nó cần một sự thay đổikhi thập kỷ mới của chúng ta đang bắt đầu với nền kinh tế thế giới trong tình trạng hỗn loạn và con người cần cân nhắc lại những điều mà họ ưu tiên.
Cuộc cách mạng kiến trúc đương đại đang cần những tư duy, lý luận mới để có thể đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết của xã hội.Chúng ta cần tìm ra một cách tiếp cận thức thời hơn trong nghệ thuật thiết kế, mà tiêu chí cao nhất của nó là
<i>khai thác tối đa “tính hiệu quả” của cơng trình ở tất cả các mặt: từ hình khối đến </i>
cơng năng sử dụng;từ kỹ thuật thuần túy như vật liệu, kết cấu, điện lạnh đến bối
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">2
cảnh môi trường, văn hoá, kinh tế, xã hội. Ngày nay với sự giúp sức đắc lực của công nghệ máy tính và cơng nghệ kỹ thuật số, chúng ta khơng khó để tạo ra được những cơng trình thơng minh, những thiết kế tương thích với mơi trườngđồng thời giảm được lượng vật liệu sử dụng,tiết kiệm năng lượng tiêu thụ,giảm lãng phí đến
<i><b>mức tối đa nhưng vẫn hịa hợp với cảnh quan mơi trường.VàKiến trúc Hiệu năng </b></i>
<i><b>(Performative Architecture) là một trong những xu hướng kiến trúc đương đại thỏa </b></i>
mãn được những tiêu chí trên. Với sự khác biệt về tư duy và sự tiến bộ về mặt phương pháp,Kiến trúc Hiệu năngrõ ràng không thể bị xem như một xu hướng hiện đại nhất thời trong nền văn hoá kiến trúc hay một dạng thời trang theo trào lưu, mà cần phải xem xét bản chất của nó trong một tầm nhìn bao quát hơn, gắn liền với sự cách mạng trong thiết kế kiến trúc hiện đại.
Hiện nay trên thế giới tinh thần Kiến trúc Hiệu năngđang dần được giới thiệu với công chúng qua các cuộc hội thảo, tham luận, các báo cáo khoa học cũng như các cơng trình từ lý thuyết đến thực tiễn của giới chun mơn. Chúng ta có thể kể đến các kiến trúc sư như David Leatherbarrow, Branko Kolarevic, Michael U. Hensel, Thomas Herzog,Matsys, Toyo Ito, các nhóm thiết kế OMA, LAVA, OCEAN, Material Ecologyhay các kỹ sư kết cấu- những con người đã từng nhọc cơng tính tốn theo sau các kiến trúc sư, giờ đây đã có thể tham gia vào quá trình thiết kế ngay từ đầu như Godfried Augenbroe, Harald Kloft, Jean-Franỗois Blassel, Mahadev Raman, Cecil Balmond, Hanif Kara, Mutsuro Sasaki.
Tuy nhiên mọi thứ vẫn còn quá mới mẻ, Kiến trúc Hiệu năngvẫn chưa được định nghĩa một cách thật sự rõ ràng do các nghiên cứu cịn ít và mang tính độc lập, riêng lẻ mặc dù những biểu hiện của nó ngày càng sắc nét. Ở Việt Nam khái niệm Kiến trúc Hiệu nănggần như vẫn chưa được biết đến, vì vậy việc nghiên cứu xu hướng kiến trúc này sẽ giới thiệu cho giới chuyên môn trong nước một cách tiếp cận kiến trúc rất mới, rất hay và rất thời đại. Đây cũng chính là mục tiêu lớn nhất mà học viên muốn đạt được thông qua bài luận văn này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu liên quan </b>
Ở Việt Nam Kiến trúc Hiệu năngvẫn chưa được nghiên cứu một cách chính thức mà chỉ có những cơng trình khoa học với đề cập ở một số khía cạnh nhỏ,
<i>những lĩnh vực có liên quan như cuốn “Kiến trúc tham số”, (2012) của Tô Bảo </i>
Thanh. Đây là một nghiên cứu rất có giá trị về thiết kế thuật toán cũng như thiết kế tham số, một công cụ rất quan trọng trong quá trình thiết kế hình khối và kết cấu
<i>cho các cơng trìnhhướngKiến trúc Hiệu năng. Hay như cuốn “Nghiên cứu ứng dụng </i>
<i>phương pháp tính tốn động lực học chất lưu (Computational Fluid Dynamics – CFD) trong các bài toán kỹ thuật ”,(2012) của Nguyễn Trọng Tấn nghiên cứu về </i>
các chương trình tính tốn kỹ thuật hạ tầng của khí - động học của cơng trình một
<i><b>cách tối ưu. Tuy nhiên thuật ngữ “Kiến trúc Hiệu năng” vẫn chưa từng được nhắc </b></i>
đến trong các nghiên cứu trên nói riêng, cũng như các nghiên cứu có liên quan nói chung.
Còn trên thế giới,Kiến trúc Hiệu nănghiện nay vẫn đang là một chủ đề được bàn tán vô cùng sôi nổi bởi đặc điểm đáp ứng được những vấn đề cấp thiết của xã
<i>hội. Điển hình là buổi hội nghị chuyên đề “Performative Architecture” được tổ chức </i>
tại Đại học Pennsylvania trong tháng 10 năm 2003. Sự kiện đó đã tập hợp những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng cũng như các ngành nghề có liên quan khác như: các kiến trúc sư, các kỹ sư, các nhà lý thuyết, kỹ thuật viên, các chuyện gia xã hội học, sinh học v.v…,với mục đích bàn luận, cung cấp thơng tin và quan điểm về Kiến trúc Hiệu năng. Và trên tinh thần của buổi hội nghị đó, một chuyên gia nghiên cứu về đề tài này là kiến trúc sư Branko Kolarevic<sup>1</sup> đã biên soạn,
<i>tổng hợp và cho ra đời quyển “Performative Architecture: Beyond Instrumentality” (tạm dịch: “Kiến trúc Hiệu năng-vượt lên trên tính cơng cụ”), (2005), đây là một </i>
giáo trình rất quý giá và quan trọng dành cho giới nghiên cứu bởi nó đề cập một cách đầy đủ nhất những khía cạnh của Kiến trúc Hiệu năng từ lý thuyết đến thực tiễn.
Một cuốn sách rất mới không kém phần quan trọng trong khía cạnh lý luận về đề tài này đó là “Performance-Oriented Architecture: Rethinking Architectural
<i>Design and the Built Environment” (tạm dịch : “Kiến trúc hướng hiệu năng : tái tư </i>
<small>Branko Kolarevic: Xem mục 1.3.1 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">4
<i>duy về thiết kế kiến trúc và môi trường xây dựng”), (2013) của Michael Hensel</i><sup>2</sup> với tham vọng thay đổi những quan niệm thiết kế cũ bằng một tư duy mới hướng về hiệu năng của công trình. Qua đó vận dụng tư duy này để giải quyết các vấn đề của kiến trúc về bối cảnh mơi trường xây dựng, về quy trình thiết kế, về kiến trúc bền vững, về tổ chức không gian và nhiều khía cạnh khác.
Về khía cạnh ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật số, Branko Kolarevic
<i>cũng có nhiều nghiên cứu liên quan như cuốn “Architecture in the Digital Age: </i>
<i>Design and Manufacturing” (Tạm dịch : “Kiến trúc trong thời đại kỹ thuật số: Thiết kế và xây dựng”), (2005) cuốn sách đề cập đến thực tiễn kiến trúc hiện đại, </i>
trong đó cơng nghệ kỹ thuật số đang thay đổi nhanh chóng cách hình thành ý tưởng, thiết kế và xây dựng các cơng trình. Nó cịn đưa ra một tập hợp các ý tưởng đa dạng như điều gì thích đáng hiện nay và điều gì thích đáng với ngày mai nhằmlàm nổi bật lên các ứng dụng liên quan đến kiến trúc của thời đại kỹ thuật số.
<i>Trong một nghiên cứu khác “Computational Architecture: Digital Designing </i>
<i>Tools and Manufacturing Techniques” (Tạm dịch: “Kiến trúc máy tính: Những cơng cụ thiết kế số và công nghệ sản xuất”), (2012) của Asterios Agkathidis</i><sup>3</sup> cung cấp một cái nhìn tổng quan về các công cụ số và kỹ thuật số đã được sử dụng một cách có hệ thống để khám phá khơng gian, kết cấu và điều kiện hình học, từ đó trừu tượng hố khơng gian.
Về khía cạnh nghiên cứu sâu về vật liệu ta có cơng trình nghiên cứu của Rashida Ng, Sneha Patel<sup>4</sup><i>“Performative Materials in Architecture and Design” </i>
<i>(Tạm dịch: tính hiệu quả của vật liệu trong kiến trúc và thiết kế), (2013). Sách nói </i>
đến sự hội tụ của nhiều tiến bộ cơ bản và quan trọng trong cách thức mà vật liệu và môi trường được thiết kế, đánh giá và sử dụng trong kiến trúc và các ngành liên quan. Sự nổi lên của các loại vật liệu mới, hệ thống xử lý tương tác, cùng những
<small>Michael Hensel:Xem mục 1.3.1 </small>
<small>Asterios Agkathidis: từng là giảng viên tại Đại học công nghệ Darmstadt, giảng viên hiện tại của Raffles Education Corporation Trung Quốc. </small>
<small>Rashida Ng và Sneha Patel: là trợ lý giáo sư kiến trúc tại trường nghệ thuật Tyler của Đại học Temple. Họ cùng nhau sáng lập ra SEAMLab, một viện chính sách phi lợi nhuận chuyên nghiên cứu và phổ biến những kiến thức nền tảng thiết kế tập trung vào vật liệu. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">cơng nghệ chế tạo và thiết kế số hố đã kích thích sự phát triển của vật liệu, tổ hợp lắp ráp và các hệ thống đi kèm với đặc tính hiệu quả. Sách cho thấy một cách tổng quan về các dự án thiết kế tiêu biểu và những lý luận liên quan, giải thích sự tương tác của những công nghệ này và vai trò của vật liệu trọng yếu trong nghiên cứu, thiết kế và ứng dụng thực tiễn.
