Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Quyển 1): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.93 MB, 165 trang )

P G S . T S . B I N H V Ã N T H A N H (C h ủ h iên )
T S . P H Ạ M V Ă N T U Y Ế T ___________________

GIÁO TRÌNH

Luật dân sự
\iệ t Nam
(Q U V Ể 1 \ 1 )

NHÀ XU ẤT BẢN GIÁO DUC VIÊT NAM


PGS. TS. ĐINH VĂN THANH (Chủ biên)
TS. PHẠM VÃN TUYẾT

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN Sự VIỆT NAM




I

(QUYỂN 1)
(Tái bản lần thứ nhất)

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN





Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam giữ quyển công bô' tác phẩm.
59-2011/CXB/16-93/GD

Mã số : DZK.01b 1-ĐTH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




L Ờ I G IỚ I T H IỆ U
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
pháp luật dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để các chủ thể xác lập,
thục hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cẩu vật chất
trong sinh hoạt, tiêu dùng hoặc trong sản xuất, kinh doanh. Đây là những
quan hệ xã hội có tính chất phổ biến trong cuộc sống của mỗi người dân,
của mỗi cơ quan, tổ chức trong hoạt động quản lý hoặc trong sản xuất,
kinh doanh.
Xác định được ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự trong việc
thúc dẩy nền kinh tê' - xã hội phát triển, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá
IX, Quốc hội nuớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua
Bộ luật dân sự ngày 28 tháng 10 năm 1995 (có hiệu lực thi hành từ ngày
1 tháng 7 năm 1996). Sau gần mười năm thực hiện, tại kỳ họp thứ 7 Quốc
hội khoá XI, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua Bộ luật dân sự mới, ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có hiệu lực thi hành
từ ngày 1 tháng 1 năm 2006). Với ý nghĩa đó, Điều 1 Bộ luật dân sự năm
2005 tiếp tục quy định: "Bộ luật dân sụ có nhiệm vụ bào vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cùa cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng,
bào đàm sự bìnlĩ đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dàn sự, góp phàn
tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thán cùa nhân dán,
thúc đẩy sự phát triển kinh t ế - x ã h ộ i,ậ.
Bộ luật dân sụ nãm 2005 đã tiếp tục pháp điển hoá một bộ phận
quan trọng các quan hệ xã hội trong lĩnh vục tài sản và nhân thân, tạo cơ
sở pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy dân
chủ và bảo đảm công bằng, quyền con người vé dân sự; quy định địa vị
pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thê khác trong giao lưu dãn
sự; xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách úng xử cùa các chủ thể khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Từ kết quả khảo sát tình hình thực thi
các quy định trên thực tế, Bộ luật dàn sự năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung
nhũng quy định không còn phù hợp, sửa đổi nhũng quy định còn mang
tính chất chung chung; loại bò các quy định mang tính chất hành chính
trong quan hệ dãn sự (tại những phần tircmg úma); sứa đổi những bất cặp.
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




mâu thuẫn liên quan đến các đạo luật khác như quy định về quyẻn sử
dụng đất của cá nhân, tổ chức và viộc chuyển quyển sử dụng đất theo
Luật đất đai năm 2003; các quy định liên quan đến đối tượng sờ hữu công
nghiệp; sửa đổi để bảo đảm tính tương thích với các điéu ước quốc tế,
thông lệ, tập quán quốc tế, nhất là các quy định vẻ hợp đổng, sờ hữu trí
tuệ và chuyển giao công nghệ.
Là một bộ luật lớn, có tới 777 điều luật và với những đặc trung
riêng vẻ đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, nên nếu chỉ đọc

Bộ luật dân sự thì sẽ khó có thể hiểu toàn bộ các quy định trong Bộ luật
và sẽ khó khăn trong vận dụng cũng như áp dụng. Khoa học Luật dân sự
không chỉ là những quy định cụ thể trong từng điẻu luật mà còn có sự liên
quan, chi phối của ngay chính các điểu luật trong Bộ luật dân sự và trong
các vãn bản pháp luật có liên quan được Bộ luật dân sự dẫn chiếu.
Nhằm dáp ứng kịp thời nhu cầu học tập của học viên hệ Đào tạo từ
xa và những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy quan tâm, Viện
Đại học Mở Hà Nội tổ chức biên soạn cuốn "Giáo trình Luật dân sự Việt
N a m ’’ theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp
luật có liên quan. Tham gia biên soạn giáo trình là những giảng viên có
kinh nghiệm và đã giảng dạy nhiẻu năm tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Do mục đích ban đẩu, giáo trình được biên soạn cho đối tượng học
viên hệ từ xa là chủ yếu. Tuy nhiên, cuốn giáo trình này cũng rất bổ ích
đối vói sinh viên hộ đào tạo chính quy và các hộ đào tạo tập trung khác.
Mặc dù đã có nhiẻu cô' gắng trong quá trình biên soạn, tập thể
tác giả không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các dộc giả, học viên, và các đồng nghiộp để
chỉnh lý cho lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn.

NHÓM TÁC GIẢ

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Chương I


KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT DÂN SựVIỆT NAM
A. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA
LUẬT DAN

s ự v iệ t n a m

I. K H Á I Q U ÁT CH U N G VỂ PH Á P LUẬT DÂN s ự
Bộ luật dân sự dầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá IX thông qua toàn văn ngày 28 tháng 10 năm 1995
với 838 điều luật (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996 được công bố theo Lệnh
của Chủ tịch nước số 44/L-CTN ngày 9/11/1995). Bộ luật này dã được thay thế,
ban hành mới tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 được công bô' theo Lệnh của Chủ tịch nước
số 06/2005/L-CTN ngày 27/6/2005) vẫn là một đạo luật thành văn lớn nhất trong
hệ thống pháp luật Việt Nam với 777 điều luật. Theo một nghĩa rộng, pháp luật
dân sự còn bao gồm cả một phần Luật đất đai, Luật thương mại, Luật ngân hàng
(phần liên quan đến việc vay và cho vay), Luật lao động... Trong quá trình điều
chỉnh các quan hộ tài sản với những tính chất đặc trưng riêng thì Luật dân sự có
thể được xem là “đạo luật gốc”, quy định các nguyên tắc cơ bản. Các vấn đề cơ
bản nhất được quy định trong Bộ luật dân sự nhưng Luật dân sự còn bao gồm cả
một hệ thống các văn bản pháp luật của nhũng cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Quy định, giải thích, hướng dẫn áp dụng về một vấn đề cụ thể nào đó trong quá
trình thực hiện. Vì vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ liên quan nhiều đến các văn bản này. Theo sách “Chỉ dẫn
áp dụng các quy định khác của Bộ luật dân sự” của Viộn nghiên cứu khoa học
pháp lý-Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2000 thì các văn bản
pháp luật có liên quan này được in trong một cuốn sách có độ dày đến 2.280 trang.
Khi tìm hiểu khái quát chung về pháp luật dân sự nói riêng, trước hết cần
hiểu: Luật dân sự chi điều chỉnh các mối quan hệ của con người với nhau trong
cuộc sống hàng ngày, các quan hệ vể đời sống, sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất,

kinh doanh... Mối quan hộ trao đổi giữa các chủ thể dựa trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng, tự do ý chí luôn là trọng tâm và là nền tảng cho sự tồn tại của xã hội. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, Luật dân sự ngày càng có vai trò và ý nghĩa quan
trọng trong đời sống xã hội, nhất là từ khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) ngày càng tăng. Theo số
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




