Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.32 MB, 368 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
GIÁO TRÌNH
<small>TAP II</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>1254-2019/CXBIPH/12-12/CAND</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>Chủ biên</small>
PGS.TS. ĐINH VĂN THANH TS. NGUYÊN MINH TUẦN
Tập thé tác giả
PGS.TS. TRAN THỊ HUE Chương VII (mục N) TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ
PGS.TS. PHÙNG TRUNG TAP Chương VII, VIII, IX
<small>TS. NGUYEN MINH TUAN</small>
PGS.TS. PHAM VAN TUYET Chuong VI
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">CHƯƠNG VI
NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐÒNG DÂN SỰ
A. NGHĨA VỤ
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VE NGHĨA VỤ 1. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ
<small>1.1. Khái niệm nghĩa vụ</small>
Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định
của pháp luật hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với
<small>nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không được thực</small>
hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia.
<small>Việc một bên phải thực hiện hoặc không được thực hiện</small>
một số hành vi nhất định có thể không được đặt dưới sự bảo
đảm của nhà nước băng pháp luật, pháp luật khơng buộc người
<small>đó phải thực hiện, họ thực hiện cơng việc đó hồn tồn theo</small>
lương tâm và vì uy tín của mình. Ở phương diện này, nghĩa vụ được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức và thuộc về nghia
vụ đạo đức. Chăng hạn, giúp người già qua đường, giúp đỡ người tàn tật, nhường chỗ cho người già, phụ nữ trên xe buýt...
<small>là những cơng việc phải làm vì đạo đức.</small>
<small>Những cơng việc phải làm hoặc không được phép làm theo</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>quy định của pháp luật là nghia vụ pháp luật nói chung. Trongđó, các cơng việc phải làm hoặc khơng được phép làm theo quyđịnh của pháp luật dân sự là nghia vu dan sự.</small>
Nghĩa vụ có thể được hiểu là một bộ phận không tách rời trong nội dung của một quan hệ pháp luật dân sự. Bao gồm những hành vi mà một bên chủ thê phải thực hiện vì lợi ích của chủ thé bên kia như chuyền giao tai sản, thực hiện một công
<small>việc hoặc không được thực hiện một công việc đã được các bêntham gia quan hệ đó hoặc pháp luật xác định v.v. Bên có nghĩa</small>
vụ phải thực hiện các nghĩa vụ trước quyền u cầu của phía
<small>bên kia.</small>
Mặt khác, nghĩa vụ cịn được hiểu là một quan hệ pháp luật,
trong đó quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thê phát sinh từ quan hệ đó phải được thực hiện dưới sự đảm
<small>bảo của pháp luật.</small>
Các BLDS của Việt Nam thời Pháp thuộc (Bộ dân luật Bắc
<small>kì năm 1931 và Bộ dân luật Trung kì năm 1936) đã có những</small>
định nghĩa về nghĩa vụ dân sự:
"Nghia vụ dan sự là moi liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng
làm sự gì đối với một hay nhiều người nào do.
Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa vụ gọi là người chủ nợ".
"Nghia vụ là cái dáy liên lạc về luật thực tại hay luật thiên
nhiên bó buộc một hay nhiễu người phải làm hay đừng làm sự gi đối với một hay nhiễu người nào đó, người bị bó buộc là người mắc nợ hay trái hộ, người được hưởng là chủ nợ hay
<small>(1).Xem: Điều 644 Bộ luật dân luật Bắc kì năm 1931.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>Theo quy định trong hai Bộ dân luật nói trên thì ngồinghĩa vụ thuộc vê luật thực tại cịn bao gôm nghĩa vụ thuộc vềluật thiên nhiên. Thực ra, nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên chỉđược đưa vào khái niệm cho hợp với truyền thông và phong tụccủa người A Đơng mà hồn tồn khơng có sự cưỡng chê củapháp luật. Vì vậy, dù đã được quy định trong Bộ luật nhưng</small>
nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên (nghĩa vụ tự nhiên) vẫn chỉ
<small>là nghĩa vụ luân lí.</small>
Nghĩa vụ được định nghĩa tại Điều 274 BLDS năm 2015
như sau: "Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
<small>thể (sau day goi chung la bén co nghia vu) phai chuyén giao</small>
vat, chuyển giao quyên, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
<small>cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì</small>
lợi ích của một hoặc nhiễu chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có qun).
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ
Nếu nhìn nhận nghĩa vụ ở trạng thái là một quan hệ pháp
<small>luật dân sự thì so với các quan hệ pháp luật dân sự khác, quanhệ nghĩa vụ có một sơ đặc điêm sau đây:</small>
Thứ nhất, nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý giữa ít nhất là
<small>hai người đứng về hai phía chủ thê khác nhau.(1).Xem: Điều 675 Bộ dân luật Trung kì nam1936.</small>
<small>(2).Xem: Điệu 642 Bộ dân luật Bac kì năm 1931.(3).Xem: Điêu 677 Bộ dân luật Trung ki năm 1936.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>Dù được hình thành theo thoả thuận hay theo luật định thì</small>
nghĩa vụ ln là sự ràng buộc giữa các bên về việc phải làm
hay không được làm một việc nhất định. Bên phải làm một công việc nếu không làm sẽ phải gánh chịu chế tài của luật.
Tuy từng trường hợp, mỗi bên trong nghĩa vụ có thé có nhiều người hoặc nhiều chủ thé khác tham gia nhưng cũng có thé mỗi
<small>một bên chỉ có một người tham gia.</small>
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thê đối
<small>lập nhau một cách tương ứng và chỉ có hiệu lực trong phạm vi</small>
giữa các chủ thể đã được xác định.
Nghĩa vụ và quyền ln đi đơi với nhau, nói đến quyền là
<small>nói đến nghĩa vụ. Tuy nhiên, nói đến quyền và nghĩa vụ trongquan hệ nghĩa vụ là nói đến sự đối lập, tính tương ứng vềquyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nói một cách cụ thể hơn,</small>
quyên của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Bên này có bao nhiêu quyền với phạm vi bao nhiêu thì bên kia sẽ có bấy nhiêu nghĩa vụ với phạm vi tương ứng. Mặt khác, trong
<small>quan hệ nghĩa vụ, cả chủ thể mang quyền, cả chủ thể mangnghĩa vụ luôn luôn được xác định một cách cu thé nên quyêncủa bên này chỉ là nghĩa vụ của bên kia. Nói cách khác, mốiquan hệ về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ này khơng liênquan đến người khác ngồi các chủ thé đã được xác định cụ</small>
thể. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ của các chủ thé trong quan hệ này có thé liên quan đến người thứ ba nhưng người thứ ba đó phải là người đã được xác định cụ thê trước. Vi
du, trong quan hệ cho vay, bên có quyền địi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có thể
<small>người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người bảolãnh đã được các bên xác định trước).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Chính từ đặc điểm nay mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. Đồng thời cũng
qua đặc điểm này, chúng ta thấy răng quan hệ pháp luật về
nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu.
Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác
định cụ thé nên tất cả các chủ thé khác đều phải có nghĩa vụ tơn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản dé đáp ứng các nhu cầu của minh, vì vậy quyền dan sự trong quan hệ pháp luật về
sở hữu là quyền tuyệt đối.
Thứ ba, quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền nên quyền của các bên chủ thể là quyền đối nhân.
Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ thể mang quyền được thực hiện băng hành vi của chính họ thì trong quan hệ nghĩa vụ dân sự quyền của bên này lại được thực hiện thơng
qua hành vi của chủ thé phía bên kia. Nói cách khác, quyền của
bên này chỉ được đáp ứng khi bên kia đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của họ. Mặt khác, nếu việc thực hiện quyền trong
quan hệ sở hữu là việc tác động trực tiếp đến vật thì trong
nghĩa vụ dân sự người mang quyền dân sự không được tác
động trực tiếp đến tài sản của người mang nghĩa vụ. Khi
<small>người mang nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó, người</small>
mang quyền chỉ có thể sử dụng các phương thức mà pháp luật
đã quy định để tác động và yêu cầu người đó phải thực hiện
nghĩa vụ cho mình. Nói cách khác, trong nghĩa vụ, quyền của
người này là đối với người có nghĩa vụ bên kia chứ không đối
<small>VỚI tài sản của họ.</small>
2. Các yếu tố của quan hệ nghĩa vụ
2.1. Chủ thể của nghĩa vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Chủ thé của quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia quan hệ pháp luật đó. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ là những người tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, bao gồm: Cá
<small>nhân, pháp nhân, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt</small>
Nam. Các chủ thé này có những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
<small>quan hệ nghĩa vụ mà họ tham gia.</small>
<small>Các chủ thê này khi tham gia. một quan hệ nghĩa vụ sẽ thiếtlập mối liên hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên.</small>
pháp luật bảo đảm quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải
thực hiện hoặc không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của mình.