Về khía cạnh mơi trường bài viết trong cuốn kỷ yếu của hội nghị quốc tế lần
<i>thứ 13 về Computer Aided Design nghiên cứu ở châu Á “Performative </i>
<i>architecture: new semantic for new shapes?” (tạm dịch : “Kiến trúc Hiệu năng: ngôn ngữ mới cho hình thức?”), (2008, tr.300-308) của G.Pellitteri, S.Concialdi và </i>
<i>R.Lattuca cho rằng : “Sự ảnh hưởng của môi trường được thể hiện bằng các tác </i>
<i>động hữu hình như lực hấp dẫn hay điều kiện thời tiết và các tác động vơ hình như các giá trị văn hóa, di sản. Do đó hình thức của cơng trình hồn tồn liên quan đến ảnh hưởng của môi trường và phải đạt được các mục tiêu cụ thể.” </i>
Cho đến thời điểm hiện tại,Kiến trúc Hiệu năngtuy vẫn cịn non trẻ, và chưa có một khái niệm thật cụ thể, thế nhưng loại hình nàyvẫn đang đượccác chuyên gia không chỉ trong lĩnh vực kiến trúc mà còn ở các lĩnh vực liên ngành khác trên thế giới quan tâm, nghiên cứu rất nhiều với các cuộc hội thảo chuyên đề hàng năm, qua các bài báo, các tham luận trên các tạp chí kiến trúc, khoa học uy tín. Điều đó chứng tỏ rằng đề tài này hiện đang là một vấn đề nóng bỏng về mặt lý luận lẫn thực hành kiến trúc.
Tuy nhiên ở Việt Nam, Kiến trúc Hiệu năngvẫn còn quá mới và chưa có một cơng trình nghiên cứu nào chính thức đề cập đến, chính vì vậy đây vừa là sự khó khăn, thách thức cũng vừa là một động lực thúc đẩy tác giả thực hiện đề tài luận văn này với mục đích tìm hiểu, nhân định cũng như giới thiệu cho giới hành nghề về một loại hình kiến trúc mới đang được quan tâm trên diễn đàn kiến trúc thế giới.
<b>Mục tiêu nghiên cứu </b>
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những tiêu chí củaKiến trúc Hiệu năngtừ đó giới thiệu và chứng minh đây là bước đi kế tiếp của kiến trúc trong bối cảnh xã hội đương đại. Và để thực hiện điều này bài luận văn có các mục tiêu nhỏ sau đây:
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">6
Tìm hiểu về cơ sở hình thành và phát triển của Kiến trúc Hiệu năng. Tìm hiểu về những tiêu chí, tính ưu việt của Kiến trúc Hiệu năng.
Thông qua các đặc điểm, tiêu chí, tìm hiểu và xây dựng một quy trình thiết kế theo Kiến trúc Hiệu năng.
Nghiên cứu, nhận định sự phát triển và triển vọng của Kiến trúc Hiệu năng Giới thiệu đến cộng đồng Kiến trúc ở Việt Nam về Kiến trúc Hiệu năng, một
cuộc cách mạng trong kiến trúc đương đại, cùng với những tư duy, cách tiếp cận mới của nó.
<b>3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn </b>
Các vấn đề về bối cảnh hình thành, tư tưởng triết học,các đặc điểm, tiêu chí, nguyên tắc chung, cách tiếp cận cơng trình của giới chuyên môn theo tư duy củaKiến trúc Hiệu năng.
Nhận định được sự phát triển của Kiến trúc Hiệu năng trong tương lai cũng như tìm kiếm sự thay đổi về tư duy, quy trình, cách tổ chức thiết kế.
<b>4. Giới hạn và nội dung của đề tài </b>
Do Kiến trúc Hiệu năngliên quan đến nhiều lĩnh vực cũng như có một cách tiếp cận rất rộng vì vậy luận văn bao gồm những nội dung cụ thể trong giới hạn như sau:
Tìm hiểu về bối cảnh hình thành và sự phát triển của Kiến trúc Hiệu năng. Các cơ sở triết học của Kiến trúc Hiệu năngqua tư duy của các nhà triết gia. Sự ảnh hưởng của khoa học và công nghệ tới Kiến trúc Hiệu năng.
Giải thích một số thuật ngữ và các khái niệm cơ bản liên quan đến Kiến trúc Hiệu năng.
Giới thiệu các nguyên tắc, đặc điểm thiết kế và tư duy tiếp cận của Kiến trúc Hiệu năngqua một số tiêu chí chính.
<b> Nhân định triển vọng, về tương lai của Kiến trúc Hiệu năng. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để làm rõ mục tiêu, nội dung và giới hạn của đề tài, bài luận văn bao gồm các phương pháp nghiên cứu như sau:
<b> Phương pháp lịch sử : dùng để nghiên cứu bối cảnh, quá trình hình thành </b>
và phát triển của Kiến trúc Hiệu năng
<b> Phương pháp sưu tầm : tập trung vào các cơng trình nghiên cứu của các </b>
chuyên gia, thông tin về các cơng trình tiêu biểu của Kiến trúc Hiệu năng
<b> Phương pháp chuyên gia : thông qua e-mail tham khảo và phỏng vấn ý </b>
<i><b>kiến của Neil Leach, người đặt nền móng cho những luận điểm của Chủ </b></i>
<i>nghĩa Vật chất mới (New Materialism) trong kiến trúc, một tư tưởng rất </i>
quan trọng liên quan đến Kiến trúc Hiệu năng
<b> Phương pháp hệ thống hóa và thống kê : Kiến trúc Hiệu năng tuy mới </b>
hình thành nhưng các cơng trình nghiên cứu về nó cũng như các vấn đề liên quan rất phong phú và đa dạng nên phương pháp này giúp phân loại các tài liệu một cách có hệ thống, đảm bảo cho luận văn có tính chặt chẽ thống nhất
<b>và khoa học </b>
<b> Phương pháp phân tích – tổng hợp : phân tích các tài liệu được sưu tầm, </b>
thống kê để hình thành nên các luận cứ, luận chứng nhằm làm sáng tỏ nội
<b>dung của đề tài </b>
<b> Phương pháp so sánh : thông qua sự so sánh Kiến trúc Hiệu năng với các trào lưu khác để có những đánh giá, nhận định sâu sắc và rõ ràng hơn </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>PHẦN 2 </b>
<b>CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HIỆU NĂNGTRONG KIẾN </b>
<b>TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI </b>
<b>1.1. Giải thích các khái niệm liên quan đếnKiến trúc Hiệu năng </b>
Kiến trúc Hiệu năng là một khái niệm mới về kiến trúc trong bối cảnh kiến trúc đương đại. Là một sự thay đổi về định hướng nhìn nhận kiến trúc từ lý thuyết sang thực tế, từ cái mà kiến trúc được định nghĩa sang cái kiến trúc thực sự thể hiện. Thơng thường để tìm hiểu, phân tích một cơng trình kiến trúc ta có hai cách: một là xem nó như là một vật thể ra đời từ quá trình thiết kế xây dựng để suy xét về mặt kỹ thuật, định lượng; hai là xem nó như một vật thể là đại diện cho các hoạt động sáng tạo và ý tưởng của con người để xem xét về mặt thẩm mỹ, định tính. Mặc dù những cách đánh giá này sẽ giúp trình bày rõ ràng nguồn gốc, mục đích xây dựng cũng như giá trị của một cơng trình kiến trúc, nhưng việc q tập trung vào kỹ thuật và vẻ đẹp thẩm mỹ của một cơng trình sẽ khiến nhìn nhận về kiến trúc của chúng ta bị hạn chế. Nhiều phương diện quan trọng của một cơng trình sẽ được nhìn nhận rõ nét hơn khi chúng ta tập trungtheo hướng vào những cái mà nó diễn tả, hay đúng hơn là khả năng biểu đạt của nó.
NhưDavid Leatherbarrow<sup>5</sup><i> đã từng viết về vấn đề này như sau: “giờ đây </i>
<i>chúng ta sẽ tìm hiểu tiền đề về lý luận cũng như cách phân tích cơng trình kiến trúc theo một nhận định mới. Rủi ro của cách nhận định này chính là nó vượt ra ngồi cách phân tích chuẩn mực của lý trí. Vì sẽ có nhiều cách biểu đạt của kiến trúc dựa vào những điều kiện mà có vẻ như chẳng thể suy nghĩ một cách lý trí được. Nhưng nó khơng có nghĩa là chúng ta khơng thể hiểu được, chỉ là chúng ta phải hiểu chúng theo một cách hoàn toàn khác”.[11, tr.7] </i>
Như vậy, để hiểu rõ hơn về Kiến trúc Hiệu năng, chúng ta cần phải tạm thời bỏ qua các nhận định truyền thống mà thay vào đó là nhìn nhận kiến trúc theo một cách mới hơn thông qua các khái niệm sau đây.
<small>5David Leatherbarrow: Xem mục 1.3.1 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">9
<i><b>1.1.1. Sự biểu đạt – hiệu quả của kiến trúc (Architectural performance) </b></i>
<i>Vào cuối thập niên 1950, khái niệm về tínhbiểu đạt – hiệu </i>
<i>quả(performance)</i><sup>6</sup> nổi lên, đặc biệt trong ngơn ngữ học và văn hố nhân loại học
<i>cùng những lĩnh vực nghiên cứu khác. “Khái niệm này đã thay đổi nhận thức văn </i>
<i>hoá, nó quan niệm sự vật trong thế giới quan (dù tĩnh hay động) đều có tương tác với mơi trường xung quanh qua nhiều giai đoạn có liên hệ mật thiết với nhau”. [11, </i>
tr.205]
Trong kiến trúc thuật ngữ “Architectural performance”thật ra không quá mới. Nguồn gốc của loại kiến trúc này xuất hiện từ giữa thế kỷ 20 qua những dự án thiết kế của những người đi tiên phong trong ngành kiến trúc ở thập niên 1960 và
<i>1970 như: “soft cities (thành phố mềm)” của Archigram, các cơng trình phỏng robot </i>
<i>(robotic metaphors) và cảnh quan đô thị phỏng hữu cơ (quasi-organic), tất cảđã vẽ </i>
nên những hình ảnh giả tưởng dựa trên máy móc, thiết bị điện tửtrong nền văn hóa đương thời.