liệu đuợc công bố trên các phương tiộn thổng tin đại chúng tại trang webtintuconline, vietnamnet/vn/vn/kinhte/182209 ngày 20/1/2008 thì dòng vốn FDI
năm 2007 đầu tu trực tiếp vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, dự kiến năm 2008 có thể
dao động từ 21-25 tỷ USD.
Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất đặc trưng và sự cần thiết
phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật dân sự với nhóm quan hệ xã hội là một vấn
đề không thể thiếu trong một nền kinh tế hàng hoá. Đây là cơ sở để thực hiện mục
đích duy trì, phát triển quan hệ xã hội trong các lĩnh vực tài sản, nhân thân và quan
trọng là duy trì một “trật tự pháp lý” trong trao đổi hàng hoá, lưu thông dân sự.
Nhà nước "với bản chất là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng
chế” 1cao nhất sử dụng pháp luật để duy trì xã hội trong một trật tự nhất định cũng
chỉ là để bảo đảm cho các hoạt động của các chủ thể trong đòi sống xã hội được
tiến hành bình thường trong sự bảo đảm ổn định, an toàn pháp lý, trong đó có quan
hệ trao đổi hàng hoá - tiền tệ.
Không ai có thể phủ nhận rằng, con người (với tính cách là một thực thể
trong đời sống xã hội) muốn tồn tại và phát triển lại không cần đến những điểu
kiện sinh hoạt nhất định. Đó là những điều kiện vật chất thiết yếu bảo đảm cho sự
sinh tồn như: Lương thực, thực phẩm để ãn; nhà để ở; các phương tiện đê’ đi lại;
các phương tiện thông tin, liên lạc; các hoạt động giải trí, dịch vụ... Các điều kiện

vật chất, tinh thẩn ngày càng phong phú và đa dạng cùng vói sự phát trién của xã
hội, của nền sản xuất hàng hoá và với nền vẫn minh tiến triển không ngừng, nhằm
thoả mãn và đáp ứng các nhu cầu của con người trong suốt quá trình tồn tại. Muốn
thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng trong một xã hội văn minh, các chủ thể
phải thoả thuận, xác lập với nhau những giao dịch dân sự nhất định để đạt đuợc
mục đích đó.
Trong một cộng đổng xã hội có sự phân công lao động ngày càng cao, cùng
với sự tiến bộ không ngừng trong việc áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật,
con người đã tạo ra một khối lượng vật chất ngày càng nhiều cho xã hội. Song
song với việc tạo ra một khối lượng của cải vật chất đó, nhu cầu về cuộc sống của
mỗi con người cũng ngày càng đa dạng, phong phú và không ngừng được nâng
cao. Mỗi cá nhân muốn thoả mãn các nhu cầu mọi mặt về vậl chất, tinh thần văn
hoá; thoả mãn các nhu cẩu trong sản xuất, kinh doanh hoặc phục vụ sinh hoạt tiêu
dùng... phải thông qua các hoạt động trao đổi, giao dịch với những cá nhân, tổ
chức khác trong xã hội. Nghĩa là, họ phải thiết lập những quan hệ với cá nhân tổ
chức khác bằng những quan hệ dân sự. Thông qua các quan hệ đó, các cá nhân và
các chú thể mới có thê’ thoả mãn các nhu cầu cùa mình.
( ] ) Xem: G iáo trình Lý luận N h à nước và p h á p luật, Trường Đ ại học L uật H à Nội N X B C ông an
nhãn dân năm 2000. tr. 203.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Ví dụ: Để thoả mãn nhu cầu vể chỗ ờ, cá nhân đó phải tham gia vào quan hệ
mua bán nhà hoặc thuê nhà... Để thoả mãn nhu cầu tồn tại như: ăn, uống, quần áo
mặc cá nhân đó phải tham gia những quan hệ mua bán, trao đổi sản phẩm ở các

quầy hàng lương thực, thực phẩm hoặc ở các siêu thị, chợ thị trường tự d o... Khi
cần vốn để sản xuất, kinh doanh nếu chủ thể là doanh nghiệp phải tham gia các
quan hệ vay tại các tổ chức Ngân hàng, tín dụng; trong quá trình sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội phải có những giao dịch cung ứng sức lao động, nguyên
liệu, vật liệu, hoá chất v.v...
Trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta đều thấy rằng, đối với những
quan hệ trao đổi tài sản giản đơn, giá trị trao đổi không lớn, thông thường được
thực hiện theo thói quen và tập quấn. Đối với những quan hệ trao đổi này thường
được thực hiện trực tiếp bằng lời nói khi thoả thuận, cam kết giữa các chú thể và
rất ít khi xảy ra tranh chấp. Nhưng đối với tài sản có giá trị lớn, việc trao đổi phức
tạp (thường có đối tượng là bất động sản) thì pháp luật phải quy định các trình tự,
thú tục nhất định, nhằm hướng dẫn và buộc các bên tham gia quan hệ đó phải tuân
theo để bảo đảm sự ổn định và an toàn pháp lý các quan hệ đó.
Việc quy định của Luật dân sự Irong các chế định cụ thê đểu nhằm mục đích
"Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xứ của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thê' về nhân thân và
tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, lợi ích cùa Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn
pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điểu kiện đáp ứng nhu cẩu vật chất và
tinh thần cúa nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Điều 1 Bộ luật
dân sự năm 2005).
Đẽ’ điều chinh nhũng quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân, nhằm duy
trì chúng theo một trật tự nhất định, Nhà nước ban hành các quy tắc xử sự hoặc thừa
nhận những xử sự theo tập quán tiến bộ và được Nhà nước bảo đàm thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế. Các quy tắc xứ sự được Nhà nước ban hành hay thừa nhận
nhằm điểu chính các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được gọi là quy phạm
pháp luật dãn sự. Thông qua sự tác động của các quy phạm pháp luật dân sự đối với
các quan hệ xã hội, sẽ làm cho các quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật dân

sự. Đây là căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ tài sản và một sô
quan hệ nhân thân theo một trình tự và theo một sự dự liệu nhất định.
Vì vậy, pháp luật dân sự là tống hợp những nguyên tắc và các quy phạm có
nhiệm vụ điều chinh các quan hệ tài sản về sở hữu. về nghĩa vụ dân sự và hợp
đổng dân sư. thừa kế, chuyên quyển sử dụng đất, quvền sở hữu trí tuệ và chuyển
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




giao công nghệ, một số quan hệ vể nhân thân. Pháp luật dân sự còn quy định địa vị
pháp lý của từng loại chủ thể, cách thức ứng xử và những giới hạn ứng xử của từng
loại chủ thể trong các giao dịch dân sự.
Là một ngành luật độc lập trong một hệ thống pháp luật thống nhất nhưng
pháp luật dân sự không mang tính chất “trừng trị”, “răn đe” không bắt buộc các
chủ thể nhất thiết phải tuân theo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh hoặc là một sự
cấm đoán tuyệt đối; tính chất “cưỡng chế” trong Luật dân sự cũng có những đặc
trưng riêng. Sự tuỳ nghi trong cam kết, thoả thuận của các chủ thể nhằm xác lập
những quyền, nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự được Nhà nước tôn trọng
và luôn được sự bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong nhiều trường hợp, với
tính chất là một quy phạm pháp luật nhưng nó lại có nội dung hướng dẫn, chì dẫn
để các chủ thể khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự biết và làm theo, bao gổm cả
việc thỏa thuận chế tài hoặc trách nhiệm trong những trường hợp cần thiết.
Do đó, pháp luật dân sự - vói tính chất là một ngành luật độc lập, có đối
tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh với những nét đặc trưng riêng và mang
tính chất bao quát phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ để điều chỉnh những nhóm
quan hộ xã hội nhất định.


I I ễ ĐỐI TƯỢNG Đ IỂU C H ỈN H CỦA LU Ậ T DÂN s ự V IỆ T NAM
1.