<small>- Bên có nghĩa vụ: Là một bên trong quan hệ nghĩa vụ buộc</small>
phải thực hiện hoặc không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên có quyền.
Tuỳ theo tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà có những quan hệ nghĩa vụ trong đó một bên chỉ có quyền u cầu
<small>nhưng khơng phải gánh vác nghĩa vụ, cịn một bên có nghĩa vụ</small>
thực hiện cho bên kia cơng việc nhất định mà khơng có quyền u cầu. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này được gọi là quan
<small>hệ đơn vụ.</small>
Mặt khác, trong phần lớn các quan hệ nghĩa vụ thì mỗi bên
chủ thê tham gia đều có quyên yêu cầu bên kia thực hiện những
hành vi nhất định nhăm đem lại lợi ich cho mình. Và ngược lại họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm đáp ứng
<small>lợi ích cho phía bên kia. Nghĩa là, trong những quan hệ nghĩa</small>
vụ, mỗi bên chủ thể vừa là người có quyền, vừa là người có
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>nghĩa vụ. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này được gọi là quan</small>
hệ song vụ. Khi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong
các quan hệ nghĩa vụ mang tính song vụ cần phải xem xét để xác định tương ứng với hành vi nhất định, chủ thê nào là người
<small>có nghĩa vụ thực hiện hành vi đó.</small>
Ví dụ: Quan hệ nghĩa vụ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản là quan hệ song vụ. Trong đó, đối với hành vi giao vật bán thì bên bán là người có nghĩa vụ, đối với hành vi trả tiền thì bên mua là người có nghĩa vụ.
<small>2.2. Nội dung của nghĩa vụ</small>
Khi tham gia quan hệ nghĩa vụ, mỗi bên hướng tới lợi ích nhất định. Theo đó, lợi ích mà một bên hướng tới chỉ đạt được khi bên kia thực hiện đầy đủ các hành vi mang tính nghĩa vụ
của họ. Quyên dân sự và nghĩa vụ dân sự là hai yếu tố cầu
<small>thành nội dung của quan hệ nghĩa vụ.</small>
Vi vậy, có thé nói nội dung của quan hệ nghĩa vụ là tong hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thé trong quan hệ nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nghĩa vụ có thé do các bên tự thoả thuận xác định hoặc do luật định.
- Quyên yêu cau: Là xử sự mà bên có quyền được phép
<small>thực hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Xử</small>
sự được coi là quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính là quyền
u cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định.
- Nghĩa vụ dân sự: Là xử sự bắt buộc theo thoả thuận hoặc
<small>theo quy định của pháp luật mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện.Xử sự được coi là nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính là</small>
việc phải thực hiện hành vi nhất định như chuyên giao vật,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">chuyền giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng
việc khác hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi
ich của bên có quyên.
2.3. Khách thể của nghĩa vụ
Ở góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì khách
thé của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các chủ thé hướng tới và nhằm đạt được. Quan hệ nghĩa vụ có đặc trưng cơ bản là quyền và nghĩa vụ của các bên luôn đối lập nhau một cách
<small>tương ứng. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa VỤ, hướng tớiqun lợi của mình chính là việc chủ thể có quyền ln hướng</small>
tới hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thé phia bén kia. Nguoc lại, dé bên kia thực hiện lợi ích cho minh thì mỗi bên chủ thé đều phải quan tâm và thực hiện những hành vi nhất định để
<small>hoàn thành nghĩa vụ của minh. Nói cách khác, hành vi thực</small>
hiện nghĩa vụ của các bên chủ thể luôn được sự quan tâm và
hướng tới của các bên chủ thé. Chang han, trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng mua bán tài sản, dé đạt được lợi
ích của mình, bên mua quan tâm đến hành vi giao vật bán của bên bán, bên bán quan tâm đến hành vi trả tiền của bên mua. Mặt khác, để bên bán giao vật bán cho mình, bên mua phải thực hiện hành vi trả tiền, để bên mua trả tiền, bên bán phải
<small>thực hiện hành vi giao vật. Vì vậy, hành vi thực hiện nghĩa vu</small>
là khách thé trong quan hệ nghĩa vụ.
Khách thé của quan hệ nghĩa vụ là những xử sự của các bên chủ thê mà chỉ thông qua đó, quyền yêu cầu cũng như nghĩa vụ
của các chủ thé mới được thực hiện.
<small>Hành vi thực hiện nghĩa vụ là một phương tiện mà thơng</small>
qua đó, quyền lợi của các chủ thé được thực hiện. Vi vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ, hành vi là cái mà các chủ thể đều hướng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tới, là khách thể nói chung của mọi quan hệ nghĩa vụ. Tuy
<small>nhiên, tương ứng với sự đa dạng của các quan hệ nghĩa vụ,</small>
hành vi là khách thể của quan hệ nghĩa vụ cũng rất đa dạng,
<small>phong phú.</small>
Trong nhiều quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể gắn liền với một vật nhất định mà nếu khơng có vật đó sẽ khơng có hành vi. Vi du: Nếu khơng có vật bán sẽ khơng có hành vi giao vật bán. Vật được gắn liền với hành vi trong quan hệ nghĩa vụ,
ý nghĩa quan trọng. Nếu thơng qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của một bên, quyền của bên kia sẽ được thoả mãn thì chi thơng qua tính chất, đặc điểm của đối tượng mới thay được quyền của bên có quyền đã được thoả mãn ở mức độ nào. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi với tư cách là khách thể của quan hệ nghĩa vụ đó gắn liền với vật thì bên có quyền khơng chỉ quan
tâm tới hành vi mà còn quan tâm đến vật gắn liền với hành vi đó. Vi du: Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng
mua bán tài sản, người mua không chỉ quan tâm đến việc người bán có chun vật bán cho mình hay khơng mà cịn quan tâm
đến vật mà người bán chuyển giao có đúng với số lượng, chat
<small>lượng hoặc tình trạng như đã thoả thuận hay không.</small>
Trái lại, trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi của chủ thể không gan liền với vật thì bên có quyền chỉ cần quan tâm đến việc thực hiện hành vi đó của chủ thể mang nghĩa vụ. Vi du: Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng dịch vụ thì
bên thuê dịch vụ chỉ cần quan tâm đến việc bên cung ứng dịch
vụ thực hiện hành vi cung ứng dịch vụ như thế nào, có bảo đảm
quyền và lợi ích của mình hay không.
Hành vi (sự xử sự của các chủ thể) có thé được thé hiện ở
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">dạng hành động (tác vi) nhưng cũng có thể được thê hiện ở dạng
<small>không hành động (bat tác vi). Nêu hành vi là hành động va ketquả được tao ra từ hành vi đó là vật cụ thê thì hành vi này đượcgọi là hành vi được vat chat hoá. Trái lại, nêu kêt qua đó khơngphải là một vat cụ thê, thì hành vi này là hành vi khơng được vậtchat hố. Ngồi ra, trong nhiêu trường hợp hành vi cịn tơn tại ởdạng khơng hành động (khi đơi tượng của nghĩa vụ là một côngviệc không được làm). Trong những trường hợp này, người taquan tâm dén su "bat động” của nhau, vì chính sự "bat động”đó sẽ bảo đảm lợi ích cho bên có qun.</small>
3. Đối tượng của nghĩa vụ
3.1. Khái niệm và các loại đối tượng của nghĩa vụ
Đối tượng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động tới trong
<small>việc xác lập, thực hiện quan hệ nghĩa vụ với nhau.</small>
Trong quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thé sẽ tác
<small>động vào một tài sản, một cơng việc cụ thê nào đó. Những taisản, cơng việc này chính là đơi tượng của việc thực hiện nghĩavụ dân sự. Tuỳ thuộc vào tính chât và nội dung của từng quanhệ nghĩa vụ cụ thê mà đơi tượng của nó có thê là một tài sản,một công việc phải làm hoặc một công việc không được làm.</small>
Điều 276 BLDS năm 2015 quy định:
"1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực
<small>hiện hoặc không được thực hiện.</small>
2. Đối tượng cua nghĩa vụ phải được xác định ”.