<i>Như vậy trong kiến trúc,chúng ta nên hiểu cụm từ “architectural </i>
<i>performance” như thế nào cho đúng? Là xem công trình “diễn” vai gì, biểu đạt như </i>
thế nào hay phải xem cơng trình như một cỗ máy, một động cơ khổng lồ đang tự
<i>thân hoạt động như trong định nghĩa “nhà là cái máy để ở” của Le Corbusier</i><sup>7</sup>? Điều
<i>thú vị là trong Kiến trúc Hiệu năng cả hai cả hai lớp nghĩa trên đều đúng,một công </i>
<i>trình với sự kết hợp của tính hiệu quả cùng với tính biểu đạt sẽ tạo ra một sản phẩm mới mang tính cách mạng (Lance Hosey<sup>8</sup>, 2010). </i>
Như vậy chúng tacó thể hiểu rằng “Architectural performance” là cách “diễn” của một cơng trình thơng qua hoạt động và trải nghiệm của nó. Như “diễn” vai một trường học, một căn bếp, một văn phòng,… Mặc dù trả lời như vậy cũng
<small>6Theo từ điển Oxford Mỹ từ “Performance” có thể hiểu theo hai nghĩa chính : một là sự trình chiếu, biểu diễn hai là hiệu suất hoạt động của một sự vật </small>
<small>Le Corbusier (6 tháng 10 năm 1887 – 27 tháng 8 năm 1965): là một kiến trúc sư người Thụy Sĩ và Pháp nổi tiếng thế giới. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc hiện đại của thế kỉ 20 </small>
<small>Lance Hosey: Kiến trúc sư, nhà nghiên cứu người Mỹ nổi tiếng với các đầu sách thúc đẩy phát triển bền vững trong thiết kế. Hiện nay ông là Giám đốc Phát triển bền vững với các cơng ty kiến trúc tồn cầu RTKL Associates. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">có nhiều điểm hợp lý, nhưng việc để cuộc đời của một công trình dựa hồn tồn
<i>vào cơng năng thì chỉ có thể được xem là “sự tồn tại nhất thời”</i><sup>9</sup> vì tất cả mọi thứ liên quan tới cơng trình đó đều phụ thuộc vào mong muốn của chúng ta dành cho nó. Nghĩa là cơng trình đó “là cái gì” thì sẽ do con người chúng ta quyết định cho nó thơng qua cơng năng (như để ở thì là nhà, để học thì là trường,…) và quyết định này có thể sẽ thay đổi theo thời gian. Như Aldo Rossi<sup>10</sup> đã nghiên cứuqua thuyết chức năng (functionalism),ông cho rằng công năng của một tịa nhà khơng cố định mà có thể thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời của nó. Có khi một ngơi nhà dân có thể trở thành phịng mạch, một khu chung cư có thể biến thành rạp chiếu phim,… Chính vì vậy, theo AldoRossi, do cơng năng có thể biến đổi liên tục và không cố định nên khơng thể sử dụng nó để định nghĩa một cơng trình. Trong bài nghiên cứu, Aldo đã quyết định chọn định nghĩa cơng trình theo các thể loại (Type) của chúng.[9]
Không thể chối cãi sự thật rằng một công trình được xây dựng là để phục vụ con người- như một nông trại để phục vụ cuộc sống của người nông dân, một trường học là để con người có chỗ học tập,… Hay tương tự như định nghĩa của Aristotle<sup>11</sup> rằng một cơng trình kiến trúc là thứ để thể hiện sinh hoạt và cuộc sống của con người. Như vậy, chúng ta đương nhiên không thể loại bỏ những yếu tố liên quan tới con người và cơng năng, rồi văn hóa, lịch sử,…khi phân tích một cơng
<b>trình. Nhưng liệu có một góc độ nhỏ nào đó, chúng ta có thể phân tích cơng trình </b>
<b>theo hướng hồn tồn khơng dính dáng gì tới việc con người là tác động lớn nhất tới bản chất của nó? Liệu khi chúng ta cắt đi sợi dây kết nối giữa con người </b>
và một cơng trình thì chúng ta sẽ có gì? Có phải chỉ con người chi phối đến cơng trình kiến trúc ?
<small>9</small><i><small>Thuật ngữ "sự tồn tại nhất thời": (borrowed existence) có nguồn gốc từ Jean-LucMarion trong cuốn Excess: </small></i>
<i><small>Studies of Saturated Phenomena” (tạm dịch : các nghiên cứu về hiện tượng bão hòa), (2002). Trong cuốn </small></i>
<small>sách thuật ngữ này xuất hiện nhiều nhất ở chương 2 </small>
<small>Aldo Rossi (03/05/1931 – 04/09/1997) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Ý, ông đạt được sự công nhận quốc tế trong bốn lĩnh vực riêng biệt: lý thuyết, hội họa, kiến trúc và thiết kế sản phẩm </small>
<small>Aristoteles (384 – 322 TCN)là một nhà triết học và bác học và là một trong ba cột trụ của văn minh thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lãnh vực. Ông được xem là người đặt nền móng cho mơn luận lý học. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">11
Đây là câu hỏi rất đáng quan tâm vì thật ra có nhiều trường hợp cơng trình hoặc phòng ốc được xây xong rồi chúng ta mới quyết định nó sẽ là gì (tức là cơng trình tồn tại trước khi con người áp cơng dụng cho nó). Chưa kể, cơng trình cũng sẽ vẫn ln tồn tại ở đó khi đã hồn thành chức năng của người sử dụng (như một gia đình chuyển chỗở thì ngơi nhà vẫn ở đó, chuyển bệnh viện thì bệnh viện có mất đi nhưng tịa cơng trình vẫn sẽ cịn tồn tại …)Nhưng khi chúng ta nhìn một tịa nhà bỏ hoang, chúng ta vẫn sẽ thấy nó vẫn sống mặc dù khơng hề liên quan tới con người và nó hồn tồn khơng mang bất cứ định nghĩa nào mà con người gán ghép hay tự nó định nghĩa chính nó.
<i><b>Như vậy, Theo David Leatherbarrow:“architectural performance là một </b></i>
<i>khái niệm mà sự hoạt động hay sự biểu đạt sẽ là yếu tố chủ chốt để định nghĩa một cơng trình hay nói cách khác là ta sẽ định nghĩa một cơng trình trước khi nó mang những định nghĩa có liên quan tới con người.”[11,tr.8] </i>
<i><b>1.1.2. Hiệu ứng (Effects) và Hoạt động (Action) </b></i>
Như đã nói ở trên thơng thường có hai cách để xem xét một cơng trình: cách thứ nhất là xem một cơng trình như nhữngthành phần được khởi nguồn từ những bản vẽ thiết kế và định hình sau khi được thi cơng. Cách thứ hai là xem một cơng trình thơng qua những góc nhìn, những cảm nhận riêng của con người được khơi gợi bởi những hình thù kiến trúc của nó. Cả hai cách này, một cách xem kiến trúc như kết quả của tư duy về kỹ thuật và cách thứ hai xem kiến trúc là sự tư duy về thẩm mỹ. Xuyên suốt lịch sử, các nhà kiến trúc sư và nghiên cứu đã luôn tranh cãi về hai khía cạnh kỹ thuật và thẩm mỹ này. Một nhóm cho rằng ít có sự liên kết giữa kỹ thuật và thẩm mỹ (những chi tiết đẹp, mang tính thẩm mỹ trong một cơng trình thường khơng mang tính cơng năng cao), một nhóm lại cho rằng yếu tố thẩm mỹ có thể liên kết, giúp bù đắp những thiếu sót của kỹ thuật trong việc thể hiện những chi tiết về văn hóa, lịch sử,…và điều này đã làm nảy sinh ra rất nhiều phong cách kiến trúc mới với các tiêu chí hướng hình thức hay hướng cơng năng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Tuy nhiên đối với Kiến trúc Hiệu năng ta phải nghĩ theo một cách khác, thay
<i>vì tập trung vào các yếu tố trênta tập trung vào cách mà cơng trình đó “vận hành” và những “hiệu quả” mà nó tạo ra[11]. Những cơng trình đứng im gần như là thụ </i>
động, phải chăng chúng cũng có “cử động”, cũng có “biểu cảm” của riêng mình? Tịa nhà và người sử dụng phải chăng chỉ có một mối quan hệ một chiều? Phải chăng một cơng trình chỉ đứng im chờ đợi con người đến và sử dụng, chỉ sống khi chúng ta đặt chân vào nó? Vậy tại sao chúng ta đơi khi lại có cảm giác thân thuộc hay xa lạ, ấm cúng hay lạnh nhạt khi bước vào một cơng trình? Tại sao một cơng trình lại có khi làm ta cảm thấy vui, có khi làm ta thấy vơ cùng tuyệt vọng?Như vậy, ta có thể thấy được rõ rằng cơng trình còn chi phối, tác động ngược lại đến người sử dụng
Một tòa nhà là một sản phẩm mang tính kỹ thuật và thẩm mỹ. Tuy nhiên, với tư duy của Kiến trúc Hiệu nănghai tính chất này được thể hiện qua cách mà nó vận hành, qua những trang thiết bị, qua những bộ phận cấu tạo nên nó. Nói cách khác,
<i><b>“một cơng trình kiến trúc được định nghĩa bởi “hiệu ứng” mà nó tạo ra, bởi “hoạt </b></i>
<i><b>động”</b> hay cách mà nó biểu hiện”[11, tr.11]. Cũng giống như con người, tính cách </i>
được bộc lộ qua cách cư xử, qua cử chỉ, qua cách đưa ra quyết định, cách giải quyết một vấn đề. Điều giúp chúng ta nhận ra bản chất tính cách của một vật chính là qua hành động, chứ khơng phải qua những tính cách bề ngồi mà người ta gán ghép cho nó.
<i>Ngồi ra, “hoạt động” của một công trình sẽ tạo ra những “hiệu ứng” vẫn với mục đích cao nhất làđể phục vụ con người. Tuy nhiên, từ “con người” ở đây </i>
quá rộng vì mỗi người khác nhau lại có một cảm nhận, một mong đợi riêng.Cho nên
<i>chúng ta sẽ nhìn “hoạt động” hay chính xác hơn là “sự biểu đạt” của một cơng </i>
<i><b>trình không phải là “sự biểu đạt”trong kiến trúc mà sự “sự biểu đạt”của kiến trúc. </b></i>
Tức là những hoạt động này không phải là những diễn biến xảy ra bên trong cơng trình mà nó là những hoạt động, những sự biến đổi tự thân của cơng trình đó thông qua các yếu tố đặc biệt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">13
<i><b>1.1.3. Hệ biến hóa của các yếu tố (The device paradigm)<sup>12</sup></b></i>
Sự vận hành của một công trình thường được thể hiện rõ ràng nhất ở những bộ phận mang tính linh hoạt (ví dụ như những tấm màn che, nội thất). Những thứ này đa phần đều được điều chỉnh bằng tay hoặc bằng thiết bị máy móc. Và nhiệm vụ chính của nó chính là để thích nghi và phù hợp với sự thay đổi của rất nhiều thứ, như môi trường bên ngồi hay ý thích của con người. Ví dụ như cơng trình Aurora Place của kiến trúc sư Renzo Piano<sup>13</sup> ở Úc vớivỏ bao che được thiết kế để có thể cử động được (Hình 1.01a),hay có thể kể tới một trong những cơng trình kiến trúc nổi tiếng với những cấu kiện có thể di chuyển được là Maison d’Alsace của kiến trúc sư Pierre Chareau<sup>14</sup>, Casa del Fascio của Giuseppe Terragni<sup>15</sup>, Palace of the Soviets của Le Corbusier (Hình 1.01b, 1.01c, 1.01d),
<i>Những thiết kế theo dạng này thường phải dựa vào “hệ biến hóa của cácyếu </i>
<i>tố”tức là những vị trí mà từng bộ phận trong cơng trình có thể di chuyển, nâng lên </i>
hạ xuống, qua trái qua phải, đóng hay mở …Tuy nhiên, mức độ thông minh của những bộ phận này khơng phải được đo bằng việc nó có thể di chuyển xa hay nhanh tới mức nào mà đo bằng khả năng di chuyển để thích nghi với những tình huống đã được đốn trước hoặc khơng đốn trước được.