K hái niệm

Theo truyền thống và theo thông lệ trong khoa học pháp lý, mỗi ngành luật
đều có đối tượng nghiên cứu và đối tượng điểu chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh
của một ngành luật là những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Đó là nhóm quan hệ
giữa “người với người” có những tính chất và nội dung tương tự. Nhóm quan hộ xã
hội giữa “người với nguời” đó gọi là đối tượng điều chỉnh của một ngành luật nhất
định. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là một trong những tiêu chí cơ bản
để phân định các ngành luật khác nhau trong một hệ thống pháp luật.
Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự-theo khoa học Luật dân sự, là những
nhóm quan hệ xã hội giữa “người với người”, phát sinh trong cuộc sống hàng
ngày. Đó là nhóm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình
sản xuất, phân phối, lưu thông, trao dổi, tiêu dùng... nhằm thoả mãn những nhu
cầu mọi mặt của các chủ thể trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong sinh hoạt, tiêu
dùng của đời sông xã hội. Đây là những quan hệ rất phức tạp và đa dạng trong
cộng đồng xã hội.
Khác với những môn khoa học pháp lý khác, khi nghiên cứu về quan hệ giữa
“người với người” trong lĩnh vực tài sản và nhân thân, Luật dân sự nghiên cứu các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân tương đối toàn diện và mang tính chất tổng
thể; xác định địa vị pháp lý của từng loại chủ thể khác nhau trong các quan hệ đó.
Đối tượng nghiên cứu của Luật dân sự là những vấn đề có tính chất chung, cơ bản

của một ngành luật “gốc”, có cơ chế điéu chinh, nguyên tắc áp dụng và vói những
quy luật riêng.
Phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự trong đời sống xã hội rất
phong phú và đa dạng. Tại đoạn 1 Điều 1 Bộ luật dân sự đã xác định phạm vi điều
chỉnh của Luật dân sự khá bao quát là quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý
cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, gọi chung là quan hệ dân sự.
2. C ác nhóm đối tượng điều chinh
Theo truyẻn thống và theo thông lệ nếu xét dưới góc độ quan hệ xã hội giữa
“người vói người", khoa học pháp lý phân chia pháp luật dân sự điểu chỉnh hai
nhóm quan hệ cơ bản sau dây:

a. Quan hệ tài sản
* Khái niệm
Quan hộ tài sản trong giao lưu dân sự là quan hệ giữa người với người thông
qua một tài sản nhất định như: Tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng hoặc các quyền
về tài sản. Quan hệ tài sản trong Luật dân sự bao giờ cũng gắn liền với một tài sản
hoặc một quyền tài sản nhắt định, trừ một sô' ngoại lệ nhất định. Quan hệ tài sản
trong Luật dân sự là nhóm quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất của giao lưu dân sự.
* Đặc điểm
Xuất phát từ những đặc thù của giao lưu dân sự, quan hệ tài sản do pháp luật
dân sự điều chinh có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Quan hệ tài sản quy định trong Luật dân sự rất phong phú, đa dạng và có
nhiều loại quan hệ có tính chất khác nhau. Theo nghĩa rộng và đầy đủ, nó không
chỉ được ghi nhận dưới góc độ sở hữu mà còn bao gồm cả nhũng quyền, nghĩa vụ
tài sản phát sinh trong quá trình trao đổi, lưu thông được các chủ thể thực hiện
thông qua các giao dịch dân sự. Nghĩa là, quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự
được quy định và ghi nhận trong trạng thái “tĩnh tại” và cả trong trạng thái “vận
động” của lưu thông dân sự.

Chù thê tham gia vào các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh cũng đa
dạng, bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác... Trong một sô trường
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




hợp, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có thể là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự nhưng với tư cách là một chủ thể đặc biệt.
Phạm vi các quan hệ tài sản trong Luật dân sự bao gồm: Các quan hệ vể sờ
hữu; các quan hệ vẻ mua bán, trao đổi, cho vay, cho thuê... các tư liệu sản xuất, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu dùng; các quan hệ vẻ dịch vụ như: Gửi giữ, vận chuyển
hành khách, vận chuyển hàng hoá, gia công; các quan hệ vẻ uỷ quyền, về bảo
hiểm; các quan hệ là những giao dịch một bên (còn gọi là hành vi pháp lý đơn
phương) như: Thừa kế, hứa thưởng và thi có giải v.v...
Trong điều kiện hiện nay, hàng hoá còn có thể được hiểu là: Sức lao động,
các giấy tờ có giá trị, các quyền tài sản... (bao gồm cả quyên tài sản trong các
quan hệ vể sờ hữu, hợp đồng; trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và chuyển giao công
nghệ).
- Quan hệ tài sản trong Luật dân sự luôn gắn với quan hệ sản xuất và bị
quan hệ sản xuất chi phối. Mặc dù vậy, quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự
không phải chỉ là quan hệ có tính chất “vật chất thuần tuý” mà còn có tính chất ý
chí. Mỗi quan hệ tài sản cụ thể trong Luật dân sự luôn phản ánh ý chí, nguyện
vọng, mong muốn của chù thể; phản ánh những mục đích và động cơ nhất định
cúa chù thể khi tham gia quan hệ dân sự. Do dó, các quan hệ tài sản trong Luật
dân sự luồn luôn có tính chất ý chí. Điểu đó dược thể hiện trong các quan hệ dân
sự là: Trước hết, quan hệ tài sản luôn phản ánh và ghi nhận ý chí của các chủ thể
tham gia trong tất cả các quan hệ dân sự cụ thể. Trong thực tế, tiển để để hình

thành quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự dựa trên cơ sở thống nhất ý chí chung
của các bên. Các quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự chính là sự ghi nhận và biểu
hiện ý chí của các chủ thể ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Pháp luật dân sự tôn trọng ý chí của các chủ thể trong quá trình cam kết,
thoả thuận để xác lập giao dịch dân sự nhưng trong giao lưu dân sự ý chí đó phải
phù hợp với ý chí của Nhà nước. Nghĩa là, phải phù hợp với những quy định chung
của pháp luật dân sự. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý cùa Nhà nước với nhiều hình thức sở hữu và hình
Ihức kinh doanh khác nhau thì việc quy định của pháp luật dân sự là “công cụ
pháp lý” có hiệu quả để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, tác động đến các
giao dịch dân sự là rất cần thiết. Sự bảo đảm của pháp luật là yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển và ổn định giao lưu dân sự trong lĩnh vực tài sản. Đóng thời,
vì lý do an ninh, quốc phòng trong một số trường hợp nhất định Nhà nước quy
định giới hạn cẩn thiết đê các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự cần phải biết
những hạn chế dó và phái tuân theo.
- Do tính chài trao đổi cùa các quan hệ dân sự, nên quan hệ tài sản do Luật
dãn sự điểu chinh luôn có tính chất “hàng hoá-tiẻn tệ” với đặc trung cơ bán là tính
chất giá trị và phải tính được bầng tiền. Không thê được coi là tài sán nêu tư bản
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




thân “nó” không có tính giá trị, không xác định được bằng tiền. Mục đích và mong
muốn của các chủ thể trong giao luu dân sự chính là lợi ích, được thể hiện qua giá
trị sử dụng của hàng hoá; nhưng muốn có được giá trị sử dụng thì phải thực hiện
sự trao đổi bằng giá trị của hàng hoá; chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Với nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phẩn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước như hiện nay thì các tài sản (bao gồm cả quyẻn tài sản) phần lớn được thể
hiện dưới dạng hàng hoá và có giá trị trong trao đổi.
Tuy nhiên, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo quy định tại Điều 17
Hiến pháp năm 1992 và Điều 200 Bộ luật dân sự nãm 2005 thì không thể trở thành
hàng hoá. Việc chuyển quyền sử dụng đất (là loại quyền tài sản đặc biệt) sẽ được
thực hiện theo một trình tự, thủ tục riêng, được quy định tại Phần thứ năm, Bộ luật
dân sự và pháp luật vể đất đai.
Quan hệ tài sản bị quy luật giá trị chi phối, nên dặc trưng của các quan hệ
tài sản mà pháp luật dân sự điều chỉnh còn được thể hiện ờ tính chất đền bù tương
đương trong trao đổi. Các chủ thể tham gia trong các giao dịch dân sự cụ thể có
thê’ có những dộng cơ, mục đích khác nhau nhung đẻu thống nhất ý chí với nhau
trong việc thực hiện giá trị trao đổi trong quan hệ dân sự. Một trong những nguyên
tắc cơ bản khi thực hiện trao đổi giá trị chính là sự đền bù ngang giá trị. Một chủ
thể của quan hệ dân sự cụ thể muốn hưởng, muốn nhận một giá trị tài sản thì phải
đổi bằng một giá trị tương đương và ngược lại. Đó là nguyên tắc cơ bản trong trao
đổi hàng hoá của giao lưu dân sự. Nguyên tắc này là một trong những động lực
quan trọng để thúc đẩy giao lưu dân sự và nền sản xuất phát triển.
Tuỳ thuộc vào tính chất của từng giao dịch dân sự cụ thể và sự cam kết, thoả
thuận của các chủ thể trong giao lưu dân sự mà tính chất đền bù tương dương có
thê’ là: Việc trao đổi giá trị là một khoản tiền phải trả cho bên kia, là tài sản (trong
hợp đổng trao đổi) hoặc các vật có giá trị khác giữa các bên khi tham gia giao dịch
dân sự. Điểu này hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí, nội dung cụ thể mà các chủ thể
cam kết, thoả thuận với nhau trong quá trình xác lập giao dịch dân sự.
Trong lĩnh vực dân sự còn có một sô' quan hệ tài sản không có tính chất đền
bù tương đương hoặc có tính chất trao đổi ngang giá trị theo quy luật giá trị. Đó là
các quan hệ: Cho mượn, tặng cho, cho vay không lấy lãi, thừa kế, sử dụng tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật không mang tính chất kinh doanh đê
kiếm lợi nhuận v.v... Các quan hệ này cũng là đối tượng điểu chính của pháp luật
dân sự. Tuy nhiên, nhóm các quan hệ dân sự trẽn đây không phải là cơ bản và phổ
biến trong pháp luật dân sự.