Từ quy định trên cho thấy, đối tượng của nghĩa vụ có thé là: - Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản
Đa phần các nghĩa vụ dân sự đều có đối tượng là tài sản.
<small>Tài sản trong luật dân sự được hiéu theo nghĩa rộng, không chi</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">là những vật có thực mà còn bao gồm cả tiền, các giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Tài sản là vật có thể là
khơng chia được, có thé là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có
thê là vật được xác định theo chủng loại hay được xác định là vật đồng bộ. Tuỳ theo tính chất của từng loại tải sản cụ thé trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mà các bên thoả thuận dé xác
vụ có thể là vật hiện hữu (vật có thực), có thé là vật được hình
<small>thành trong tương lai.</small>
- Doi tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm
từ một công việc được nhiều người xác lập với nhau một quan
<small>hệ nghĩa vụ mà theo đó, người có nghĩa vụ phải thực hiện côngviệc theo đúng nội dung đã được xác định.</small>
Công việc phải làm có thé được hồn thành với một kết qua
nhất định nhưng cũng có thể khơng gắn liền với một kết quả
(do các bên thoả thuận hoặc do tính chất của công việc). Mặt
khác, kết quả của công việc phải làm có thé được biểu hiện dưới dạng một vật cụ thê nhưng cũng có thê khơng biểu hiện dưới dạng một vật cụ thê nào (các loại dịch vụ).
Thơng thường, các quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là công
<small>việc phải làm là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ các hợp</small>
đồng mang tính dịch vụ như hợp đồng vận chuyên, hợp đồng
<small>gui g1ữ tai san...</small>
- Đối tượng của nghĩa vụ là công việc không được làm
Công việc không được làm là đối tượng của nghĩa vụ trong
<small>những trường hợp các bên từ cơng việc đó xác lập với nhau</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ khơngđược thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định.</small>
Ví dụ: Hai người có bất động sản liền kề nhau thoả thuận
<small>một bên nhận ở bên kia một khoản tiên và cam kêt không xâydựng nhà trên đât của mình đê khỏi che lâp nhà của bên kia(thời hạn không được xây nhà được xác định theo thoả thuậncủa hai bên).</small>
3.2. Diéu kiện đối với đối tượng của nghĩa vu
Qua việc xem xét đối tượng của nghĩa vụ dân sự ở các dạng
<small>cụ thê thì một tài sản, một công việc phải làm hoặc một côngviệc không được làm chỉ được coi là đôi tượng của nghĩa vudân sự khi chúng thoả mãn các điêu kiện sau đây:</small>
- Phải đáp ứng được lợi ích nào đó cho chủ thé có quyền Thơng thường, lợi ích mà chủ thể có quyền hướng tới là
<small>một lợi ích vật chât (vật cụ thê, khoản tiên v.v.) nhưng cũng cóthê là một lợi ích tinh thân.</small>
Đề chủ thé có quyền dat được lợi ích vật chất nếu đối tượng
<small>của nghĩa vụ dân sự là một vật cụ thê thì vật đó phải mang đâyđủ các thuộc tính của hàng hố (giá trị và giá trị sử dụng). Nêuđôi tượng của nghĩa vụ là cơng việc thì việc phải làm hoặc việckhơng được làm phải hướng tới lợi ích của người có qun.Khi làm hoặc khơng làm cơng việc đó sẽ đem đên cho bên kialợi ích nhât định.</small>
- Phải được xác định hoặc có thé xác định được
Khi các bên giao kết hợp đồng để từ đó xác lập quan hệ
<small>nghĩa vụ đôi với nhau, phải xác định rõ đôi tượng của nghĩa vụlà cơng việc hay vat gì. Trong trường hợp nghĩa vụ được thiệtlập theo quy định của pháp luật thì đơi tượng đã được pháp luật</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">xác định rõ trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là vật thì các bên phải xác định
của tài sản thơng qua việc kiểm đếm và các giấy tờ liên quan
(nếu có). Nếu là tài sản hình thành trong tương lai thì phải có
các giấy tờ liên quan xác định cụ thê về tài sản đó và các căn
cứ dé chứng minh tài sản đó chắc chan sẽ hình thành và khi
hình thành sẽ thuộc sở hữu của một trong các bên. Nếu là giấy
tờ có giá hoặc quyền tài sản thì bên đưa tài sản đó làm đối tượng của nghĩa vụ phải có đầy đủ băng chứng chứng minh tài
<small>sản đó thuộc sở hữu của mình.</small>
- Đối tượng của nghĩa vụ có thê thực hiện được
Nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là việc không thé thực
hiện được sẽ khơng thoả mãn được lợi ích của chủ thể có quyên. Vì vậy, nếu đối tượng là tài sản thì phải là những tài sản
có thé đem giao dịch được, nếu là cơng việc thì phải là những
cơng việc có thê thực hiện được.
Khi xem xét đối tượng của nghĩa vụ có thé thực hiện được hay khơng cần xác định theo hai van dé sau:
Thứ nhất, xác định theo đặc tính của bản thân đối tượng, đối tượng vốn dĩ là vật không thé xác định được hoặc nếu đối
tượng là cơng việc nhưng về bản chất đó là công việc không
thể thực hiện được sẽ không thé đem giao dịch.
Thứ hai, do pháp luật cắm hoặc trái đạo đức xã hội. Những
tài sản mà pháp luật cắm giao dịch, những công việc mà pháp luật cắm làm hoặc những việc nếu làm sẽ trái với đạo đức xã hội cũng là những đối tượng không thẻ thực hiện được. Vì vậy,
nó khơng bao giờ được coi là đối tượng của nghĩa vụ dân sự. Vi
du: Thuốc phiện là một vật có thực nhưng khơng thể đem giao
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">dịch được vì đã bị pháp luật cam lưu thơng.
Mặt khác, một người chỉ có thé dùng tài sản làm đối tượng
giao dịch nếu họ là chủ sở hữu của tài sản, là người được chủ sở hữu uỷ quyền giao dịch hoặc là người có thâm quyền theo
<small>quy định của pháp luật.</small>
II. CÁC LOẠI NGHĨA VU
Như đã xác định ở phần trước, chủ thể của nghĩa vụ là
những người tham gia quan hệ nghĩa vụ. Họ đứng về hai phía và
có quyền, nghĩa vụ dân sự đối lập nhau một cách tương ứng.
Một quan hệ nghĩa vụ được hình thành làm phát sinh mối liên hệ
về quyền và nghĩa vụ giữa ít nhất là hai người đứng ở hai phía
đối lập nhau (một người có quyền, một người có nghĩa vụ) nhưng cũng có thé mối liên hệ đó là giữa nhiều người đối với
nhau (nhiều người có quyên, nhiều người có nghĩa vụ). Đồng
thời cũng có nhiều quan hệ nghĩa vụ mà quyên, nghĩa vụ liên
quan đến cả người thứ ba. Căn cứ vào chủ thé tham gia, tính chất, đặc điểm, nội dung và phương thức thực hiện nghĩa vụ mà
nghĩa vụ có thê được phân thành các loại sau đây:
<small>1. Nghĩa vụ một người</small>
Nghĩa vụ một người là nghĩa vụ mà trong đó, mỗi bên chủ thể chỉ có một người tham gia. Nghĩa vụ một người chỉ tồn tại
<small>ở một dạng duy nhất là: Một người có nghĩa vụ đối với mộtngười có quyên. VỊ vậy, việc xác định quyên và nghĩa vụ củacác chủ thé trong các quan hệ nghĩa vụ này hết sức đơn giản</small>
bởi theo đặc điểm của nghĩa vụ thì quyền. của bên này là nghĩa
<small>vụ của bên kia và ngược lại. Tuy nhiên, nếu là quan hệ song vụ</small>
2. Nghĩa vụ nhiều người
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Nghĩa vụ nhiều người là nghĩa vụ mà trong đó, một bên chủ
<small>thê có nhiêu người tham gia.</small>
Nghĩa vụ nhiều người có thể là một trong các dạng sau:
- Nhiều người có nghĩa vụ đối với một người có quyền; - Nhiều người có quyền đối với một người có nghĩa vụ;
- Nhiều người có nghĩa vụ đối với nhiều người có quyên.