<i>Như vậy “hệ biến hóa” này có thể hiểu như là một hệ quy chiếu mà sự biến </i>
đổi của các yếu tố có thể tùy biến trong một phạm vi nhất định để có thể đáp lại với những biến đổi có thể và khơng thể đốn trước được của mơi trường[11].Chính vì thế mà bước đầu tiên trong việc phát triển những công trình theo phong cách Kiến trúc Hiệu năngchính là nghiên cứu và đưa ra các phương án, giải pháp sự tự điều chỉnh của cơng trình. Và hơn hết sự biến hóa này phải thỏa mãn cũng như đáp ứng được những sự thay đổi khơng thể đốn trước được của mơi trường và ta gọi dó là
<i>“tính tương tác” </i>
<small>The device paradigm: Thuật ngữ này cịn có thể được tìm thấy với một cách sử dụng cởi mở hơn trong </small>
<i><small>cuốn “Technology and the Character of Contemporary Life” (tạm dịch : Công nghệ và các đặc điểm của </small></i>
<small>cuộc sống đương đại), (AlbertBorgmann, 1984), đặc biệt trong chương 9 </small>
<small>13Renzo Piano (14/09/1937) kiến trúc sư nổi tiếng người Ý, đoạt giải Pritzker năm 1998 </small>
<small>Pierre Chareau (04/08/1883 – 24/08/1950) Kiến trúc sư, nhà thiết kế người Pháp </small>
<small>15Giuseppe Terragni (18/04/1904 – 19/07/1950) Kiến trúc sư, nhà thiết kế người Ý </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><i><b>1.1.4. Tính bền vững của cơng trình </b></i>
<i>Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA), tính bền vững nghĩa là tạo </i>
<i>ra và duy trì các điều kiện mà con người và thiên nhiên có thể tồn tại trong sự hài hòa, đáp ứng được các nhu cầu về kinh tế, xã hội của hiện tại và các thế hệ tương lai. Trong kiến trúc tính bền vững được hình thành từ những phần giúp cơng trình </i>
giữ sự thăng bằng từ cấu trúcđến năng lượng, tiện nghi cũng như sự vững chắc của các hạng mục,… Trong Kiến trúc Hiệu năng khi nói đến những phần này (như cột, xà, tường, móng nhà, hệ thống mái,..) giờ đây chúng ta sẽ nói đến “hành vi” của nó, mà lần này thì khơng chỉ ở hiên tại, mà cịn phải là tiên liệu, đốn trước những gì mà nó sẽ thể hiện trong tương lai.
Như vậy tính bền vững của cơng trình theo hướng hiệu năngnói theo cách
<i>đơn giản chính là:“làm sao để cho tồn bộ cơng trình tồn tại và hoạt động một cách </i>
<i>hiệu quả nhất trong một giai đoạn lâu dài”[11]. Như công trình Neurosciences của </i>
2 kiến trúc sư Tod Williams và Billie Tsien<sup>16</sup>nó khơng chỉ quan tâm tới những tác động của mơi trường mà cịn cả tác động của con người qua thời gian (Hình 1.02a). Khả năng thích nghi của một cơng trình dần dần có thể xem là một đặc điểm và bản chất của nó.
Như vậy để phát triển tính bền vững của cơng trình, điều quan trọng khơng phải là đi phân tích những dụng cụ hay thiết bị mà là phân tích hệ biến hóa của địa
<b>hình, các yếu tố địa thế học. Và “hệ biến hóa” ở đây khơng chỉ là việc thay đổi vị trí lên xuống, cao thấp như phía trên mà cử động ở đây là việc thay đổi “tình </b>
<b>trạng”.Sự thích nghi của cơng trình sẽ tạo ra sự điều chỉnh về hình dáng. Nó thể </b>
hiện hiệu quả của cơng trình trong việc đáp ứng biến đổi của môi trường.
Việc thực hiện một cơng trình từ trong ra ngồi phụ thuộc rất nhiều thứ như thời gian thi công, môi trường, thời tiết và quan trọng nhất là ý thích của chủ nhà. Chưa kể, một cơng trình là sự lắp ghép của rất nhiều bộ phận và thiết bị khác nhau lại. Thông thường, chúng ta thường chẳng lấy làm lạ khi qua thời gian, nhiều bộ
<small>Tod Williams (1943) và Billie Tsien (1949) : Vợ chồng kiến trúc sư người mỹ, chủ nhiệm khoa kiến trúc của nhiều trường đại học nổi tiếng như Pennsylvania (1998), Michigan (2001 – 2002)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">15
phận của cơng trình bị xuống cấp. Do sự ảnh hưởng của môi trường tới nhiều bộ phận cũng cực kì khác biệt, việc bảo dưỡng từng bộ phận hay tồn bộ căn nhà để ln ở tình trạng tuyệt vời nhất là điều gần như không thể thực hiện. Tuy nhiên, kiến trúc luôn là sự cố gắng để xây dựng một thứ vững chắc và bền vững trong một môi trường liên tục thay đổi và không ổn định.
Điều khó khăn ở đây là, chúng ta dường như khơng thể nào đốn trước được chính xác một cơng trình sẽ phản ứng như thế nào với sự thay đổi khơng thể đốn trước được của mơi trường. Chính vì thế màPeterZumthor<sup>17</sup><i> gọi phần “biểu hiện” này của kiến trúc là “khơng theo kịch bản”[35]. Nói tóm lại, việc xây dựng và phát </i>
triển một công trình chính là tạo cho nó khả năng đối phó lại được những tình huống có thể hoặc khơng thể đốn trước được. Nói cách khác, một cơng trình được xem là cơng trình khơng đạt u cầu khi nó khơng thể thích nghi với môi trường.
Mặc dù môi trường là yếu tố bên ngồi nhưng chúng ta hồn tồn khơng thể bỏ qua nó vì khơng một cơng trình nào có thể tồn tại tách biệt với môi trường. Như kiến trúc sư Jean Nouvel<sup>18</sup> cho rằng bề mặt các kiến trúc của ơng đẹp và độc đáo vì nó khơng chỉ nhờ vào bản vẽ hay kỹ thuật xây dựng mà nhờ vào ánh sáng tự nhiên của mơi trường. Ơng đã tìm ra cách để lợi dụng ánh sáng tự nhiên để tạo ra độ phản chiếu, độ bóng, độ chắn sáng và cả màu sắc cho cơng trình. Kiểu xây dựng này là một sự kết hợp giữa một thứ mà bạn có thể xây dựng và chi phối với một thứ bạn hồn tồn khơng thể tác động được. Giống như cơng trình của bạn phải sẵn sàng làm việc và kết hợp với một thứ không thuộc về nó. (Hình 1.02b)
Khi chúng ta loại bỏ hết những yếu tố về công nghệ cũng như ý đồ thẩm mỹ, thì chúng ta sẽ cảm nhận đượcmối liên kếtrõ ràng nhất giữa cơng trình và mơi trường xung quanh nó. Sự liên kết này không phải do con người tạo ra và rất ít khi
<b>là do thiết kế hay dự định có sẵn. Và chính sự liên kết này là một phần tạo ra “tính </b>
<b>biểu đạt - hiệu quả” của một cơng trình, dù rằng có đơi khi nó không theo đúng </b>
những phác thảo hay dự định, ý đồ có trước của nhà thiết kế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><b>1.2. Nguyên nhân xuất hiện của Kiến trúc Hiệu năng </b>
<i><b>1.2.1. Sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội đương đại </b></i>
Kiến trúc hậu hiện đại sau hơn nửa thế kỷ dẫn dắt nền kiến trúc thế giới, đang mất dần sự hào nhống vốn có của mình, Lucas Gray<sup>19</sup> đã viết trong bài tham
<i>luận trong tạp chí Design Exchange như sau : “Thời đại của những cơng trình to lớn </i>
<i><b>hơn và hào nhoáng hơn đã kết thúc. Trào lưu Blobitecture<sup>20</sup></b>đã đánh mất sự huy hoàng từng có. Trong những năm khủng hoảng gần đây, ảnh hưởng kinh tế đã làm suy yếu tâm lý cho rằng hào nhoáng là cần thiết, thừa mứa dư dả so với nhu cầu là sự lựa chọn tốt nhất. Các tổ chức và cá nhân đang cắt giảm lối sống lại, sự tập trung của họ chuyển dần sang chất lượng hơn là số lượng, sang giá trị đích thực hơn là tổng thể bên ngoài, sang đời thế hơn là tiếng tăm vài phút đầu.” [26, tr.19]. </i>
Như vậy yếu tố đầu tiên của bối cảnh xã hội hiện đại làm ảnh hưởng đến sự
<b>phát triển của kiến trúc đó chính là sự khủng hoảng về kinh tế. Kiến trúc với tính </b>
biểu tượng đã từng được khai thác một cách triệt để, các thành phố, các quốc gia đã từng bỏ ra những khoảng chi phí rất lớn để thuê các kiến trúc sư danh tiếng về thiết kế nhằm tạo nên những công trình có tình biểu tượng cao cho đất nước họ và tin rằng các cơng trình này sẽ tạo được sự chú ý, sẽ được xuất hiện trên các trang bìa của tạp chí cũng như các phương tiện truyền thông nhằm đem về danh tiếng cũng như lợi nhuận. Tuy nhiên nền kinh tế ngày càng suy thoái, cái giá phải trả khơng có điều kiện để thu lại được những thành quả tương xứng, các công trình đó trở thành gánh nặng về tài chính và chịu sự thờ ơ của người dân địa phương. Và những kiến trúc sư danh tiếng ấy với sự táo bạo về ý tưởng, với thù lao được chi trả bởi một nguồn ngân sách hào phóng lại dễ dàng bị trở thành nạn nhân của những lời chỉ
<i>trích “Ví dụ như những cơng trình tạo hình gợi cảm nhưng khơng có mục đích của </i>
<i><b>Zaha Hadid và tạo hình xiên xéo nhiều góc cạnh của Libeskind bỏ qua tầm quan </b></i>
<i>trọng của bối cảnh, môi trường, chức năng và vật chất để đổi lấy hình ảnh gợi cảm </i>
<small> Lucas Gray : Thạc sĩ kiến trúc của đại học University of Oregon, Mỹ. Ông từng tham gia nhiều cuộc thi quốc tế, từng giành được giải thưởng trong cuộc thi thiết kế tại Đức, cộng tác với nhiều công ty khác nhau trong việc thiết kế và cải tạo cơng trình ở Berlin, nhà tư vấn tổ chức các cuộc triển lãm kiến trúc và nghệ thuật. Ông đồng thời là tác giả các bài báo trên nhiều tạp chí, website về thiết kế </small>
<small>Blobitecture : kiến trúc phỏng tế bào, loại hình kiến trúc có kết cấu tự do như hình dạng giọt nước </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">17
<i><b>và tính biểu tượng táo bạo. Ngay tạo hình các cơng trình của Gehry vẫn thiếu sự </b></i>
<i>quan tâm đến bối cảnh, có tính hài hước trẻ con. Những nhân vật nổi tiếng ấy chỉ là một vài tiêu biểu trong số nhiều những mục tiêu dễ dàng cho những lời chỉ trích về những thiết kế khoa trương mang tính cá nhân.” [26, tr.20]. Chính vì lẽ đó kiến trúc </i>
đương đại ngày nay đang cần một sự thay đổi, khi mà thập kỷ mới của chúng ta bắt đầu với nền kinh tế thế giới trong tình trạng hỗn loạn và con người cân nhắc lại những điều mà họ ưu tiên. Giờ đây chúng ta không chỉ quan tâm đến tính tượng trưng của một cơng trình mà cịn quan tâm đến tính hiệu quả, khả năng hoạt động
<i>của cơng trình đó. Tức là từ những câu hỏi “Cơng trình mang ý nghĩa gì, chất chứa </i>
<i>điều gì, có biểu tượng j? ”, thì giờ đây “cơng trình có hiệu quả hay khơng, có đáp ứng được các nhu cầu xã hội hay khơng, có kinh tế hay khơng?” đang là những vấn </i>
đề được đặt ra hàng đầu.