Ngoài ra, cũng cần thấy rằng, không phải toàn bộ các quan hệ tài sản trong
đời sống xã hội đều do Luật dân sự điều chinh. Việc xác định quan hệ đó có phái là
đối tượng điều chính cúa pháp luật dân sự hay không còn tuỳ thuôc vào các yếu tố:
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Tính chất của giao dịch đó, đặc trưng của chủ thể khi tham gia giao dịch, quyền
bình dẳng và vấn đé tự do cam kết, thoả thuận giữa các chủ thể trong giao dịch...
Ví dụ: Cũng là quan hộ tài sản nhưng việc mua bán hàng hoá với nuớe ngoài
sẽ do Luật đầu tư hoặc Luật thương mại điều chỉnh. Những quan hệ m ua bán
nhưng với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận của các thương gia, các doanh
nghiệp thương nghiệp sẽ do Luật thương mại điếu chỉnh. Việc cấp đất, cho thuê
đất có thời hạn liên quan đến các thủ tục hành chính và sự cho phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền lại do Luật đất đai quy định.

b. Nhóm quan hệ nhân thân
* Khái niệm
Ngoài việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, pháp luật dân sự còn điều chỉnh
một số các quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội. Quan hệ nhân thân chính là
những quan hệ được hình thành từ một giá trị tinh thần của một cá nhân hoặc một
tổ chức và luôn gắn liền với cá nhân hoặc tổ chức đó. Quan hệ nhân thân trong
Luật dân sự có thể gắn liền với tài sản hoặc không gắn liền với tài sản.
Các quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội, tùy theo tính chất cũng được
nhiều ngành luật khác nhau trong một hộ thống pháp luật điều chỉnh. Tuỳ thuộc
vào tính chất của ngành luật đó mà viộc điều chỉnh các quan hệ nhân thân sẽ được
thực hiện bằng những phương pháp, cách thức khác nhau.

V í dụ: Ngành luật hành chính quy định về viộc xác định các quyền nhân thân
trong lĩnh vực phong tặng các danh hiệu cao quý của Nhà nuớc cho một cá nhân
hoặc tổ chức như: Tặng thường các loại huân chương, huy chưcmg; phong tặng các
chức danh hoặc danh hiệu trong các lĩnh vực khoa học, văn hoá, nghệ thuật...
Ngành luật hình sự quy định là tội phạm và áp dụng trách nhiệm pháp lý hình sự
bằng một hình phạt đối với những người có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín, vu khống, làm nhục hoặc xúc phạm người khác...
* Đặc điểm
Các quan hệ nhân thân do pháp luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm
sau đây:
- Đó là những quan hệ xã hội luôn luôn gắn liền với một chủ thể xác định
(như tính chất và tên gọi của nó);
- Các quyền lợi về nhân thân của một chù thể theo nguyên tắc của pháp luật
dân sự không tách rời chủ thể đó để chuyển dịch cho chú thể khác thông qua các
giao dịch dân sự cụ thể;
- Đa số các quan hệ nhân thân là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự
không có tính chất “giá trị kinh tế” và không có nội dung tài sản.
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng các biện pháp truyền
thống như: Buộc chấm dứt hành vi vi phạm, cổng khai xin lỗi, cải chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng... nhằm phục hổi tình trạng ban đầu như trước khi
bị vi phạm. Trong một số trường hợp khi người có quyền nhân thân bị xâm phạm
ngoài quyền tự mình cải chính, còn có quyền yêu cầu được bảo vệ. Toà án có thể
buộc người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người vi

phạm phải bổi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần (khoản 3 Điều
25 Bộ luật dân sự năm 2005).
* Các loại quan hệ nhân thân trong Luật dân sự
Các quan hệ nhân thân do pháp luật dân sự điều chỉnh có thể chia thành hai
nhóm cơ bản sau đây:
- Một là: Nhóm các quan hệ nhân thân có mối liên hệ trực tiếp (hoặc gián
tiếp) với các quan hệ tài sản.
Trong nhóm quan hệ này, tính chất nhân thân là tiền dề dể làm phát sinh các
quan hệ tài sản (hoặc các quan hệ tài sản dược xác định trên cơ sở đã xác định cụ
thể các quan hệ nhân thân).
Ví dụ: Các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Tác giả có thể đặt tên gọi cho công trình
khoa học, đặt tên cho tác phẩm văn học, nghệ thuật; tác giả cố thể ghi tên thạt của
tác giả hay chỉ ghi bút danh, bí danh để đứng tên trong tác phẩm vãn học, nghộ
thuật, công trình khoa học của mình. Các quyển này chính là các quyền về nhân
thân của chủ thể.
Cùng với những quyền nhân thân trên đây, tác giả của tác phẩm văn học,
nghệ thuật, công trình khoa học còn được hưởng một khoản tiền nhuận bút, tiền
thưởng hoặc tiền thù lao nhất định từ các công trình, tác phẩm đó theo quy định
chung của pháp luật.
- Hai là: Nhóm các quan hệ nhân thân không có liên quan đến các tài sản.
Đó là quan hệ nhân thân thuần tuý không có mối liên hệ với quan hệ tài sản
nhưng có tính chất khá phổ biến trong đời sống xã hội, như: Tên gọi và quyền thay
đổi tên gọi; hình ảnh và quyền của cá nhân đối với hình ảnh; nhân phẩm; uy tín;
danh dự và các quyền được bảo đảm; bí mật đời tư; quyền được bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được hiến và nhận bộ phận cơ thể; quyền
xác định lại giới tính; quyền tự do cư trú, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh,
tự do sáng tạo v.v... và một số quyền nhân thân khác lần đầu được quy định cụ thể
tại mục 2 Chương III Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 2005.
Trước đây, để bảo vệ nhóm quan hệ nhân thân này Luật dân sự quy định chỉ

áp dụng các biện pháp: Tự mình cải chính hoặc yêu cầu người vi phạm phải xin
lỗi; cải chính công khai. Bởi vì danh đự, uy tín, nhân phẩm của một cá nhân hoặc
13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




một tổ chức không thể xác định được bằng tién và sự cưỡng chế của Nhà nước
cũng không mang tính chất tài sản. Luật chì quy định nếu một người có hành vị
xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm ... của người khác mà gây thiột hại vể
tài sản thì phải bổi thường thiệt hại đó.
Ngày nay, để bảo vệ quyển nhân thân, ngoài viộc ghi nhận các biện pháp đặc
trưng và truyền thống của pháp luật dân sự như trước đây, Bộ luật dân sự còn quy
định, người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyển: “Yêu cầu người vi phạm
hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm phải bổi thường thiệt hại vật chất và thiệt
hại ve tinh thần” (khoản 3 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005).
Như vậy, người xâm phạm đến quyền nhân thân của người khác ngoài việc
phải khắc phục những hậu quả về tinh thần, còn có thể phải bổi thuờng những thiệt
hại vể vật chất. Đây là một trong những quy định mới mà trước khi ban hành hai
Bộ luật dân sự chưa có văn bản pháp luật nào quy định.
Tương tự như các quan hệ tài sản, pháp luật dân sự không điều chỉnh toàn bộ
các quan hệ nhân thân của đời sống xã hội. Chẳng hạn, điều chỉnh quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái sẽ do Luật hôn nhân và gia đình
điểu chỉnh. Luật dân sự chỉ quy định những vấn đề cơ bàn, có tính chất nguyên tắc
chung vể hôn nhân và gia đình.