<small>Trong những trường hợp này, cần phải xác định rõ phạm viquyền yêu cầu của mỗi một người có quyền đối với người cónghĩa vụ, cũng như phạm vi nghĩa vụ mà từng người có nghĩavụ phải thực hiện trước người có quyên. Mặt khác, cân phảixác định giữa những nguoi có nghĩa vụ hoặc giữa những ngườicó quyền có mối liên quan như thế nào trong quá trình cùngnhau thực hiện nghĩa vụ hoặc cùng nhau hưởng quyền. Vì vậy,đơi với các quan hệ nghĩa vụ nhiêu người cân phải xác định lànghĩa vụ riêng rẽ hay nghĩa vụ liên đới.</small>
<small>3. Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ</small>
Điều 287 BLDS năm 2015 quy định: "Khi nhiễu người cùng
<small>thực hiện một nghĩa vụ, nhưng mơi người có một phân nghĩa vụnhát định và riêng ré thì mơi người chỉ phải thực hiện phán nghĩavu của minh".</small>
Nghĩa vu dân sự riêng rẽ là loại nghĩa vụ nhiều người, trong
<small>đó mơi một người trong sơ những người có nghĩa vụ chỉ phảithực hiện phân nghĩa vụ của mình hoặc mỗi người trong sơnhững người có qun chỉ có thê u câu người có nghĩa vụthực hiện nghĩa vụ cho riêng phân quyên của mình.</small>
Bản chất của loại nghĩa vụ này là khơng có sự liên quan lẫn
<small>nhau giữa những người cùng thực hiện nghĩa vụ, cũng nhưkhơng có sự liên quan trong việc thực hiện quyền yêu câu cua</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">những người có quyền. Nếu nhiều người có nghĩa vụ thì nghĩa vụ được xác định thành từng phần và mỗi người thực hiện
nghĩa vụ theo phần của mình một cách riêng rẽ. Người nào
<small>thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa</small>
người đó với người có quyền sẽ chấm dứt (họ khơng phải chịu trách nhiệm đối với phần nghĩa vụ mà những người có nghĩa
vụ khác chưa thực hiện). Nếu nhiều người có qun thì mỗi người chỉ có quyền u cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho riêng phần quyền của mình (khơng được phép u cầu
<small>người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ). Khi một</small>
trong số những người có quyền đó nhận được sự thực hiện nghĩa vụ đối với phần quyền cuả mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa người đó với người có nghĩa vụ được coi là chấm dứt.
<small>Quan hệ nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ với những người có</small>
quyền khác vẫn tồn tại và vẫn có hiệu lực.
<small>4. Nghĩa vụ dân sự liên đới</small>
Để quyền dân sự của các chủ thé được bảo đảm, trong một số trường hợp, nghĩa vụ nhiều người sẽ được xác định là nghĩa
vụ dân sự liên đới nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có
<small>quy định. Mục đích của việc xác định một nghĩa vụ liên đới khi</small>
có nhiều người tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thé có quyền được trọn vẹn, kê cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ khơng có khả năng thực
<small>hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong quan hệ nghĩa vụ liên đới, nhữngngười có nghĩa vụ ln ln liên quan với nhau trong cả q</small>
trình thực hiện tồn bộ nghĩa vụ cũng như quyền u cầu của
những người có quyền ln được coi là một thé thống nhất.
đó, một trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ hoặc một trong số những người có
quyền đều có thé yêu cầu bất cứ ai trong số những người có
<small>nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ.</small>
5. Nghĩa vụ theo phần
đối tượng cụ thé có những đặc điểm và tính chất khác nhau. Do
đó, tuỳ thuộc đối tượng như thế nào mà nghĩa vụ dân sự đó có thể là nghĩa vụ phân chia được theo phần hoặc là nghĩa vụ không phân chia được theo phần.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật được xác định và vật
theo tính chất cơng việc đó phải được thực hiện cùng một lúc thì
được gọi là nghĩa vụ không phân chia được theo phần. Ngược lại, nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật chia được hoặc cơng việc có thê thực hiện theo từng phần khác nhau thì được gọi là nghĩa vụ phân chia được theo phần (nghĩa vụ theo phần).
<small>6. Nghĩa vụ hồn lại</small>
Luật thực định khơng có định nghĩa về nghĩa vụ hoàn lại. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, từ quy định của pháp luật đã
<small>làm hình thành một nghĩa vụ mới sau một nghĩa vụ trước đó.</small>
Chăng hạn tại khoản 2 Điều 288 BLDS năm 2015 đã quy định:
<small>“Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có</small>
quyển u cau những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phân nghĩa vụ liên đới của họ đổi với minh”.
<small>Trong khoa học pháp lí, thuật ngữ nghĩa vụ hồn lại được</small>
dùng dé chỉ những nghĩa vụ phát sinh từ một nghĩa vụ khác. Vì vậy, nghĩa vụ hồn lại có thé được hiểu như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>Nghĩa vụ hoàn lại là một quan hệ nghĩa vụ, trong đó một</small>
bên có quyền u cầu bên kia (người có nghĩa vụ) thanh tốn lại khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác mà người có quyền đã
<small>thay người có nghĩa vụ thực hiện cho người khác hoặc một bên</small>
có nghĩa vụ phải hồn trả cho bên có quyền khoản tiền hay lợi ích vật chất mà họ đã nhận được từ người khác trên cơ sở
qun u cầu của bên có quyền.
Thơng thường, từ một nghĩa vụ dân sự liên đới có thé làm
<small>phát sinh nghĩa vụ hoàn lại theo một trong hai trường hợp sau đây:</small>
- Khi một trong số những người có nghĩa vụ liên đới đã
<small>thực hiện tồn bộ nghĩa vụ thì người đó trở thành người có</small>
quyền trong quan hệ nghĩa vụ hồn lại, có quyền u cầu
<small>những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thanh tốn cho</small>
mình khoản tiền hoặc lợi ích vật chất mà người đó đã bỏ ra để
thay họ thực hiện cho người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ
<small>dân sự liên đới trước đó.</small>
- Khi một trong số những người có quyền liên đới đã nhận
<small>việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ thìngười đó trở thành người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụhoàn lại. Người đã nhận việc thực hiện tồn bộ nghĩa vụ có</small>
nghĩa vụ hồn lại cho mỗi người có quyền liên đới khác khoản lợi ích vật chất mà người này đã thay họ để nhận từ người có
<small>nghĩa vụ trong nghĩa vụ dân sự liên đới trước đó.</small>
<small>Ngồi ra, theo quy định của BLDS, nghĩa vụ hồn lại cịnphát sinh trong các trường hợp sau:</small>
<small>- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh từ một nghĩa vụ trước trongtrường hợp nghĩa vụ trước có thoả thuận biện pháp bảo lãnh.</small>
Trường hợp này được quy định tại Điều 340 BLDS năm 2015:
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">“Bên bảo lãnh có quyên yêu cau bên được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vu bảo lãnh đã thực
<small>hiện, trừ trường hop có thoả thuận khác”.</small>
<small>- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh giữa người của pháp nhân với</small>
pháp nhân sau khi pháp nhân đã bồi thường cho người bị thiệt hại do người của pháp nhân gây ra được quy định tại Điều 597 BLDS năm 2015: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
<small>người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp</small>
nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có qun u cau người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền theo quy định của pháp luật".
<small>- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh giữa người thi hành công vụ</small>
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
<small>Theo luật này, người thi hành công vụ gây thiệt hại phải hoàn</small>
lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền theo quy định của
<small>pháp luật.</small>
<small>- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh giữa người làm công, học</small>
nghề với chủ làm công, dạy nghề sau khi chủ làm công, dạy nghề đã bôi thường cho người bị thiệt hai do người làm công
<small>gây ra trong khi thực hiện công việc được giao.</small>
Nghĩa vụ hoàn lại mang một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ hoàn lại bao giờ cũng phát sinh từ một nghĩa vụ cơ bản khác. Nó khơng thê phát sinh với ý nghĩa là
một nghĩa vụ đầu tiên.