Bên cạnh vấn đề khủng hoảng kinh tế, sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên cũng như các vấn đề về môi trường đang là một đề tài vô cùng nóng bỏng mà trong
<i>bối cảnh đó, kiến trúc khơng thể đứng ngồi cuộc. “Hãy nghĩ về những đứa trẻ thế </i>
<i>hệ sau của chúng ta sẽ nhìn Burj Khalifa, tồ siêu tháp phủ kính ở giữa sa mạc Dubai. Hãy nghĩ về gánh nặng này và những dinh thự vơ ích khác mà chúng sẽ thừa kế. Những tồ nhà đó đã tiêu thụ các nguồn tài nguyên to lớn để xây dựng nên, làm phá sản các nhà đầu tư, ngân hàng và chính phủ. Chúng sẽ tiếp tục rút cạn kiệt các nguồn tài nguyên miễn là chúng ta tiếp tục bơm điều hồ vào những văn phịng q nóng, tưới các bãi cỏ xanh rạng rỡ và đổ nước vào các đài phun nước xa hoa, nơi vốn dĩ từng là một sa mạc. Đây là những gia tài lãng phí mà thập kỷ kiến trúc vừa qua để lại, xây nên bởi một tầng lớp với tầm nhìn thiển cận mà khơng có suy nghĩ về tương lai.” [26, tr.20]. </i>
Và thực tiễn này đã buộc chính quyền của các quốc gia tiên tiến đề ra các tiêu chuẩn cắt giảm năng lượng cho công trình. Theo Số liệu từ Cơ quan Thơng tin Năng lượng Mỹ (EIA), các tòa nhà chịu trách nhiệm gần một nửa lượng khí nhà kính phát thải mỗi năm. Năm 2003 và 2004, ba hội nghị chuyên đề đã được tổ chức tại Los
<i>Angeles, Santa Fe và thành phố New York mang tên “Key to the Global </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><i>Thermostat” (Tạm dịch : “Chìa khóa cho việc điều nhiệt tồn cầu”). Đây là lần đầu </i>
tiên các kiến trúc sư, nhà quy hoạch, các nhà khoa học, chính trị gia và phương tiện truyền thông ngồi lại với nhau để tìm hiểu và thảo luận về ngành xây dựng và vai trị của nó đối với sự nóng lên tồn cầu. Theo đó ngành Xây dựng là ngun nhân chủ yếu của hiện tượng phát thải khí nhà kính và nếu ổn định được sự phát thải này, ta có thể cải thiện được hiện tượng nóng lên toàn cầu trong tương lai. Để thực hiên
<i>được điều này vào năm 2007 “The 2030 Challenge” (Tạm dịch: “thách thức trong </i>
<i>năm 2030”) được ban hành, yêu cầu ngành kiến trúc và xây dựng toàn cầu khi thiết </i>
kế các cơng trình mới phải kiểm sốt được việc sử dụng các nguyên liệu hóa thạch cũng như lượng khí nhà kính phát ra, cụ thể phần trăm cắt giảm như sau :
Với một bối cảnh như vậy, kiến trúc đương đại đang mang trong mình những vấn đề cấp thiết và cần được giải quyết một cách thoả đáng bởi các chuyên gia. Nó phải đáp ứng, thích nghi được với những biến đổi của môi trường xung quanh về mặt tự nhiên cũng như kinh tế xã hội. Nó cần một cuộc cách mạng, cần một quy trình thiết kế mới phù hợp hơn, hiệu quả hơn. Và trên hết sự thay đổi tư duy về mặt thiết kế của các kiến trúc sư, kỹ sư, nhà thiết kế là một điều rất cần thiết. Với tiêu chí tập trung giải quyết các vấn đề về mặt tương tác, thích nghi lâu dài giữa cơng trình với mơi trường xung quanh, Kiến trúc Hiệu năng đang là một sự lựa chọn rất đúng đắn.
Bên cạnh đó, tư duy của Kiến trúc Hiệu năngcịn rất phù hợp với các cở sở triết
<i>học hiện đại với những tư tưởng rất tiến bộ, mà tiêu biểu đó chính là Chủ nghĩa vật </i>
<i>chất mới (New Materialism). </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">19
<i><b>1.2.2. Cơ sở triết học và sự ảnh hưởng đến tư duy thiết kế </b></i>
<i>Chủ nghĩa vật chất mới, hay cái chết của chủ nghĩa hậu hiện đại (New Materialism, Or the Death of Postmodernism) </i>
Đây là chủ đề của bài giảng đầu tiên trong các cuộc hội thảo giới thiệu sách
<i>“Scripting the Future” (tạm dịch : kịch bản cho tương lai) (2012) tại các trường đại </i>
học của Neil Leach<sup>21</sup><i>. New Materialismlà mộtquan điểm triết họcbắt nguồn từ các </i>
cơng trình nghiên cứu của triết gia Gilles Deleuze<sup>22</sup>về cách tư duy khoa học mới. Ông đã nghiên cứu vấn đề này trong rất nhiều lĩnh vực như: triết học, lý thuyết văn hóa, nữ quyền cũng như về nghệ thuật. Và trong số các bài viết của mình, có một số tài liệu có thể ứng dụng được vào lĩnh vực kiến trúc. Đặc biệt rõ ràng nhất là cuốn
<i>“A Thousand Plateaus” (tạm dịch : “hàng nghìn đường bình đoạn”), (1980) của </i>
ông và Félix Guattari<sup>23</sup> đã có đề cập một cách chính xác đến sự thay đổi về cảm quan trong thiết kế kiến trúc. Theo đó tồn bộ lịch sử kiến trúc có thể chia làm hai quan điểm, một là các quan điểm về mỹ học phát triển theo xu hướng áp đặt các hình thức lên trên vật liệu xây dựng theo một mẫu có trước, phần còn lại là sự phát triển của một hệ cấu trúc rất hiệu quả mà bản thân nó cho phép hình thức tự thân xuất hiện để tạo ra các yếu tố thẩm mỹ một cách có tính tốn.
<i>Với quan điểm đầu tiên Deleuze đặt tên nó là “Roman” thuật ngữ này tuy có </i>
phần hơi hạn chế bởi nhưng nó thể hiện được cách tiếp cận kiến trúc của một số phong cách tập trung vào ngoại hình hơn hiệu quả cơng trình. Quan điểm thứ hai
<i>ơng gọi là “Gothic” nó được định nghĩa như là một phương pháp trang trí đặc biệt </i>
trong đó tính trang trí trở nên tinh tế hơn hòa lẫn vào sự hiệu quả của kết cấu. Như vậy Deleuze không chỉ phân tích Gothic và Romanesque như là sự khác biệt đơn thuần của hai phong cách kiến trúc mà ông đang đang muốn giới thiệu hai tinh thần mang tính khoa học đối lập nhau. Một mơ hình tĩnh và một mơ hình năng động của
<small>21Neil Leach: một kiến trúc sư và nhà lý luận. Ông là một giáo sư giảng dạy tại Đại học Nam California, Học viện Kiến Trúc Nam California giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Harvard, Đại học Brighton, Đại học Tongji và nhiều trường đại học danh tiếng khác trên thế giới. </small>
<small>Gilles Deleuze: (18/ 1/1925 - 04/11/ 1995) là một nhà triết học người Pháp. </small>
<small>Félix Guattari : (30/4/ 1930 - 29/8/ 1992) là một chiến binh Pháp, một nhà tâm lý học, triết học, và ký hiệu học. Ông được biết đến là người cộng sự, hợp tác trí tuệ với Gilles Deleuze </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><i>sự hiểu biết kiến trúc. Và tinh thần “Gothic” của Deleuze ngày càng được quan tâm bởi các kiến trúc sư đương đại một lý thuyết kiến trúc mới về “hiệu suất” </i>
<i>(performative)từ đó được hình thành [17] </i>
Và trên tinh thần đó nhà triết học đương thời người Mỹ, gốc Mexico Manuel
<i>De Landa chính là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ NewMaterialismđể mô tả về </i>
quan điểm của Deleuze. Ơng đã chứng minh tính hiệu quả của vấn đề này thông qua các công trình nghiên cứu của riêng mình trong các lĩnh vực xã hội, con người. Các
<i>tác phẩm như “A Thousand Years of Nonlinear History” (tạm dịch: “Ngàn Năm </i>
<i>Lịch Sử Phi Tuyến Tính”) (1997) đã đúc kết lại tồn bộ lịch sử q trình phát triển </i>
<i>của đơ thị trong quá trình phát triển của vật chất .Hay như cuốn “Intensive Science </i>
<i>and Virtual Philosophy” (tạm dịch: “Khoa học chuyên sâu và triết học ảo”) (2002) </i>
<i>trong đó xem xét vai trò của lý thuyết khoa học của NewMaterialismtheo quan điểm </i>
của Deleuze. Riêng về lĩnh vực kiến trúc, DeLanda đã viết một loạt bài báo rút ra
<i>khái niệm về "Gothic" theo tư duy của Deleuze, và khám phá những vấn đề liên </i>
quan để suy nghĩ về cách xử lý vật chất. Gần đây nhất, ông đã xuất bản một chuỗi
<i>các bài báo về New Materialism trên tạp chí Domus, tập trung vào phỏng sinh học, </i>
vật liệu thông minh và mối quan tâm vật chất hiện đại khác.