III. PHƯƠNG PH Á P Đ IỂU C H ỈN H CỦA LU Ậ T DÂN s ự
l ẳ K hái niệm

Mỗi một ngành luật trong một hệ thống pháp luật không những có đối tượng
điều chỉnh riêng biệt mà còn có cả phương pháp điều chỉnh với những đặc trưng
riêng. Phương pháp điều chình của một ngành luật cũng là một trong những tiêu
chí quan trọng để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác.
Phương pháp điều chình của một ngành luật trong một chừng mực nhất định
có tính chất chủ quan và phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Tuy nhiên, trong các
quan hệ dân sự, Nhà nước không thể tuỳ tiộn đặt ra phương pháp, cách thức tác
động lẽn các quan hệ dân sự thế nào cũng được.
Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của một ngành luật phụ thuộc khách quan
vào tính chất và đặc điểm các quan hệ xã hội do ngành luật đó điều chỉnh. Với sự
đa dạng về các quan hệ trong đối tuợng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh cùa
pháp luật dân sự cũng có những đặc trưng riêng và rất phong phú. Phương pháp
điểu chỉnh của Luật dân sự được lựa chọn trên cơ sờ bản chất và đặc điểm cùa các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong pháp luật dân sự.
Cơ sờ đê xác lặp các quan hệ dân sự là: Tự nguyện, bình đẳng giữa các chù
thể và quyền tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận cùa các chú thể trong giao lưu
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




dân sự. Ngoài ra, các chủ thể của Luật dân sự còn có quyền thoả thuận với nhau cả
vẻ những nội dung chưa (hoặc không) được quy định trực tiếp trong Bộ luật dân
sự, bao gổm cả chế tài và cả trách nhiệm dân sự.
Theo nguyên tắc chung của pháp luật, phương pháp điều chỉnh của pháp luật
dân sự là những biện pháp, cách thức phù hợp để thông qua đó pháp luật tác động
đến xử sự của các chủ thể trong các quan hệ xã hội (trong pháp luật dân sự là các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân). Nhờ có sự tác động này, các quan hệ tài sản

và quan hệ nhân thân đã phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt theo ý chí của chủ thể
trẽn cơ sở ý chí của Nhà nước được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật dân sự
cụ thể hoặc theo một trật tự nhất định; quyén và nghĩa vụ của các chủ thể luôn được
bảo đảm thực hiện.
2. Đăc điểm
Do tính chất đặc thù vể đối tượng điều chình, phương pháp điểu chỉnh của
pháp luật dân sự có những đặc điểm sau đây:
Trước hết, trong mọi giao lưu dân sự, yếu tố bình đẳng giữa các chủ thể về
phương diện pháp lý là một đặc điểm có tính chất đặc trưng. Trong giao lưu dân sự
không có sự phân biệt địa vị xã hội, tình trạng tài sản, dân tộc, giới tính, tôn
giáo...; không bẻn nào có quyén ra lệnh cho bên nào; chủ thể trong các giao dịch
dân sự cụ thể luôn độc lập với nhau và không phụ thuộc vào chủ thể khác.
Đây là một trong những nguyên tắc quar. trọng trong phương pháp điều
chỉnh của Luật dân sự. Điểu 5 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: “Trong quan
hộ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt vể dân tộc, giới
tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ vãn hoá,
nghẻ nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau".
Tính chất độc lập và bình đẳng giữa các chủ thể về tài sản và quyền tự định
đoạt của các chủ thể là yếu tô' quyết định có ý nghĩa quan trọng; bời lẽ, các quan
hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh luôn có tính chất hàng hoá-tiền tệ. Muốn thực
hiện được việc “trao đổi ngang giá” và “đển bù luơng đương” trong các giao dịch
có tính chất hàng hoá-tiền tộ thì mỗi chủ thể phải thực sự bình đẳng; có quyền tự
định đoạt theo ý chí của mình trên cơ sở độc lập về tài sản. Không có sự bình
đậng, độc lập vể tài sản và chủ thể không có quyền tự định đoạt thì cũng khõng thê
thực hiện được tính chất dền bù tương đương-ngang giá trị trong giao dịch dân sự.
Ngoài ra, sự bình đảng và độc lập vể tài sản cùa các chú thể trong giao lưu
dân sự còn được thể hiện ngay cả trong trường hợp mà giữa các chủ thể còn có các
mối liên hệ không có tính chất bình đảng (như trong quan hệ hành chính, lao
động...). Dù rằng chù thể đó có sự “phụ thuộc” nhất định trong các quan hệ khác
15


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




nhimg đã thoả thuận xác lập với nhau một giao dịch dân sự thì các chủ thể vẫn có
quyền bình đẳng và độc lập.
Điểu đó chứng tỏ rằng, yếu tố bình đẳng và độc lập của các chủ thể trong
giao lưu dân sự có tính chất tuyột đối. Nếu không bảo đảm tính chất bình đảng và
độc lập giữa các chủ thể thì đó không phải là quan hệ dân sự; hoặc nếu giao dịch
dân sự đó được xác lập thì cũng có thể bị coi là vô hiệu.
- T h ứ h a i là, quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia giao lưu dân
sự luôn được bảo đảm. Có thể thấy rằng đây là sự thể hiện tiếp theo của tính chất
bình đẳng giữa các chủ thể trong giao lưu dân sự. Các quan hệ pháp luật dân sự
suy cho cùng là việc thực hiện những mục đích, động cơ theo ý chí và mong muốn
của mỗi một chủ thể trong giao dịch dân sự. Vì vậy, việc tham gia vào các giao
dịch cụ thể nhất định là do chủ thể tự quyết định căn cứ vào khả năng, mục đích và
nhu cầu của chủ thể đó. Nghĩa là, các chủ thể có quyền tự mình lựa chọn sự cần
thiết hay không cần thiết khi tham gia các giao dịch dân sự.
Quyền tự định đoạt của chủ thể còn được thể hiện: Các chủ thể có toàn
quyền thoả thuận và quyết định việc lựa chọn biện pháp, cách thức thực hiện
quyén và nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự cụ thé. Pháp luật dân sụ còn
cho phép các chủ thể tự mình đặt ra (trong trường hợp pháp luật chưa có quy định)
biện pháp, cách thức thực hiện quyẻn và nghĩa vụ dân sự; thoả thuận với chủ thể
khác vẻ các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (theo các quy định chung tại
mục 5 chương XVII Phần thứ ba Bộ luật dân sự); hình thức trách nhiêm pháp lý
khi có sự vi phạm; cách thức áp dụng trách nhiệm dân sự... khi có một bên đã
không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nội dung các điểu
khoản mà chủ thể đó đã tự nguyện cam kết, thoả thuận.