<small>Thứ hai, trong nghĩa vụ hồn lại bao giờ cũng có một người</small>
liên quan đến cả hai quan hệ nghĩa vụ. Người đó, nếu là người
<small>đã thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ trước thì trong quan hệ</small>
nghĩa vụ hồn lại họ là người có quyền. Ngược lại, nếu trong
quan hệ trước đó họ là người đã hưởng quyền thì ở nghĩa vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>hoàn lại họ là người có nghĩa vụ.</small>
Thứ ba, nêu nghĩa vụ hồn lại là nghĩa vụ nhiều người thì
<small>theo ngun tắc, nghĩa vụ đó được xác định là nghĩa vụ riêngrẽ. Người có quyên trong quan hệ nghĩa vụ hồn lại chỉ có thểđịi từng người có nghĩa vụ hồn lại cho mình phần mà mình đã</small>
thực hiện thay cho người đó. Nếu một người đã hưởng quyền
dân sự trên cơ sở quyền yêu cầu của nhiều người thì mỗi người trong số họ chỉ có quyền u cầu người đó hồn lại cho phần quyên của riêng mình.
7. Nghia vu bo sung
Thuật ngữ “bố sung” cho thay chức năng của nghĩa vụ này là thực hiện phần nội dung của nghĩa vụ chính trước đó khi đến
<small>thời hạn mà nghĩa vụ chính khơng được thực hiện hoặc thực</small>
hiện không đúng, không day đủ. Nhu vậy, nghĩa vụ bổ sung
bao giờ cũng có mối liên quan đối với một nghĩa vụ chính. Nói
cách khác, nghĩa vụ bồ sung làm cho quyền và nghĩa vụ dân sự không chỉ là mối liên hệ giữa hai bên trong một quan hệ nghĩa vụ mà còn liên quan đến cả người thứ ba.
Khoa học pháp lí dùng thuật ngữ nghĩa vụ bé sung dé chỉ nghĩa vụ của người thứ ba đối với người có quyền trong quan
<small>hệ nghĩa vụ chính. Người thứ ba chỉ có nghĩa vụ khi có sự thoả</small>
thuận giữa họ với người có quyền hoặc trong những trường
<small>hợp mà pháp luật quy định.</small>
Chăng hạn, sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh là căn cứ làm xuất hiện một nghĩa vụ bổ sung. Trong
<small>trường hợp này, bên cạnh quan hệ nghĩa vụ giữa người có</small>
quyền với người có nghĩa vụ (được gọi nghĩa vụ chính) cịn có
mối quan hệ nghĩa vụ giữa người có quyền với người bảo lãnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">(gọi là nghĩa vụ bổ sung). Xét về mối liên quan giữa nó với
<small>nghĩa vụ chính thì nghĩa vụ này cịn được gọi là nghĩa vụ phụ.</small>
Vì rằng người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
người được bảo lãnh nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
<small>người có nghĩa vụ chính khơng thực hiện hoặc thực hiện không</small>
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Mặt khác, hiệu lực của loại nghĩa vụ này phụ thuộc vào hiệu lực của nghĩa vụ chính. Vi du: Nếu
hợp đồng cho vay bị coi là vơ hiệu thì vấn đề bảo lãnh cũng bị
coi là vô hiệu (trừ trường hợp hợp đồng vay tài sản đã được
<small>thực hiện).</small>
II. THAY DOI CHỦ THE TRONG QUAN HỆ NGHĨA VU Trong một quan hệ nghĩa vụ, các bên là người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ và trực tiếp hưởng quyền theo nội dung của quan
hệ ấy trong suốt quá trình kể từ khi quan hệ nghĩa vụ được xác
lập cho đến khi cham dứt hoàn toàn. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp, để tiện lợi trong việc thực nghĩa vụ hoặc vì những lí do
nhất định, các bên có thể thoả thuận cho một người thứ ba thay
thế một trong hai bên. Người thứ ba này có thể là người kế tục pháp lí về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trước (họ sẽ là người thế quyền nếu thay thế người có quyên, là người thế nghĩa vụ nếu thay thế người có nghĩa vụ). Mặt khác, người thứ ba có thể chỉ là người thực hiện nghĩa. vụ thay cho người có nghĩa vụ hoặc thực hiện quyên yêu cầu thay cho người có
<small>quyên trên cơ sở sự uy quyền của những người này.</small>
<small>Như vậy, sẽ có sự thay đổi về chủ thể của một quan hệnghĩa vụ trong những trường hợp sau đây:</small>
1. Chuyển giao quyền yêu cầu
Chuyên giao quyền yêu cầu là sự thoả thuận giữa người có
<small>quyên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với người thứ ba nhăm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">chuyển giao quyền yêu cầu cho người đó. Người thứ ba gọi là
người thế quyền trở thành người có quyền mới có quyền yêu
cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ cho mình.
<small>Chuyên giao quyền yêu cầu quy định từ Điều 365 đến Điều369 BLDS năm 2015.</small>
Như vậy, thực chất của việc chuyền giao quyền yêu cầu là người thứ ba thay thế người có quyên trước tham gia vào một quan hệ nghĩa vụ hoàn toàn với tư cách là một chủ thể. Người
đã chuyển quyền yêu cầu cham dứt quan hệ nghĩa vụ với người có nghĩa vụ. Do đó, người chun giao quyền u cầu hồn tồn
khơng phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ (trừ trường hợp có thoả thuận khác). Nếu
<small>người có nghĩa vụ khơng thực hiện, thực hiện khơng đúng,</small>
khơng đầy đủ nghĩa vụ thì người thế quyền với tư cách là người
có quyền mới được phép thực hiện các quyền yêu cầu của mình
theo quy định của pháp luật. Người chuyên quyền yêu cầu chỉ phải chịu trách nhiệm trước người thế quyền về hiệu lực của
quyền yêu cầu (quyền yêu câu có đúng pháp luật khơng, thời
hạn cịn hay da hét). Vi vay, người chuyển giao quyén yéu cau phai cung cap thong tin can thiét, chuyén giao giay to có liên
<small>quan đến quyền yêu cầu cho người thế quyền. Nếu quyền yêucâu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm kèm theo thì người</small>
chuyền giao qun u cầu phải chun giao ln biện pháp bảo
đảm đó và người thế quyên trở thành bên nhận bao dam.