New Materialism đối lập với thuyết duy vật biện chứng của Karl Marx. Ở một khía cạnh nào đó cả hai đều dựa trên nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Marx, rằng những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là sản phẩm bề nổi của một q trình sâu sắc hơn ẩn đằng sau đó. Với New Materialism, nguyên lý này đã vượt qua phạm vi kinh tế, và đúng với cả những phạm trù văn hóa. New Materialism muốn nhấn mạnh rằng kiến trúc không nên quá chú trọng vào tính tượng trưng mà nên quan tâm nhiều đến những hiệu suất và cách ứng xử. Theo DeLanda chúng ta cần phải hiểu mơi trường xây dựng của mình về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị để có thể thiết kế kiến trúc một cách hiệu quả trong sự phát triển của vật chất
<i>Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù thuật ngữ New Materialismvẫn được sử dụng </i>
nhiều hơn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, nhưng những đóng góp của nó vào
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">21
lĩnh vực kiến trúc là không thể phủ nhận. Và người có cơng đi đầu, đặt nền móng cho những luận điểm của chủ nghĩa này trong kiến trúc đó chính là Neil Leach.
Gần đây Neil Leach đã tập trung nghiên cứu và phát triển học thuyết về New Materialism cũng như việc sử dụng thuật toán trong thiết kế kiến trúc, lấy cảm hứng từ những cơng trình nghiên cứu của Manuel De Landa và tư tưởng của Gilles Deleuze. Ơng có rất nhiều bài nghiên cứu, nhiều đầu sách cũng như chủ trì nhiều cuộc triễn lãm, hội thảo khoa học để bàn về các chủ để kiến trúc liên quan đến New
<b>Materialism. Theo Neil Leach các yếu tố thống trị nền kiến trúc hậu hiện đại đang </b>
nhường chỗ cho một lối tiếp cận mới trong nghệ thuật thiết kế, có lẽ được thể hiện rõ nhất trong hình thái kết cấu và trang trí. Theo ơng sự nhấn mạnh vào “trang trí” mà Venturi, Scott Brown và Izenour<sup>24</sup> đã đấu tranh rất nhiều trong cuốn sách
<i>chuyên đề của họ, “Learning from Las Vegas” (tạm dịch : “học tập từ Las Vegas”), </i>
đã từng chi phối sự ra đời của nhiều cơng trình kiến trúc trong vài thập kỷ qua, cuối
<i>cùng cũng dần trở nên suy yếu. “Những gì chúng ta đang chứng kiến là một biểu </i>
<i>hiện mới mà kết cấu khơng cịn phụ thuộc vào vật trang trí hay ẩn bên dưới bề mặt hoàn thiện, và mặt tiền khơng cịn bị chi phối bởi vỏ bao che. Điều này khơng có nghĩa rằng kết cấu đóng vai trị quan trọng hơn bề mặt trang trí của cơng trình. Thay vào đó, mối quan hệ giữa kết cấu và trang trí đang được cấu hình lại, đem kết cấu trở thành đặc trưng trang trí, và bề mặt trang trí mang hình hài kết cấu. Kết cấu và trang trí kết hợp hài hoà và tương hỗ cho nhau”. [28, tr.33-34] </i>
<i>Như vậy chủ nghĩa vật chất mớitrong kiến trúcvới các tư duy về </i>
“Gothic” của Deleuze, khái niệm “New Materialism” của De Landa, cũng như các công trình nghiên cứu của Neil Leach cung cấp một hệ tư tưởng rất tiến bộ, là những tài liệu vô cùng quý giá để giới chuyên gia nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng.
<i>Và với tư duy thiết kế của mìnhKiến trúc Hiệu năngđang mang đầy đủ các đặc </i>
điểmưu việt của hệ tư tưởng trên.
<small>Venturi (1925), Scott Brown (1931) và Izenour (1940 – 2001) : các kiến trúc sư người mỹ và tác phẩm của </small>
<i><small>họ “học tập từ Las Vegas” là cuốn sách lý thuyết kiến trúc có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i><b>1.2.3. Sự ảnh hưởng của công nghệ và các cơng cụ thiết kế dùng máy tính </b></i>
Theo quan điểm của Kiến trúc Hiệu năng,tất cả các khâu trong một quy trình thiết kế phải có một sự phối hợp nhịp nhàng, tương hỗ lẫn nhau. Cách thiết kế cơng trình truyền thống giờ đây đã thay đổi, các kỹ sư có thể tham gia vào quá trình thiết kế ngay từ đầu thay vì chỉ tính tốn thụ động sau khi phương án thiết kế hồn thành, thậm chí họ cịn có một sự ảnh hưởng quan trọng đến q trình tìm ý, tạo hình của các kiến trúc sư. Và các cơng cụ thiết kế, phân tích bằng máy tính ngày nay chính là cầu nối tốt nhất để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất đó. Nó mang lại một quy trình thiết kế mới khép kín, chính xác và hiệu quả hơn.
Hỗ trợ kỹ thuật cho cơng trình thiết kế dựa trên hiệu năng và thiết kế hiệu năng là trung tâm của các cuộc nghiên cứu phần mềm hỗ trợ thiết kế trong suốt nhiều thập kỷ.Nhiều khái niệm cơ sở và kỹ thuật tiên phong đã xuất hiện vào cuối
<i>thập niên 1960, đầu 1970. “Có thể kể đến các ví dụ như lần đầu tiên sử dụng hình </i>
<i>ảnh máy tính để đánh giá cơng trình vào năm 1966, gói tích hợp dành riêng cho đánh giá thiết kế công trình hiệu năng xuất hiện vào năm 1972, bản vẽ phối cảnh cơng trình bằng máy tính lần đầu tiên vào năm 1973. Thập niên 1970 là thời đại mà sự hỗ trợ bằng máy tính cho phép các kiến trúc sự đạt được những dự tính chính xác về việc đo lường hiệu năng của cơng trình như thất thốt nhiệt, biểu đồ chiếu sáng hằng ngày, bóng đổ và hiệu suất trang âm” [39, tr.2-3]. Khó khăn lớn nhất lúc </i>
đó là sự khơng tương thích giữa các cơng cụ dựng hình với các cơng cụ tính toán dân đến sự thiếu tính đồng bộ, tính chính xác của sản phẩm sau khi thiết kế, tuy nhiên công nghệ ngày phát triển đã thúc đẩy khả năng tạo ra các phần mềm tốt hơn có khả năng kết nối nhiều lĩnh vực, tăng tính phối hợp giữa các khâu trong quy trình.[32, tr.274]
Một trong những cơng cụ phân tích hiệu năng đầu tiên xuất được kể đến là PACE (Package for Architectural Computer Evaluation), được giới thiệu vào năm 1970 như một ứng dụng tính tốn bằng máy tính dùng cho các giai đoạn quan trọng
<i>trong quá trình thiết kế kiến trúc, “khác với những nỗ lực khác vào thời điểm đó, </i>
<i>cơng cụ này khơng có mục đích đề tối ưu hố một thơng số đơn lẻ mà sản xuất ra </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">23
<i>một hệ đo lường đa năng và toàn diện cho việc đánh giá cơng trình”[37]. PACE </i>
tính tốn về giá thành, khơng gian, mơi trường và các phạm vi hoạt động của hiệu năng. (Ví dụ như những tính tốn về mơi trường về sự tích tụ và thất thoát của nhiệt độ sẽ đưa ra kích thước mảng xanh phù hợp với điều kiện của mơi trường đó). Chương trình sẽ hướng dẫn người thiết kế cách thay đổi hình khối hoặc các thơng tin về xây dựng, để làm tăng hiệu năng. Sau quá trình lặp đi lặp lại, sự tương tác giữa con người và máy tính sẽ dẫn đến một giải pháp thiết kế hội tụ được những đặc tính tối ưu. Một đặc điểm thú vị của chương trình chính là khả năng “tiếp thu, học hỏi” được tích hợp bên trong nó. Nếu người thiết kế đã cảm thấy hài lòng với quy cách làm việc, chương sẽ cập lưu lại những giá trị có ý nghĩa để dùng trong quá trình đánh giá về sau.
Hầu hết những ý tưởng ban đầu trong quá trình thiết kế hiệu năng bằng kỹ thuật số đã vượt xa thời đại của nó cả về mặt khái niệm lẫn công nghệ. Và thời đại thực sự của khái niệm này đang đến, như ta thấy thiết kế hiệu năng, mặc dù tiến triển chậm nhưng chắc chắn, đang trở thành vấn đề hàng đầu trong các cuộc đàm luận về kiến trúc.Ngày nay, khái niệm định tính vàđịnh lượng bằng kỹ thuật số dùng để mô phỏng hiệu năng cơng trìnhđãđược phát triển đáng kể. Các cơng nghệ phân
<i>tíchmới(cơng nghệ phân tích hữu hạn - Finite-element analysis –FEA)bằng máy </i>
tính có thể phân chia khối cơng trình thành những phần tử lưới phối hợp chặt chẽ, tiếp theo mơ hình này tiếp tục được dùng để phân tích chính xác kết cấu, năng lượng và những biến động của những cơng trình phức tạp. Từ đó các thông tin sẽ được truyền lại bước thiết kế ban đầu để thay đổi hính dáng cơng trình sao cho hiệu quả nhất.