Quyền tự định đoạt của các chủ thể dược pháp luật dân sự tôn trọng và bảo vệ.
Các chú thể được thực hiện quyền này theo sự tuỳ nghi và theo ý chí của mình nhưng
phái chú ý tới các yêu cầu của pháp luật về giới hạn các quyền đối vói từng loại chủ
thế khác nhau trong những giao dịch dân sự khác nhau.
Về nguyên tắc, các chủ thể của Luật dân sự được quyền tự định đoạt, tự do
lựa chọn cách thức, biện pháp thực hiện quyển dân sự và nghĩa vụ dân sự nhưng
quyển tự định đoạt dó không phải là hoàn toàn không bị một giới hạn nào. Giới
hạn quyển của chù thể trong giao lưu dân sự chính là: “Không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”
(Điều 10, Bộ luật dân sự năm 2005). Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có quyền
tự do cam kết, thoả thuận nhưng “mục đích và nội dung của giao dịch không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” (điểm b khoản 1 Điều
122 Bộ luật dân sự năm 2005).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Quyền tự định đoạt của chủ thể trong giao lưu dân sự cũng được bảo đảm
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước đã đuợc quy định tại Điều 4 Bộ luật dân
sự: “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối vói các bên
và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng".
Ngoài ra, khi xác lập quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự các chủ thể còn phải
tuân theo các căn cứ, cách thức, trình tự, thủ tục do Bộ luật dân sự và các vãn bản
pháp luật khác quy định. Giao dịch dân sự khi xác lập không dược trái với các
nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật (Điểu 11
Bọ luật dân sự năm 2005).
- T h ứ ba là, trách nhiệm tài sản cũng là đặc điểm đặc trimg về trách nhiệm
pháp lý trong phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. Đối tượng điều chỉnh của

Luật dân sự chủ yếu là các quan hệ tài sản có tính chất hàng hoá-tiền tệ và những
quan hệ nhân thân, nên sự vi phạm của một bên có thể dẫn đến sự thiệt hại về tài
sản hoặc tinh thẩn cho phía bên kia. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây
thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về vật chất. Trong việc bảo vệ quyền nhân
thân, luật cũng quy định: Khi người có quyền nhân thân bị vi phạm họ cũng có
quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm phải bồi thường thiệt hại về vật chất (khoản 3 Điều 25 Bộ luật dàn
sự năm 2005). Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định: “Bên có nghĩa vụ
mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm
dân sự đối với bên có quyền". Đây là những tiền đề pháp lý để các bên phải có
trách nhiệm với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ
trong Luật dân sự thông thường là các nghĩa vụ tài sản, vì vậy trách nhiệm dân sự
cũng thường là trách nhiệm tài sản.
Trong Luật dân sự, trách nhiệm pháp lý có thể do Luật dán sự quy định hoặc
do các chủ thể tự cam kết, thoả thuận với nhau khi xác lập giao dịch dân sự.
Nhưng dù được hình thành từ cơ sỏ nào, chúng cũng đều có giá trị pháp lý ngang
nhau trong quá trình áp dụng. Đây là đặc trung chỉ có trong pháp luật dân sự.
Trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định trước hoặc do các chú thể cam kết,
thoả thuận trong các giao dịch dân sự cụ thê khi được áp dụng bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước đều có nội dung tài sản với mục đích nhằm khôi phục lại
tình trạng ban đầu (tình trạng trước khi có sự vi phạm) hoặc nhằm khắc phục
những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần cho bẽn chù thể bị vi phạm.
Trách nhiệm tài sản chính là trách nhiệm cùa các chủ thê trong các quan hệ
pháp luật dân sự khi hành vi của họ đã gây ra thiệt hại (gồm cả những thiệt hại về
vật chất và tinh thần) và có đú các điều kiện theo yêu cầu cùa pháp luật dân sự.
Trách nhiệm tài sản trong pháp luật dân sự thể hiện ờ việc: Bồi thường bằng
tiền hoặc khắc phục những hậu quà xấu về mặt vật chất như sửa chữa, đổi vật
khác, thay thế bằng các tài sản cùng loại khác...
17


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Thứ tư, trong giao luu dân sự các chủ thể có quyẻn bình đẳng, quyền tự
định đoạt khi cam kết, thoả thuận xác lập giao dịch dân sự, nên đặc trưng của
phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là tự thoả thuận và hoà giải. Khi có
tranh chấp nếu các bên không tự hoà giải và thoả thuận với nhau được thì cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và Tòa án vẫn tiếp tục hoà giải để các bẽn tự nguyện chấp
hành nghĩa vụ. Khi không thể hoà giải được nữa thì các cơ quan nhà nưóc có
thẩm quyền và Tòa án mới áp dụng đến biện pháp cưỡng chế. Pháp luật dân
sự nghiêm cấm không đuợc dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong việc
giải quyết các tranh chấp hoặc khi tham gia quan hệ dân sự (Đ iều 12 Bộ luật
dân sự nãm 2005). Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhất thiết phải
thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyẻn và thực hiện theo những trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ năm, khi các bên không thể thoả thuận hoặc hoà giải với nhau được thì
bên có quyền bị xâm hại (bao gồm quyền tài sản và các quyẻn nhân thân) có
quyển khởi kiện bằng đơn kiện theo quy định của pháp Luật tố tụng dân sự để yêu
cẩu Toà án bảo vệ. Trong đơn khởi kiện để yẽu cầu Toà án bảo vệ, người có quyển
bị xâm phạm phải nèu rõ sự vi phạm của phía bên kia và các yêu cầu của mình;
người khởi kiện có trách nhiệm cung cấp những chứng cứ cần thiết liên quan đến
việc khới kiện nhầm tạo thuận lợi cho quá trình chứng minh khi giải quyết tranh
chấp. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì chứng minh là nghĩa vụ
của các đương sự. Theo quy định của pháp Luật tố tụng dân sự nếu quan hệ đó
đúng thẩm quyền giải quyết, Toà án sẽ thụ lý và giải quyết để khôi phục lại các
quyển đã bị xâm phạm, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản.
Quyền khởi kiện theo trình tự tố tụng dân sự tại Toà án là quyền tố tụng có ý
nghĩa thực tế của mỗi công dân, tổ chức; là phương tiện pháp lý quan trọng nhàm

bảo đảm cho các chủ thể của pháp luật dân sự sử dụng trong những trường hợp cẩn
thiết để bảo vệ kịp thời các quyển, lợi ích của mình khi bị xâm phạm.

IV. LUẬT DÂN S ự VÀ KHOA H Ọ C LU ẬT DÂN s ự
1. L uật dân sự - m ột ngành luật thực định
a. K hái niệm
Luật dân sự dù được xem xét ở những góc độ khoa học khác nhau, đều luôn
dược xem là một ngành luật thực định. Pháp luật dân sự (bao gồm cả các văn bản
có liên quan đến việc áp dụng) là một hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự để
điéu chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội. Nhờ có
sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật dân sự lên các quan hệ xã hôi
tác động lên ý chí của các chù thể tham gia quan hệ dân sự mà các quan hê xã hôi
18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




trở thành quan hệ pháp luật dân sự: Đuợc phát sinh, thay đổi và chấm dứt theo một
trình tự nhất định do Bộ luật dân sự quy định.
Với tính chất là một ngành luật thực định, trong Bộ luật dân sự và các văn
bản pháp luật có liên quan được kết cấu theo truyền thống: Gồm nhiều chế định
riêng biệt, mỗi chế định có tính chất và nội dung tương tự; trong mỗi chế định lại
có nhũng nguyên tắc riêng biệt và có nhiẽu quy phạm pháp luật khác nhau điểu
chỉnh các hành vi dân sự cụ thể của các chủ thể.
Để tránh sự trùng lặp của kỹ thuật lập pháp, trong Bộ luật dân sự dã dành
toàn bộ Phần thứ nhất với tên gọi: “Những quy định chung”, dể quy định những
vấn đề bao quát, có tính chất chì đạo và áp dụng cho tất cả các chế định trong pháp
luật dân sự. Ngoài ra, các chế định cụ thể trong Bộ luật dân sự như: Chế định tài