Việc chuyên quyền yêu cầu có thé thơng qua hình thức viết hoặc miệng. Nếu pháp luật có quy định việc chuyên giao quyền yêu cau phải thể hiện bang văn bản, có chứng nhận của cơ quan
nhà nước có thẩm qun thì các bên phải tn theo hình thức
<small>và thủ tục đó.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Về nguyên tắc, việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ vì trong mọi trường hợp
<small>người có nghĩa vụ đều phải thực hiện đúng nội dung của nghĩa</small>
vụ đã được xác dinh. Dĩ nhiên, người chuyền quyên phải báo
<small>cho người có nghĩa vụ biết về việc chuyên giao quyền yêu cầu.Luật quy định việc thông báo này phải được thực hiện băng văn</small>
bản vì văn bản này là chứng cứ để chứng minh người có nghĩa vụ đã cham dứt nghĩa vụ với bên có quyền đồng thời là cơ sở để
người có nghĩa vụ biết được họ phải thực hiện nghĩa vụ đó với
người thứ ba. Vì vậy, nếu bên có nghĩa vụ không được thông
báo về việc chuyển giao quyền u cầu thì có quyền từ chối
việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyên. Trong trường
<small>hợp bên có nghĩa vụ do không được thông báo về việc chuyên</small>
giao quyên yêu cầu mà đã thực hiện nghĩa vụ. đối với người
<small>chuyển giao quyền yêu cầu thì người thế quyền khơng được</small>
u cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Bên có quyền u cầu không được chuyền giao quyền yêu
<small>cầu nếu các bên trong quan hệ nghĩa vụ đã thoả thuận không</small>
được chuyên giao quyền yêu cầu hoặc quyền yêu cầu đó gắn
<small>liền với nhân thân của bên có quyền như: Quyền yêu cầu cấp</small>
dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính
2. Thực hiện quyền yêu cầu thông qua người thứ ba Trong trường hợp người có quyền khơng có điều kiện để trực tiếp thực hiện qun u cầu thì có thể thông qua người
<small>thứ ba dé thực hiện quyền yêu cầu đó. Tuy nhiên, người thứ bachỉ là người nhân danh người có quyền để yêu cầu người có</small>
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì giữa người có quyền với người
<small>thứ ba phải xác lập một hợp đông uỷ quyên, trong đó xác địnhrõ về phạm vi uỷ quyên. Người có nghĩa vụ chỉ phải thực hiệnnghĩa vụ trước người thứ ba theo nội dung uỷ quyên đó.</small>
Có thê phân biệt chuyên giao quyền yêu cầu với thực hiện
<small>quyên yêu câu thông qua người thứ ba qua một sô vân đê sau:</small>
- Về nội dung của quan hệ
Chuyển giao quyền yêu cầu là một quan hệ pháp luật được
<small>hình thành từ sự thoả thuận giữa các bên thông qua một trongcác hình thức như mua bán, tặng cho, trao đơi, theo đó quyên tàisản (quyên yêu câu) được chuyên giao từ bên này sang bên kia.</small>
Thực hiện quyền yêu cầu thơng qua người thứ ba là thoả
<small>thuận giữa người có quyên yêu câu với người thứ ba, theo đó</small>
người có quyên yêu câu uỷ quyền cho người thứ ba nhân danh
<small>mình thực hiện qun u câu trước người có nghĩa vụ.</small>
<small>- Về tư cách tham gia và thực hiện quan hệ nghĩa vụ củangười thứ ba</small>
Trong trường hợp chuyền giao quyền u cầu thì nguol thir ba là bên có quyền (người mang quyền mới do được thé quyên)
<small>trước người có nghĩa vụ cịn trong trường hợp thực hiện quyềnu câu thơng qua người thứ ba thì người thứ ba (người đượcuỷ quyền) chỉ nhân danh người có quyền để yêu cầu người cónghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.</small>
- Về cơ sở thực hiện quyền yêu cầu
Trong chuyên giao quyền yêu cầu, cơ sở đhực hiện quyền yêu câu là kết quả thoả thuận chuyên giao quyền yêu cầu từ bên
<small>có quyền cho bên thế quyền được thê hiện thơng qua văn bảnhoặc các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh quyền yêu cầu đã</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">được chuyền giao và có hiệu lực. Trong thực hiện quyền yêu cầu
thông qua người thứ ba, cơ sở thực hiện quyền yêu cau là kết
<small>quả thoả thuận từ một hợp đồng uỷ quyền thường được thể hiện</small>
bằng văn bản hợp đồng hoặc theo thơng báo của người có quyền
<small>u cầu tới người có nghĩa vụ về việc uỷ quyền đó.</small>
- Về phạm vi quyền yeu cau
Trong chuyén giao quyén yéu cau, người thế quyên là chủ thể bên mang quyên nên phạm vi quyên yêu câu là toàn bộ
<small>quyền đã được chuyền giao (thường là được quyền yêu cầu bêncó nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ mà</small>
trước đó họ phải thực hiện đối VỚI bên đã chuyển giao quyền
<small>yêu cầu). Trong thực hiện quyền yêu cầu thơng qua người thứ</small>
ba thì người thứ ba chỉ được yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó trong phạm vi đã được uỷ quyên.
- Về sự ràng buộc nghĩa vụ
Khi quyền yêu cầu đã được chuyền giao thì quan hệ nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ với người có quyền chấm dứt và
phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ với bên thế quyền. Do vậy, người có nghĩa vụ chỉ thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm trước người thế quyền nếu khơng thực hiện
<small>nghĩa vụ đó.</small>
Trong thực hiện quyền u cầu thơng qua người thứ ba thì
<small>chủ thể mang quyền vẫn là bên có quyền trong quan hệ nghĩavụ nên người có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm trước bên</small>
mang quyền nếu không thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của
<small>người thứ ba.</small>
3. Chuyén giao nghia vu
<small>Chuyên giao nghĩa vụ là sự thoả thuận giữa người có nghĩavụ với người khác trên cơ sở đồng ý của người có quyền nhằm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">chuyên nghĩa vụ cho người khác. Người thế nghĩa vụ trở thành
người có nghĩa vụ mới (gọi là người thế nghĩa vụ) phải thực hiện nghĩa vụ trước người có quyền (Điều 370, Điều 371)
Như vậy, thực chất của việc chuyên giao nghĩa vụ là một
thoả thuận tay ba, theo đó người thứ ba thay thế người có nghĩa
vụ cũ dé trở thành chủ thé có nghĩa vụ mới của quan hệ nghĩa
vụ trước đó. Người có nghĩa vụ cũ chấm dứt hồn tồn quan hệ
nghĩa vụ với người có quyền. Do đó, kể từ thời điểm việc chuyên nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép
yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ dân sự. Người
đã chuyên nghĩa vụ hồn tồn khơng phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, quyền của một bên có được
<small>đảm bảo hay khơng hồn tồn phụ thuộc vào việc thực hiện</small>
nghĩa vụ của bên kia. Điều kiện, khả năng, ý thức thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ là những vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp đến việc hưởng quyền của bên có quyền. Vì vậy, nếu chun giao quyền u cầu khơng cần có sự đồng ý của người có nghĩa
vụ thì việc chun giao nghĩa vụ lại cần thiết phải có sự đồng ý
<small>của người có quyên. Ai sẽ người thay thế việc thực hiện nghĩa</small>
vụ, điều kiện, khả năng, ý thức của người đó như thế nào là
những vấn đề mà người có quyền ln ln phải quan tâm vì nó ảnh hưởng một cách trực tiếp đến việc hưởng quyền của họ.
Tuy theo từng trường hợp, việc chuyên giao nghĩa vụ có thé được xác lập băng văn bản hoặc băng miệng. Tuy nhiên, trong
trường hợp pháp luật có quy định việc chuyên giao nghĩa vụ
phải được thể hiện bằng văn bản, phải có cơng chứng hoặc
<small>chứng thực, đăng kí hoặc phải xin phép thì các bên phải tntheo quy định đó.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nếu nghĩa vụ được chuyên giao là một nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm đó đương nhiên chấm dứt
<small>(trừ trường hợp các bên khơng có thoả thuận khác).4. Thực hiện nghĩa vụ thơng qua người thứ ba</small>
<small>Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba là sự thoả thuận</small>
giữa người có quyền với người có nghĩa vụ, theo đó người có
nghĩa vụ uỷ quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa
<small>vụ dân sự.</small>
Như vậy, trường hợp này thực chất là một hợp đồng uỷ quyên nên không làm thay đổi về chủ thé của nghĩa vụ (người
thứ ba chỉ là người nhân danh người có nghĩa vụ dé thay họ thực
hiện nghĩa vụ trước người có quyên). Do đó, người thứ ba trong
<small>trường hợp này chỉ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung uỷquyên. Người có nghĩa vụ (người uy quyên) vẫn phải chịu tráchnhiệm trước người có quyền nếu người thứ ba không thực hiện,thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ dân sự.</small>
IV. XÁC LẬP, CHAM DUT NGHĨA VU
<small>1. Xác lập nghĩa vụ</small>
<small>Theo quy định của pháp luật hiện hành, nghĩa vụ được xáclập theo một trong các căn cứ sau đây:</small>
1.1. Hợp đồng dân sự
Nghĩa vụ dân sự được phát sinh khi các chủ thê thiết lập
<small>với nhau một hợp đông dân sự. Vi du: Hai bên giao kêt hợp</small>
đồng mua bán tài sản thì tại thời điểm hợp đồng đó được coi là
<small>có hiệu lực pháp luật sẽ làm hình thành giữa hai bên các nghĩa</small>
vu giao vật, trả tiền v.v.. Tuy nhiên, hợp đồng dân sự chỉ làm
phát sinh nghĩa vụ nếu đó là một hợp đồng có hiệu lực (các bên
giao kết hợp đồng phải tuân theo các điều kiện mà pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">quy định đối với một hợp đồng).