Chúng ta có thể kể đến Future System, một công ty thiết kế ở London, sử dụng phần mềm tính tốn khí – động lực học (CFD)<sup>25</sup> dùng cho dự án ZED của họ, dự án là một tòa nhà đa chức năng ờ London (1995) (Hình 1.03a). Tịa nhà được yêu cầu phải tự cung cấp năng lượng cho mình bằng cách phối hợp các tế bào quang điện gắn trên các lá sách với 1 tua bin gió khổng lồ đặt ở khoảng trống lớn tại vị trí trung tâm cơng trình. Độ cong của vỏ bao che cơng trình đã cho phép thiết kế giảm
<small> Chương trình tính tốn khí - động lực học (CFD – Computational Fluid Dynamics)xem mục 2.2.3.2 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">thiểu những tác động của gió lên xung quanh cơng trình đồng thời hướng các tác động gió này vào trung tâm. Kỹ thuật phân tích động lực học trong dự án là vô cùng cần thiết trong việc tăng hiệu suất hoạt động vỏ bao che, thể hiện rõ sự tác động của yếu tố kỹ thuật đến hình thức của cơng trình này
Một ví dụ nữa là hình khối giọt nước ban đầu của Peter Cook và Colin Fournier trong dự án thắng giải của thiết kế cổng vào Kunsthaus Graz, Austria sau đóđãđược điều chỉnh một phần sau khi phân tích kết cấu bằng kỹ thuật số bằng cách tách nhỏ và phân tích kết cấu của lớp vỏ bao che (tư vấn bởi kỹ sư Bollinger + Grohmann đến từ Frakurt) (Hình 1.03b). Tương tự, Foster và cộng sự khi thiết kế khối tháp của tịa thị chính London đã thay đổi đáng kể phương án sau khi các kỹ sư của Arup tiến hành phân tích hiệu năng các loại lực tác động bằng cách dùng phần mềm mơ phỏng lựcđặc biệt.(Hình 1.03c)
Qua các ví dụ trên ta có thể thấy được lý thuyết mới về phương pháp thiết kế dựa trên kỹ thuật số cho phép phát triển kỹ thuật mơ hình hóa dựa trên thời gian. Tức là cho phép chúng ta dự đoán được tương lai hoạt động của cơng trình như thế nào trước sự biến đổi của mơi trường, từ đó điều chỉnh phương án sao cho hiệu quả nhất. Bởi dưới sự phát triển của khoa học, ngày nay trong quá trình lên ý tưởng chúng ta có nhiều phương tiện để hình ảnh hóa những động lực tác động lên cơng trình trong suốt quá trình hoạt động, chúng ta có thể bắt đầu định hình những tác động nàyvà trong một số lĩnh vực kỹ thuật nào đó, có thể định lượng chúng.
Như vậy trong bối cảnh kiến trúc đương đại, công nghệ kỹ thuật số đã mở ra những chân trời mới cho việc thiết kế nhằm tạo ra một hình thái kiến trúc có khả năng thích ứng với môi trường xung quanh. Lấy nên tảng từ các quy chuẩn truyền thống, tạo hình kỹ thuật số khơng thiết kế theo lối hiểu thơng thường, thay vì làm việc trên một lĩnh vực, người thiết kế xây dựng một hệ thống tính tốn thực sự, điều khiển những biển hiện của nó theo thời gian cơng trình tồn tại , lựa chọn hình dáng
<i>trong q trình vận hành. Từ đó cố gắng hướng đến việc thay đổi khái niệm “tạo ra </i>
<i>hình khối”(making of form)thành “ tìm ra hình khối”(finding of form). </i>
<b>1.3. Giới thiệu một số chuyên gia nghiên cứu và thiết kế hướng hiệu năng </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">25
Kiến trúc Hiệu năng hiện vẫn đang là xu hướng rất mới, hệ thống cơ sở lý thuyết và thực tiễn vẫn đang được xây dựng bởi các chuyên gia. Vì vậy phần này sẽ tập trung giới thiệu một số cá nhân, tổ chức tiêu biểu đang quan tâm về vấn đề này. (phần giới thiệu và phân tích sâu về các cơng trình sẽ được đề cập đến trong các phần sau)
<i><b>1.3.1. Các kiến trúc sư tiêu biểu </b></i>
<b>David Leatherbarrow (Giáo sư, Kiến trúc sư của đại học Pennsylvania </b>
Philadelphia, USA).Trong sự nghiệp nghiên cứu, ông đã xuất bản một số sách trong đónổi tiếng nhất là hai cuốnTopographical Stories: Studies in Landscape
<i>andArchitecture(tạm dịch : Chuyện về địa thế học : Các nghiên cứu cảnh quan và </i>
<i>Kiến trúc), (2004) và Surface Architecture(tạm dịch : Kiến trúc bề mặt),(2002) </i>
đồng tác giả với Mohsen Mostafavi, giành giải thưởng CICA International Book: Bruno ZeviPrize. Nghiên cứu của ông tập trung vào các chủ đề lịch sử và lý thuyết về kiến trúc; gần đâycông việc của ông tập trung vào tác động của công nghệ hiện đại. Ông là người đã đưa ra một hệ thống lý thuyết, một cách nhìn mới về kiến trúc trong đó đưa tính hiệu năng của cơng trình lên làm yếu tố chính yếu, ơng đã xem xét và nghiên cứu rất sâu về sự biến đổi của các yếu tố trong cơng trình để phù hợp với sự biến đổi của môi trường xung quanh từ năng lượng, các loại tác động tự nhiên, xã hội cũng như về địa thế học. Ông đã và đang đặt một nền móng lý thuyết vững chắc và đầy hứa hẹn cho Kiến trúc Hiệu năng.
<b>Branko Kolarevic(Phó Giáo sư, Kiến trúc sư của Đại học </b>
PennsylvaniaPhiladelphia, USA) Branko Kolarevic là giảng viên củaĐại học Pennsylvania vào năm 1999, nơi ông dạy các khóa học về thiết kế kỹ thuật số, như"kỹ thuật số hình thái (Digital Morphogenesis)"và "Chế tạo kỹ thuật số (Digital Fabrication)”. Ơng cịn là trưởng khoa Thiết kế tích hợp (Integrated Design) tại đại học Calgary, Canada và cũng từng giảng dạy tại các trường đại học trên khắp Bắc Mỹ (Boston, Los Angeles, Miami), châu Á (Hồng Kơng). Ơng đãgiới thiệu học thuyết của mìnhvới thế giới trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ số trong thiết kế và sản xuất, gần đây nhất là "thiết kế thực tế ảo", "thiết kế dựa trên các mối quan hệ"
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">và "kiến trúc kỹ thuật số."Năm 2000, ông thành lập Trung tâm nghiên cứu và thiết kế kỹ thuật số (Digital Design Research Lab). Ông đã nhận bằngThạc sĩ(1989) và Tiến sĩ (1993) về lĩnh vực thiết kế tại Đại học Harvard và bằng kỹ sư kiến trúc của đại học Belgrade. Ông là tác giả của cuốn sách “Performative Architecture: Beyond Instrumentality” (2005). Một tài liệu quan trọng và tập hợp đầy đủ nhất những kiến thức cần thiết cho những học giả cần nghiên cứu về Kiến trúc Hiệu năng .
<b>Michael U. Hensel(Giáo sư, tiến sĩ, kiến trúc sư, nhà nghiên cứu, nhà giáo </b>
dục và nhà văn) Trong hoạt động chun nghiệp của mình, ơng kết hợp thực hành, giáo dục và nghiên cứu trong kiến trúc theo một quỹ đạo liên ngành. Michael đã nhận bằng tốt nghiệp củaĐại học Khoa học Ứng dụng Colognevào năm 1992 và bằng thiết kế của Hiệp hội Kiến trúc ở London vào năm 1993. Năm 2007, ông nhận được một khoản trợ cấp DTA để theo đuổi luận án tiến sĩ tại khoa Quản lý Xây dựng và Kỹ thuật tại Đại học Reading với đề tài “Performance-oriented Architecture: A Biological Paradigm for Design and Sustainability” (tạm dịch :
<i>Kiến trúc hướng hiệu năng : mơ hình sinh học cho thiết kế và tính bền vững) được </i>
trình duyệt năm 2011. Các nghiên cứu của ông bao gồm việc xây dựng một khuôn khổ lý thuyết và phương pháp luận cho “kiến trúc hướng hiệu năng” tái tư duy về lịch sử kiến trúc với sự nhấn mạnh vào hiệu suất và mối quan hệ giữa kiến trúc và sinh học. Ông là một nhà tư tưởng hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu của thiết kế kiến trúc.Ông là người đồng sáng lập của OCEAN (1994) và đang là chủ tịch của Hiệp hội Nghiên cứu Thiết kế OCEAN tại Na Uy (2008). Từ năm 2007, ông trở thành thành viên hội đồng quản trị của BIONIS (Biomimetics Network for Industrial Sustainability). Mục tiêu chính bao gồm: nghiên cứu các phương pháp tiếp cận mô phỏng sinh học để thu hút đầu tư và hợp tác trong nghiên cứu và ứng dụng và phối hợp, tăng cường trao đổi giữa các nhà nghiên cứu của các lĩnh vực liên ngànhđể khám phá sự hợp tác học thuậttrong tương lai.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">27
<i><b>1.3.2. Các kỹ sư tiêu biểu </b></i>
<b>Godfried Augenbroe (Phó Giáo Sư của Georgia Institute of Technology </b>
Atlanta, USA) Ông nhận bằng thủ khoa thạc sĩ kỹ sư từ TU Delft ở Hà Lan vào năm 1975. Ơng là chủ trì của các tổ chức nghiên cứu hàn lâm và các nhà phát triển công nghiệp nghiên cứu dự án COMBINE (Mơ hình máy tính cho các tịa nhà Công nghiệp ở châu Âu), một dự án kéo dài từ 1990-1995. Phó giáo sư Augenbroe hiện đang dạy các khóa học sau đại học và tiến hành nghiên cứu trong các lĩnh vực xây dựng các khái niệm hiệu năng và mô phỏng, kiểm sốt hệ thống thơng minh. Ơng có tên trong hội đồng khoa học của năm tạp chí quốc tế, là người Mỹ đồng biên tập của hai tạp chí khoa học. Ơng đã chủ trì ba hội nghị và có sáu bài giảng bài phát biểu tại các hội nghị quốc tế. Ông đã dành phần lớn thời gian nghiên cứu của mình ở châu Âu, nơi ơng đi tiên phong cho việc nghiên cứu một mô hình mơ phỏng và quản lý dự án cũng như khả năng tương tác kỹ thuật trong xây dựng một lĩnh vực đang ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với hiệu quả của ngành công nghip xõy dng.
<b>Jean-Franỗois Blassel(Giỏm c v l K sư Tư vấn cho RFR, Paris, Pháp). </b>
Trong hơn mười nm, Jean-Franỗois Blassel gi chc Giỏm c ca RFR, ụngqun lý các kỹ sư thiết kế kết cấu của cỏc kin trỳc c ỏo. Jean-Franỗois Blassel c o tạo như một kiến trúc sư và mộtkỹ sư, ôngđã phối hợp đan xen việc thiết kế kiến trúc, và kết cấu ngay từ những giai đoạn bắt đầu của dự án. Ông ứng dụng phương pháp thiết kế này ở châu Âu, Bắc Phi, châu Á vàHoa Kỳ trên các tịa với quy mơ lớn. Nhữngdự án bao gồm các sân bay quốc tế Kansai với PeterRice và Renzo Piano, một số trạm tàu cao tốc, các cầu cạn cho các cơ quan đường sắt Pháp và các dự ánnhỏ hơn theo định hướng hiệu năng.