sản và quyền sở hữu, chế dịnh nghTa vụ dân sự và hợp đổng dân sự, chế định thừa
kế, chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ... đều là một nhóm các
điểu luật cụ thê’ (các quy phạm pháp luật) quy định về những nội dung riêng biệt
có tính chất tương tự trong sự liên kết có tính chất tổng thể theo một căn cứ và cơ
sớ khoa học.
Ví dụ: Trong hợp đổng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, vay tài sản và
các hợp đồng dân sự thông dụng khác... tại chương XVIII, Phần thứ ba, Bộ luật
dân sự không có quy định cụ thể nào trong các quy định vể quyẻn và nghĩa vụ của
các chủ thể khi có sự kiện giám hộ. Nhưng khoản 3 Điều 69 Bộ luật dân sự năm
2005 quy định: “Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ
có liên quan đến tài sản cúa người dược giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao
dịch được thực hiện vì lợi ích của người đuợc giám hộ và có sự đồng ý cùa người
giám sát việc giám hộ”. Điều đó có nghĩa là: Trong tất cả các hợp đồng dân sự
thông dụng nếu vi phạm quy định trên đây sẽ đương nhiên vô hiệu, không được
pháp luật dân sự thừa nhận và không có giá trị pháp lý.
Trong mỗi chế định cùa Bộ luật dân sự (hoặc trong văn bản pháp luật có liên
quan) mỗi điểu luật là một quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện như
các ngành luật thực định khác. Tuy nhién, tính chất bắt buộc cùng các chế tài
Irong Luật dân sự có đặc irưng riêng nhung đó vẫn là nhũng quy phạm pháp luật
của một ngành luật thực định.
Tính chất thực định thể hiện là: Khi có tranh chấp dân sự, Toà án và các cơ
quan nhà nước có thám quyền sẽ áp dụng những quy định cụ thê của pháp luật dân
sự đê giải quyết tranh chấp nếu trong hợp đồng các bên không có thoả thuận. Các
quy định trong các điéu luật luôn có giá trị điều chính trực tiếp các quan hệ dân sự
bàng những phương pháp riêng; hoặc các chủ thể trên cơ sở hướng dẫn, chỉ dẫn của
các điều luật phái tuân theo, trừ khi pháp luật có những quy định khác.
19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN





b. So sánh Luật dân sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật
Việt Nam
Vối những đặc điểm, đặc trưng vé đối tượng và phương pháp điểu chình của
mỗi một ngành luật, khoa học Luật dân sự phân biệt ngành luật này với ngành luật
khác trong một hệ thống pháp luật. Việc phân biệt này có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, nhất là trong việc áp dụng pháp luật tại các cơ quan nhà nước có thâm
quyền.
Tuy nhiên, cần thấy rằng việc so sánh trong nhiều trường hợp nó chỉ có ý
nghĩa tương đối. Bởi lẽ, pháp luật của Nhà nước là một hệ thống thống nhất, thê
hiện ý chí của Nhà nước và giữa chúng thuờng có mối liên hệ mật thiết với nhau,
nhằm điều chỉnh các quan hộ xã hội tồn tại trong một chế độ xã hội, phù hợp với
những điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử... nhất định. Việc so sánh Luật dân sự với
một số ngành luật khác chỉ có ý nghĩa tương đối về lý luận và trong học thuật.
* Luật dân sự và Luật tố tụng dân sự
Luật dân sự và Luật tố tụng dân sự là hai ngành luật có liên quan mật thiết
với nhau. Luật tố tụng dân sự quy định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp
dân sự; hôn nhân và gia đình. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ tô' tụng
phát sinh giữa cơ quan tiến hành tô' tụng, người tiến hành tố tụng (bao gồm Toà án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân...) với những người tham gia tô' tụng (đưcmg sự,
những người có quyền và lợi ích liên quan, cơ quan giám định...) trong quá trình
giải quyết các vụ án dân sự.
Trong Luật tố tụng dân sự quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng với những đương sự và người tham gia tố tụng khác là quan hệ quyền
uy-phụ thuộc. “Quyền tự định đoạt của đương sự” trong pháp Luật tố tụng dân sự
cũng được bảo đảm nhưng tính chất hoàn toàn khác so với quyền tự định đoạt và
bình đẳng pháp lý của chủ thể trong pháp luật dân sự. Nói cách khác, các chủ thể
khi tham gia tô' tụng dân sự không có sự bình đẳng.

Theo thông lệ, pháp Luật tố tụng dân sự được coi là pháp luật về “hình
thức", còn pháp luật dân sự được coi là pháp luật về “nội dung".
* Luật dân sự và Luật kinh t ế (còn gọi là Luật thương mại)
Đây là hai ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản
trong đời sống xã hội. Nhưng tính chất tài sản được phân biệt ở một góc độ khác
nhau và trong một chừng mực nhất định có những tính chất, nội dung khác nhau.
Luật kinh tế, thương mại còn bao gồm một phần nội dung quản lý nhà nước về
kinh tế, thương mại.
Ngày nay, sự phân biệt giữa Luật dân sự và Luật kinh tế, thương mại chỉ có
ý nghĩa tương đối trone lĩnh vực học thuật; tiêu chí để phân biệt chúng vẫn đang
20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




còn là để tài tranh luận sôi nổi trong giói nghiên cứu khoa học pháp lý từ nhiéu
thập kỷ nay.
Trước đây, một trong những cơ sở để phân biệt chúng là: Luật kinh tế chỉ
điều chỉnh các quan hộ tài sản giữa các chủ thể là pháp nhân, trên cơ sở thực hiện
các nhiệm vụ và chì tiêu kế hoạch chung theo sự quản lý, chỉ đạo của Nhà nuớc.
Quan hệ tài sản trong Luật kinh tế nhằm mục đích “sản xuất, kinh doanh", còn
quan hệ tài sản trong Luật dân sự nhằm chỉ nhằm mục đích thuần túy là “sinh
hoạt, tiêu dùng".
Hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tiêu chí để phân biệt chúng như
trước dây không còn phù hợp và rất khó giải thích về phương diện lý luận. Khái
niệm “sinh hoạt, tiêu dùng” truyền thống trước đây của Luật dân sự ngày càng
được mở rộng. Vì rằng, Luật dân sự đã điều chỉnh một số quan hệ tài sản trong

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại.
Vi dự. Cho phép mua nhà để sử dụng vào mục đích khác (Điều 455 Bộ luật
dân sự năm 2005). Thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác (Điều 500, Bộ luật dân
sự năm 2005). Các quy dịnh vẻ quyền sở hữu công nghiêp và chuyển giao công
nghệ (quy định tại Phẩn thú sáu, Bộ luật dân sự năm 2005)...
Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh hợp đổng kinh tế ngày 29/9/1989
(nhưng hiộn nay Pháp lệnh đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006 theo quy định tại
Nghị quyết của Quốc hội sô' 45/2005/QH11 kỳ họp thứ 7, Khóa XI) thì một hợp
đồng được coi là hợp đồng kinh tế phải có hai điều kiện sau đây:
- Hai bên ký kết đẻu có mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và vấn đề
này còn được quy định trong luật thương mại. Vì vậy, trong hộ thống pháp luật
thời kỳ đó điểu chỉnh các quan hệ về hợp đồng ở Việt Nam có tới ba loại: Hợp
đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại.
- ít nhất một bên chủ thể trong hợp dồng là doanh nghiệp có đãng ký kinh
doanh hợp pháp.
Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội dồng Bộ trưởng (nay là Hội
đồng Chính phủ) đã giải thích rõ: Nếu một bên không kinh doanh sẽ là hợp dồng
dân sự. Vì vậy, chỉ được coi là hợp dồng kinh tế và do Luật kinh tế điều chỉnh khi
hai bẽn chủ thể giao kết đều có mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và có ít
nhất một bén trong hợp đổng là doanh nghiệp.
* Luật dân sự với Luật hôn nhân và gia đình
Các quan hệ do Luật dân sự điều chỉnh mang tính chất tài sản và một sô'
quan hệ nhân thân nhưng các quan hệ do Luật hôn nhân và gia đình điều chinh lại
21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN





chủ yếu mang tính chất nhân thân. Đó là quan hệ tình cảm giữa vợ và chổng; giữa
cha mẹ và con; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; vé việc giám hộ giữa các
thành viên trong gia đình... Thời kỳ Pháp thuộc, hôn nhân và gia đình là một chế
định của Luật dân sự, được quy định trong các bộ dân luật thời kỳ này.
Các quan hộ tài sản do Luật hôn nhân và gia đình điẻu chỉnh là quan hệ có
đặc điểm “không có sự độc lập vẻ tài sản” giữa các chủ thể. Khối lượng quan hê
tài sản trong hôn nhân và gia đình nói chung không lớn, không có sự đa dạng và
phức tạp như các quan hệ tài sản trong Luật dân sự. Tài sản của vợ chổng trong
thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chổng (trừ những tài sản
riêng mà họ có thoả thuận và theo những căn cứ do pháp luật quy định).
Những tranh chấp vể tài sản phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như:
Quan hệ tài sản riêng giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ và các con; những tranh chấp
vẻ tài sản trong thời kỳ hôn nhân còn tổn tại và khi ly hôn... mà các quy phạm
pháp luật cùa Luật hổn nhân và gia đình năm 2000 không đủ để Toà án và các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng thì sỗ áp dụng các quy phạm tương ứng của
pháp luật dân sự dể giải quyết tranh chấp.
* Luật dân sự và Luật đất đai
Những quan hệ do Luật đất đai điều chỉnh là quan hệ phát sinh trong viộc
quản lý và sử dụng đất dai theo quy định của Nhà nước. Khách thể của quan hộ
pháp luật về đất dai được giới hạn trong diện tích đất thuộc khối điền thổ (lãnh
thổ) chung của Nhà nước.
Phương pháp diều chỉnh của Luật đất dai tương tự như cùa Luật hành chính.
Bên nhận đất đê sử dụng phải tuân theo những chế độ, quy định cụ thể của từng
loại đất, hạng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Chủ thể nhận đất
sử dụng không có quyền tự do cam kết, thoả thuận như trong Luật dân sự mà phải
tuân thú những quy định chung, bao gồm cả việc kiểm tra, giám sát của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Việc chuyển quyền sử dụng đất với tính chất là một quyền tài sản lại được
coi là một quan hệ pháp luật dân sự. Trình tự và thù tục khi chuyển quyền sử dụng
đất phải thực hiện theo quy định tại Phần thứ năm, Bộ luật dân sự năm 2005 và

pháp luật về đất đai.
* Luật dân sự và Luật hành chinh
Cơ sở đẽ’ phân biệt hai ngành luật này chú yếu dựa vào đặc tnmg của phương
pháp diều chinh. Đặc trưng trong phương pháp điều chính cùa Luật hành chính là
tính chất mệnh lệnh: Quyền uy-phục tùng. Trong Luật hành chính khỏnc có sư
bình đáng pháp lý giữa các chù thể tham gia quan hệ hành chính. Cụ thế là. không
có sự bình đẳng vé quyền và nghĩa vụ giữa các chù thê. Trong quan hệ pháp luât
22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




hành chính, một bên chủ thể luôn là cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền ra
mộnh lệnh, còn bên kia phải phục tùng và chấp hành mệnh lệnh đó.
Ví dụ: Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền trong việc quản
lý trật tự xây dựng đô thị: Cho phép tổn tại hay phá bỏ công trình xây dựng vi
phạm các quy định vể xây dựng, xây dựng không phép...
Những quan hệ xã hội do Luật hành chính điểu chỉnh giới hạn trong lĩnh vực
chấp hành, điều hành và quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước.
Trong việc điều hành và quản lý nhà nước có thể có những vấn đề liên quan đến
tài sản, nhân thân... nhưng việc điều chinh sẽ được thực hiện bằng phương pháp
với đặc diểm như đã trình bày ở trên.
Trong thực tế, có một số quan hệ tài sản do hai ngành luật này cùng điều
chình nhưng ở góc độ khác nhau và có tính chất hoàn toàn khác nhau. Đối với các
quan hệ tài sản, Luật hành chính chi quy định những thể lệ về hành chính nhằm
quản lý, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Luật hành
chính quy định các vấn để liên quan đến tài sản như: Thủ tục cấp phát và thu hồi
vật tư, tiền vốn; thẩm quyển của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc quản

lý nhà vắng chủ, vô chú, tài sản không có ai là chú sở hữu; quy định thế lệ vể trưng
thu, trưng mua, trưng dụng tài sản v.v... trong những trường hợp cần thiết do pháp
luật quy định.
* Luật dân sự và Luật hợp tác xã
Luật hợp tác xã điều chỉnh mối quan hệ thuộc nội bộ hợp tác xã trong các
lình vực: Tổ chức hợp tác xã (về đại hội xã viên, bầu ban quản trị, chủ nhiệm được
quy định trong điểu lệ), các quan hệ vẻ lao động, về thuê khoán tài sản, vể phân
phối sán phẩm hoặc phân chia lợi nhuận trong quá trình sản xuất, kinh doanh của
nội bộ hợp tác xã. Điểu này phụ thuộc vào tính chất khác nhau của các loại hình
hợp tác xã được quy định cụ thể trong điều lệ.
Luật dân sự chỉ điều chình những quan hệ tài sản của hợp tác xã trong quá
trình lưu thông, trao đổi có tính chất dân sự giữa các bên. Trong quan hệ dân sự
này hợp tác xã với tư cách là chủ thế trong các giao dịch với những chú thể khác
dể xác lập. thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự như: Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
các quan hệ mua bán, trao đổi nông sán, lâm sản, hải sản; các hợp đổng gia công,
đặt hàng, dịch vụ, làm đất gieo trồng... theo các lĩnh vực khác nhau.
* Luật dán sự và Luật hình sự
Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ và duy trì các quan hệ xã hội bằng việc quy
dịnh những hành vi nào dược coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội có tính chất tội
phạm và quy định những hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm
dó. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong luật hình sự là hình phạt do các
23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




Toà án nhân dân quyết định khi xét xử nhằm mục đích buộc những người phạm tội
phải trực tiếp chịu trách nhiệm pháp lý đối với xã hội, với cộng đồng và với Nhà

nước để duy trì một trật tự xã hội nhất định.
Chức năng cơ bản của hình phạt trong trách nhiộm hình sự chủ yếu nhằm mục
đích: Trừng trị, giáo dục nguời phạm tội và răn đe, phòng ngừa tội phạm, được quy
định trước trong Bộ luật hình sự. Trong pháp luật hình sự không có sự “thoả thuận”
về trách nhiệm pháp lý như trong trách nhiệm dân sự. Tính chất bình đẳng ưong
pháp luật hình sự hoàn toàn khác tính chất bình đẳng trong pháp luật dân sự: Các bị
cáo chỉ bình đẳng trước pháp luật tại Tòa án và được xét xử công bằng.
Trong pháp luật dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể
này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban
đẩu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra. Đặc trưng của
trách nhiệm pháp lý trong Luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và chỉ mang tính chất tài sản. Trách
nhiệm dân sự có thể được quy định trong pháp luật dân sự nhưng cũng có thể do
các chủ thể thoả thuận trong quá trình cam kết, thoả thuận xác lập các giao dịch
dân sự (chủ yếu là dối với các quan hệ về hợp đổng).
Một điểm khác biệt quan trọng nữa là, trong Luật hình sự ưách nhiệm pháp lý
chỉ có thể áp dụng cho cá nhân (theo nguyên tắc cá thể hoá hình phạt), còn trong
Luật dân sự trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng không những cho cá nhân mà còn
áp dụng cho cả pháp nhân, tổ chức và các chủ thể khác khi có hành vi vi phạm.
2. Khoa học Luật dân sự - một ngành khoa học pháp lý

a. Khái niệm
Nói đến tính chất khoa học là nói đến các căn cứ, cơ sở khoa học, cơ sở thực
tiễn của một ngành luật. Với tính chất là một ngành luật thực định nhưng Luật dân
sự (theo nghĩa rộng còn gồm các văn bản pháp luật có liên quan của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền) còn là một ngành khoa học pháp lý. Vì vậy, trong thực tế
nếu chỉ đọc các quy định của Bộ luật dân sự mà không nghiên cứu các cơ sờ khoa
học, sự lý giải, hướng dẫn hoặc giải thích... thì việc hiểu, vận dụng và đặc biệt là
việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể tránh
khỏi những hạn chế và thiếu thống nhất.

Với tính chất là khoa học Luật dân sự, việc nghiên cứu phân tích, tổng hợp
theo một phương pháp luận dặc thù riêng để hiểu những vấn để bao quát, có tính
chất chi đạo và áp dụng cho tất cả các chế định là của công việc nghiên cứu khoa
học Luật dân sự. Vì rằng:
Các quy định về nội dung riêng biệt tại các điều luật trong Luật dân sư
luôn có tính liên kết tổng thê nhằm tránh sự trùng lặp của kỹ thuật lập pháp Khoa
24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN




×