Trong thực tế, khi hợp đồng vơ hiệu, các bên có nghĩa vụ
<small>phải hồn trả cho nhau những gì đã nhận (trừ trường hợp tài</small>
sản là đối tượng của hợp đồng và các khoản lợi có được từ hợp
đồng bị tịch thu theo quy định của pháp luật). Vì vậy, có quan
điểm cho rằng, hợp đồng vô hiệu cũng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên. Tuy nhiên, chúng tơi cho rằng các bên phải hồn trả cho nhau những gi đã nhận khi hợp đồng vô hiệu là nghĩa vụ phát sinh từ quy định của pháp luật về giải quyết
hậu quả của một hợp đồng vô hiệu. Nghĩa vụ này hồn tồn
<small>khơng phải là sự thoả thuận giữa các bên nên không phải là</small>
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
<small>1.2. Hành vi pháp li đơn phương</small>
Hành vi pháp lí đơn phương là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc
dân sự, trong đó chỉ biểu hiện ý chí đơn phương của một bên.
<small>Vì vậy có làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ dân sự hay</small>
khơng cịn phụ thuộc vào sự tiếp nhận ý chí này của những người khác (những người sẽ là chủ thể phía bên kia của giao
<small>dịch dân sự đó).</small>
<small>Hành vi pháp lí đơn phương chỉ làm phát sinh một nghĩa vụ</small>
khi ý chí đã thé hiện trong đó khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đồng thời nếu sự thé hiện ý chí đó có kèm theo một số điều kiện nhất định thì chỉ khi nào những người khác thực hiện
đúng các điều kiện đó mới làm phát sinh nghĩa vụ giữa các bên. 1.3. Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi vé tai sản khơng
<small>có căn cứ pháp luật</small>
<small>Việc chiêm hữu, sử dụng tài sản của một người chỉ được</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">pháp luật thừa nhận và bảo đảm nếu người đó là chủ sở hữu của tài sản hoặc là người được chủ sở hữu chuyên giao quyền chiếm hữu, sử dụng thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu hay người đó là người được phép chiếm
<small>hữu, sử dụng tài sản trong các trường hợp do pháp luật quy</small>
định. Vì vậy, ngồi những người nói trên, việc chiếm hữu, sử
<small>dụng tài sản sẽ bi coi là khơng có căn cứ pháp luật va do đó sẽ</small>
làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ mà trong đó, người chiếm hữu, sử dụng tài sản có nghĩa vụ phải trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Nghĩa vụ hoàn trả do được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật phát sinh ké từ khi người được lợi có khoản lợi đó trong tay. Từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc được
<small>lợi thì phải hồn trả khoản lợi mà mình đã thu được.1.4. Gây thiệt hai do hành vi trai pháp luật</small>
<small>Khi một người thực hiện một hành vi trai pháp luật xâm</small>
trong đó người có những hành vi nói trên có nghĩa vụ phải bồi
<small>thường thiệt hại do mình gây ra cho phía bên kia. Nghĩa vụ này</small>
cịn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Về
một nghĩa vụ dân sự vì trong đó có thể hiện q trình dịch chun lợi ích vật chất từ chủ thể này sang chủ thể khác. Khoản lợi ích mà người có hành vi trái pháp luật phải bồi
(tiền hoặc lợi ích vật chất khác).
Về hình thức, quan hệ bồi thường thiệt hại là một trách
nhiệm dân sự, một dạng cụ thể của trách nhiệm pháp lí nói
<small>dưới dạng một trách nhiệm dân sự, phải do cơ quan nhà nước</small>
có thẩm quyền áp dụng bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
<small>nước. Trong đó, người có hành vi trái pháp luật phải gánh chịu</small>
một hậu quả bắt lợi về tài sản.
1.5. Thực hiện công việc khơng có uy qun
Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là việc một người
<small>khơng có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyệnthực hiện công việc đó hồn tồn vì lợi ích của người khác khi</small>
người có cơng việc được thực hiện khơng biết hoặc biết mà
khơng phản đối.
Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là căn cứ làm phát
<small>sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa người thực hiện công việc vớingười được thực hiện cơng việc, trong đó người được thực hiệncơng việc có nghĩa vụ thanh tốn các chi phí hợp lí mà người</small>
thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền đã bỏ ra để thực hiện
công việc đồng thời phải trả thù lao cho người thực hiện công
việc. Tuy nhiên, nếu người đã thực hiện công việc không yêu cầu thanh tốn cũng như khơng u cầu trả thù lao thì người
<small>được thực hiện công việc không phải thực hiện các nghĩa vụ này.</small>
Nếu một người thực hiện một công việc vì lợi ích của người
khác nhưng cơng việc đó khơng phù hợp với mong muốn của
<small>người được thực hiện công việc sẽ khơng làm phát sinh nghĩa vụthanh tốn, trả thù lao ở người được thực hiện công việc.</small>
<small>1.6. Những căn cứ khác do pháp luật quy định</small>
<small>Ngoài việc được xác lập khi có một trong năm căn cứ đãnêu trên, nghĩa vụ dân sự còn được xác lập trong các trườnghợp khác nếu pháp luật có quy định. Chăng hạn, nghĩa vụ dânsự có thé được xác lập từ một bản án, quyết định của tòa ánhoặc từ một quyết định của cơ quan nhà nước có thâm quyên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">2. Cham dứt nghĩa vụ
<small>2.1. Nghĩa vụ được hoàn thành</small>
<small>Nghĩa vụ được coi là hoàn thành khi bên có nghĩa vụ đã thực</small>
hiện tồn bộ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyên hoặc theo sự xác định của pháp luật. Tại thời điểm nghĩa vụ được coi là hoàn thành sẽ chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa các bên.
người có quyền chậm tiếp nhận vật thì người có nghĩa vụ phải
<small>bảo quản, giữ gìn vật hoặc gửi vật vào nơi nhận gửi giữ. Nghĩa</small>
vụ giao vật được coi là hoàn thành tại thời điểm vật đã được gửi giữ an toàn và bảo đảm về chất lượng, số lượng cũng như các điều kiện khác mà các bên đã thoả thuận.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một khoản tiền hoặc giấy tờ trị giá được băng tiền mà người có quyền chậm tiếp nhận đối
tượng thì người có nghĩa vụ có thé gửi vào nơi nhận gửi giữ nhưng phải thông báo ngay cho bên có quyén. Từ thời điểm gửi
<small>giữ, nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành.2.2. Theo thoả thuận cua các bên</small>
Xuất phát từ nguyên tắc: "7 do, nguyện cam kết, thoả
sự của các chủ thé, pháp luật cho phép các bên có thé thoả thuận dé chấm dứt nghĩa vụ. Tuy nhiên, việc thoả thuận đó khơng được gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, qun, lợi ích hợp pháp của người khác.
<small>Căn cứ này thường được áp dụng trong những quan hệ</small>
nghĩa vụ mà trong đó, các bên chủ thé đều có nghĩa vụ đối với nhau. Tồn bộ mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
<small>được coi là chấm dứt tại thời điểm mà các bên đã thoả thuậnxong việc không thực hiện nghĩa vụ.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">2.3. Bên có quyên miễn việc thực hiện nghĩa vụ
<small>Căn cứ này thường được áp dụng trong những quan hệnghĩa vụ mà một bên chủ. thé chỉ có quyền cịn bên kia chỉ cónghĩa vụ. Do đó, việc miễn hay khơng, trước tiên là do ý chí</small>
của người có quyền. Tuy nhiên, ý chí đó phải được sự tiếp
<small>nhận của phía bên kia. Quan hệ nghĩa vụ sẽ chấm đứt tại thờiđiểm người có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ.</small>
<small>Những biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ cũngđược cham dứt khi người có quyền đã miễn việc thực hiệnnghĩa vụ đó.</small>
Nếu việc miễn thực hiện nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến lợi
ích của người khác thì khơng được coi là căn cứ làm chấm dứt
<small>nghĩa vụ.</small>
Vi du: Người bị thiệt hai về sức khoẻ khơng cịn khả năng
lao động miễn việc bồi thường cho người gây thiệt hại nhưng phần bồi thường dé nuôi dưỡng con chưa thành niên của người
bị thiệt hại không được miễn.
2.4. Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác
Các bên có thé thoả thuận dé cham dứt nghĩa vụ ban đầu và
<small>thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận mới. Căn cứ này cịn được</small>
gọi là sự đơi mới nghĩa vụ.