<b>Mahadev Raman(Kỹ sư xây dựng,điều hành nhóm Kỹ thuật Arup, New </b>
York) Arup cung cấp các giải pháp thiết kế kỹ thuật, lãnh đạo các nhóm đa ngành trên một loạt cácdự án trên tồn thế giới. Trước khi đến New York, ơnglàm việc tại London và Cambridge. Chuyên môn của ông là giải pháp kết cấu cho các thiết kế bền vững,hiệu suất cao và các tòa nhà tiết kiệm năng lượng. Ông đi tiên phong
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">trong việc sử dụng các kỹ thuật phân tích tinh vi đểcải thiện hiệu suất của các thiết kế năng lượng thấp.Mahadev Raman là giảng viên thường xuyên tại Princeton và các trường Đại học Columbia về thiết kế bền vững và môi trường. Ơng có bằng Cử nhân Khoa học Kỹ thuật từĐại học Durham, Anh (1978) và bằng Thạc sĩ Khoa học Năng lượng ứng dụng của Viện Công nghệ Cranfield, Anh.
<b>1.4. Kết luận chương 1 </b>
Như vậy thông qua định nghĩa về một số yếu tố liên quan cũng như bối cảnh ra đời của Kiến trúc Hiệu năng ta đã có thể hiểu được đây là một cuộc cách mạng mới của kiến trúc về tư duy lý luận cũng như thực tiễn. Bởi trước sức ép của điều kiện kinh tế xã hội cùng với một sự hỗ trợ đắc lực của các tư duy triết học tiên tiến và sự bùng nổ của công nghệ, Kiến trúc Hiệu năng mang trong mình những đặc điểm rất khả thi và nổi trội mà các trào lưu chủ nghĩa kiến trúc trước đó chưa đạt được. Kiến trúc Hiệu năng là cả một sự thay đổi về mặt tư duy, phương pháp tiếp
<i>cận công trình. Như Branko Kolarevic đã viết : “Khác với những định nghĩa khác </i>
<i>về kiến trúc, Kiến trúc hiệu năng có thể được xem là có khả năng đáp ứng lại những điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá và kỹ thuật đang thay đổi từng ngày bằng cách không ngừng cải thiện bản thân nó. Khơng gian mà Kiến trúc Hiệu năng tạo ra không đơn lẻ, cố định, mà đa dạng, linh động và đan xen, chịu ảnh hưởng từ sự dịch chuyển không ngừng của môi trường xung quanh. Trong Kiến trúc Hiệu năng, tự nhiên, văn hố, cơng nghệ và khơng gian tạo thành một mạng lưới năng động, phức tạp, liên hệ chặt chẽ. Một mạng lưới mà các thành phần xây dựng có tương quan với nhau, đồng thời liên tục tác động lẫn nhau. Trong Kiến trúc Hiệu năng, không gian mở ra vô hạn, tương phản với sự cố định của những hoạt động, vật dụng đãđược định trước”[11, tr.205]. Tóm lại, Kiến trúc Hiệu năngđặt sự quan tâm </i>
lớn nhất vào hiệu quả của cơng trình hay nói rõ hơn là nó xem cơng trình như một sinh vật sống có khả năng tương tác với con người, thích nghi với sự biến đổi- đặc biệt là những biến đổi không lường trước được của môi trường xung quanh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Hình 1.01 <sup>Các cơng trình kiến trúc </sup>
với những cấu kiện có thể di chuyển được
<b><small>a.Aurora Place, Sydney, Australia (1996–2000), kiến trúc sư Renzo Piano </small></b>
<b><small>b. Maison d’Alsace, Pháp </small></b>
<small>(1932), kiến trúc sư Pierre Chareau và cộng sự </small>
<b><small>c. Casa del Fascio, Ý (1932 – </small></b>
<small>1936), kiến trúc sư Giuseppe </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Hình 1.02 <sup>Các cơng trình kiến trúc </sup> tương tác với môi trường xung quanh
<b><small>a.Viện Khoa học thần kinh, La Jolla , California ( 1992-1995 ), các kiến trúc sư Tod Williams và </small></b>
<small>Billie Tsien . </small>
<b><small>b. L’Institut du MondeArabe, Paris, Pháp (1981–1987), Kiến trúc sư Ateliers Jean Nouvel.</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Hình 1.03 <sup>Hình ảnh mơ phỏng cơng trình bằng các phầm mềm tính tốn </sup> hiệu năng
<b><small>a. Dự án ZED, London(1995), thiết kế Future Systems. Ảnh phối cảnh (trái) và ảnh tính tốn tác </small></b>
<small>động của gió của chương trình CFD </small>
<b><small>b. Hính ảnh mô phỏng kết cấu của Kunsthaus Graz, Austria </small></b>
<small>(2000– 2003), Kiến trức sư Peter Cook and Colin Fournier</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><b>CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG </b>
Kiến trúc Hiệu năng chia kiến trúc thành hai dạng: Một dạng là dựa theo những thứ vơ cùng chính xác và lý tính. Dạng cịn lại là theo kiểu ứng biến, tùy vào tình hình mà thay đổi. Tuy nhiên, chúng ta cũng không phải tách bạch cả hai dạng ra mà là tìm điểm giao nhau của chúng. Nghĩa là chúng ta vừa phải quan tâm tới sự hợp lý và đúng như tính tốn của nó, nhưng cũng phải quan tâm tới sự biến hóa và tính thực tế. Đó chính là tư duy tiêu biểu nhất để ta có thể hiểu rõ về tinh thần của Kiến trúc Hiệu năng.Qua đó, nó cũng đặt ra những tiêu chí đặc biệt ở mọi mặt của kiến trúc như hình thức, kết cấu, kỹ thuật, từ năng lượng, sinh học, nhân văn, tiện nghi, v.v... Và trong khn khổ có giới hạn, luận văn này chỉ bàn về một số tiêu chí chủ yếu.
<b>2.1 Tiêu chí về hình thức, hệ thống bao che </b>
<i><b>2.1.1 Sự vận hành của lớp vỏ bao che </b></i>
Hầu hết những cơng trình xung quanh chúng ta đều bất biến vì vậy để điều chỉnh phù hợp với những thay đổi, chúng cần được tái xây dựng hoặc bị đập bỏ. Với tư duy mới theo Kiến trúc Hiệu năng nhiều kiến trúc sư và kỹ sưđã mơ về những cơng trình có thể thích nghi nhanh chóng với những nhu cầu hoặc hoàn cảnh khác nhau bằng cách thay đổi hình dạng sẵn có, thay đổi hình thể không gian và chức năng, mức độ hấp thụ, phát xạ ánh sáng tự nhiên và nhân tạo,đồng thời tạo tính thẩm mỹ cho tồ nhà. Sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi rõ ràng về mặt kích thước, vị trí của các yếu tố, cũng có thể là sự thay đổi về chất cảm, màu sắc, mức độ phản xạ hay khúc xạ của vật liệu ốp ngoài, hay đơn giản chỉ là sự thay đổi về mặt chiếu sáng. Và những thay đổi này có thể diễn ra dưới sự điều khiển, tương tác của con người hoặc hoàn tồn tự động bằng máy tính thơng qua các bộ phận cảm ứng. Tất cả tạo nên một hệ thống bao che có khả năng vận hành, những cơng trình khơ cứng theo quan niệm cũ sẽ trở nên “sinh động” hơndưới tinh thần của Kiến trúc Hiệu năng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">30
Tuy nhiên có một điều rất quan trọng cần phải để ý đến đó là sự vận hành này của lớp vỏ bao che phải mang tính thích nghi. Tức là sự thay đổi trên không phải là một sự tùy tiện, vô ý mà nó phải phù hợp với sự biến đổi của môi trường xung quanh từ các yếu tố tự nhiên như bức xạ mặt trời, gió, nhiệt độ, độ ẩm, các loại ngoại lực tác động đến các yếu tố xã hội, văn hóa như các sự kiện xảy ra trong và ngồi cơng trình hay là sự chuyển động của người đi bộ hoặc lái xe đi ngang. Trong quá khứ, điều này tưởng chừng như là quá xa vời, bất khả thi nhưng giờ đây dưới sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì việc biến vỏ ngồi cơng trình thành một lớp “da sinh học” có khả năng phản ứng, tương tácdưới sự tác động của mơi trường là điều hồn tồn có thể đạt được
<i>Và thực sự khái niệm “tương tác” (interactive)đãvà đang được đưa ra với những đề xuất rất hấp dẫn. “Vỏ ngồi cơng trình vừa có thể vận hành, vừa có thể </i>
<i>biểu đạt được những hoạt động bên trong cơng trình, vừa có khả năng giao tiếp với con người tất cả sẽ được đặt dưới sự hỗ trợ của một vài thiết bị do phần mềm máy tính điều khiển”[11,tr.152]. Rõ ràng vấn đề được đặt ra là với sự phát triển của khoa </i>
học kỹ thuật ngày nay là vỏ bao che của cơng trình cần phải có một sự cách mạng, nó khơng chỉ được dùng để phát những thông tin cứng nhắc mà còn phải có sự tương tác, phản ứng với các yếu tố xung quanh vốn đang thay đổi liên tục không ngừng.
<i><b>2.1.2 Sự đồng nhất của hệ thống bao che và hệ thống kết cấu </b></i>
Chính lớp bề mặt – lớp vỏ bao cơng trình – với hình thái lẫn cấu tạo phức tạp của nó đãđã chiếm nhiều thời gian làm việc của những người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những hình khối mới. Quá trình này được thúc đẩy bởi những phần mềm dựng hình vi tính hiện đại. Tuy nhiên cũng có những người với lối tư duy và suy nghĩ táo bạo hơn, như Santiago Calatrava<sup>26</sup>đã loại bỏ lớp vỏ bao trong nhiều dự án của ơng, thay vào đó, tìm kiếm cách khai thác, phối hợp năng lực biểu hiện của bề mặt kiến trúc, cả về mặt hình thái lẫn mặt kỹ thuật kết cấu. Ý tưởng chủ đạo là kết hợp lớp kết cấu và lớp vỏ bao thành một bộ phận chung.
<small>Santiago Calatrava Valls (28/07/1951 ) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Tây Ban Nha , ơng cịn là một kỹ sư kết cấu, nhà điêu khắc và họa sĩ . Ơng có văn phòng tại thành phố New York , Doha , và Zürich , nơi mà hiện nay ông đang cư trú . </small>
</div>