Thơng qua sự thoả thuận các bên có thé làm hình thành một
<small>nghĩa vụ hồn tồn mới so với nghĩa vụ trước đó (ví du: Các</small>
bên thoả thuận cham dứt nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng mua bán và nghĩa vụ đó được thay thế bằng nghĩa vụ của người vay
trong hợp đồng cho vay). Mặt khác, có thé các bên chỉ thoả
thuận về việc thay thế đối tượng của nghĩa vụ đã được xác định
trước bằng một đối tượng khác. Vì vậy, nếu người có quyền đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">đồng ý và tiếp nhận một tài sản hoặc một công việc khác thay
thế cho tài sản hoặc cơng việc đã thoả thuận trước thì tại thời
điểm tiếp nhận, nghĩa vụ được coi là chấm dứt.
<small>2.5. Nghĩa vụ được bù trừ</small>
Bù trừ nghĩa vụ là căn cứ để chấm dứt nghĩa vụ trong những trường hợp cả hai bên cùng có nghĩa vụ đối với nhau về
một đối tượng cùng loại và đều đã đến thời hạn thực hiện.
<small>Như vậy, việc bù trừ nghĩa vụ chỉ được thực hiện khi có đủ</small>
yếu tố:
- Các chủ thé trong quan hệ nghĩa vụ đều có yêu cầu đối nhau:
<small>Bu trừ nghĩa vụ chỉ được thực hiện trong những trường hop</small>
các bên trong một quan hệ nghĩa vụ đều có yêu cầu đối với
nhau. Bên nay là bên có quyên trong quan hệ nghĩa vụ hiện tai nhưng lại là bên có nghĩa vụ trong một quan hệ khác. Chắng
hạn, bên được bồi thường trong quan hệ về bồi thường thiệt hại
vốn là bên phải trả nợ vay trước đó mà bên cho vay là bên phải bồi thường thiệt hai trong quan hệ bồi thường này.
<small>- Nghĩa vụ của hai bên phải cùng loại:</small>
của nghĩa vụ là tài sản cùng loại. Tuy nhiên các bên có thê thoả
thuận để định giá một vật thành tiền để bù trừ với nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp giá trị của đối tượng khơng tương
<small>đương với nhau thì sau khi bù trừ các bên phải thanh toán cho</small>
nhau phần giá trị chênh lệch. Tại thời điểm thanh toán xong khoản chênh lệch, nghĩa vụ mới được coi là chấm dứt.
- Khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đều đã đến:
Có thé các bên đều có nghĩa vụ đối với nhau nhưng nếu chỉ
một nghĩa vụ đến thời hạn phải thực hiện còn nghĩa vụ kia
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">chưa đến thì các bên cũng khơng được thực hiện việc bù trừ
<small>nghĩa vụ, trừ trường hợp có thoả thuận khác.</small>
<small>Ngồi việc phải có đủ các điệu kiện trên việc bù trừ nghĩa vụmới được thực hiện, pháp luật hiện hành còn quy đính khơngđược bù trừ nghĩa vụ dân sự trong những trường hợp sau đây:</small>
- Nghia vụ đang có tranh chap;
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
- Nghia vụ cấp dưỡng:
<small>- Trong những trường hợp khác mà pháp luật đã quy định làkhơng được bù trừ.</small>
2.6. Bên có qun và bên có nghĩa vụ hịa nhập làm một Trong thực tẾ, có những trường hợp khi xuất hiện một sự
<small>kiện sẽ làm cho một người đang có nghĩa vụ trở thành người có</small>
quyền đối với chính nghĩa vụ đó. Chăng hạn, một người đang
có nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền nhưng họ lại trở thành người
được đòi nợ khoản tiền đó do người chủ nợ chết mà người có
nợ lại là người thừa kế duy nhất của người chết.
<small>Trong quan hệ nghĩa vụ giữa pháp nhân với nhau, trường</small>
hợp trên xảy ra khi có sự hợp nhất hay sáp nhập giữa pháp nhân có nghĩa vụ với pháp nhân có quyên.
2.7. Nghĩa vụ cham ditt khi thời hạn khởi kiện đã hết
Trong thời hạn do pháp luật quy định, người có quyền khơng khởi kiện u cầu thực hiện nghĩa vụ, khi hết thời hạn
đó, nghĩa vụ dân sự đương nhiên chấm dứt dù người có nghĩa
<small>vụ chưa thực hiện nghĩa vụ đó.</small>
2.8. Nghĩa vụ chấm dứt khi một bên trong quan hệ nghĩa
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">vụ chết
<small>Thông thường, một bên trong quan hệ nghĩa vụ là cá nhânchêt thì những quyền và nghĩa vụ của họ được chuyên giao chongười thừa kê. Người thừa kê được hưởng các quyên dân sự</small>
mà người này dé lại đồng thời phải thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản đối với những người khác. Tương tự như vậy, nếu một bên trong quan hệ nghĩa vụ là pháp nhân chấm dứt sự tồn tại thì quyền và nghĩa vụ dân sự của nó được chuyền giao cho pháp nhân mới hợp nhất hoặc mới sáp nhập.
Tuy nhiên, khi cá nhân trong một quan hệ nghĩa vụ chết
<small>hoặc pháp nhân châm dứt thì nghĩa vụ dân sự châm dứt trongcác trường hợp sau đây:</small>
- Nếu các bên có thoả thuận nghĩa vụ phải do chính bên có
<small>nghĩa vụ thực hiện thì khi cá nhân đó chêt hoặc pháp nhân đó</small>
cham dứt sự tồn tại, nghĩa vụ dân sự sẽ cham dứt.
- Khi pháp luật quy định về việc nghĩa vụ phải do chính
<small>người có nghĩa vụ thực hiện. Vi du: Nghĩa vụ cap dưỡng cham</small>
dứt khi người phải cấp dưỡng chết.
- Khi các bên thoả thuận về việc thực hiện nghĩa vụ chỉ
<small>dành cho chính người có qun mà người có qun đã chêthoặc pháp nhân châm dứt tơn tại.</small>
2.9. Nghĩa vụ cham dứt khi đối tượng là vat đặc định
<small>khơng cịn</small>
Trong thực tế, khi đối tượng được xác định trong nội dung
<small>của quan hệ nghĩa vụ là một vật đặc định thì người có nghĩa vụgiao vật phải giao đúng vật đó. Vì vậy, khi vật đó khơng cịn thìnghĩa vụ phải giao vật đặc định châm dứt. Tuy nhiên, các bên cóthê thoả thuận dé thay thê vật khác hoặc bôi thường thiệt hại.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Như vậy, thực chất khi vật đặc định khơng cịn chỉ là căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ giao đúng vật. Nó khơng phải là căn
cứ làm cham dứt hoàn toàn nội dung của nghĩa vụ dân sự.
2.10. Cham diet nghĩa vụ trong trường hop pha sản
Pháp nhân chấm dứt do bị tuyên bố phá sản. Đây là một căn cứ mà theo đó pháp nhân hồn tồn chấm dứt sự tồn tại của mình (chấm dứt tuyệt đối). Do vậy, nó cũng là căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ dân sự trong những trường hợp mà pháp luật về phá sản quy định.
V. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
<small>1. Khái niệm thực hiện nghĩa vụ</small>
Một trong những đặc trưng cơ bản của nghĩa vụ là tính chất tương ứng và đối lập nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do vậy, quyền lợi của bên này chỉ đạt được khi bên kia thực
<small>hiện các hành vi mang tính nghĩa vụ đã được hai bên xác định</small>
hoặc pháp luật quy định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy.
Ké từ khi một quan hệ nghĩa vụ được thiết lập (từ hợp đồng
dân sự hoặc từ các căn cứ khác), các bên có nghĩa vụ đối với
nhau. Nghia vụ này có thé là một hành vi, có thé gồm nhiều
hành vi khác nhau. Các hành vi đó có thé phải tiến hành cùng
một lúc, vào cùng một thời điểm hoặc có thé được tiến hành theo một quá trình trong một thời hạn nhất định.
Việc thực hiện nghĩa vụ diễn ra như thế nào phụ thuộc vào nội dung và tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể. Tuy nhiên, có thé khái quát việc thực hiện nghĩa vụ dân sự như sau:
<small>Thực hiện nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ phải làm hoặc</small>
khơng được làm một công việc theo một thời hạn nhất định đã
<small>được xác dinh trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ, qua đó thoả</small>
</div>