Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.35 MB, 40 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Họ và tên sinh viên: Nguyễn Tuấn Anh </b>
<b>HÀ NỘI, NGÀY 26 THÁNG 8 NĂM 2022</b>
<b> HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Họ và tên sinh viên: Nguyễn Tuấn Anh </b>
<b>Thời gian kiến tập:...</b>
<b>GV hướng dPn:...Lê Tuyết Nhung...</b>
<b>HÀ NỘI, NGÀY 26 THÁNG 8 NĂM 2022</b>
<b>MỤC LỤC HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM</b>
<b> HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI CẢM ƠN VÀ CAM KẾT</b>
<i><b>(LỜI CẢM ƠN) </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Đầu tiên cho em xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành và sự kính trọng tới thầy/ cơ ngành Quản trị du lịch của trường Học viện phụ nữ VIệt Nam , và đặc biệt là giáo viên hướng dẫn – cơ Lê Tuyết Nhung đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hành kiến tập.
Đợt kiến tập này đã tạo ra cho em mục đích phát triển bản thân và chỉ ra những công việc rõ rệt trong ngành học của mình. Những kiến thức được chỉ dạy và nhưng công việc phải làm trong kì kiến tập đã giúp bản thân em có thể áp dụng trong học tập, trong công việc và trong xã hội. Đây được coi là những ngày kiến tập bổ ích đầu tiên mà em được trải qua sau bao ngày tháng học tập.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên khơng tránh khỏi những thiếu sót trong cách hiểu, lỗi trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ để có được kết quả tốt hơn trong tương lại và kì thực tập sau
Em xin chân thành cảm ơn! <b> Nguyễn Tuấn Anh</b>
<i><b><small>Điểm Báo cáoGiảng viên 1 chấm kýGiảng viên 2 chấm ký</small></b></i>
<b>I. GIỚI THIỆU VỀ CÁC ĐỊA ĐIỂM KIẾN TẬP:</b>
1.1. Sự hình thành và phát triển:
<b>1. HOÀNG THÀNH THĂNG LONG: </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">+ Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều nhà Lý. Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên (1010), Lý Thái Tổ khởi sự dời đô ra thành Đại La. Đồn dời đơ của nhà vua vừa đến đất Đại La, vua trơng thấy có hình ảnh rồng vàng bay lên trời, bèn quyết định đặt tên cho vùng đất này là Thăng Long. Tên Hoàng thành Thăng Long xuất hiện như thế. Bắt đầu từ đây, Hồng thành Thăng Long chính thức trở thành kinh đơ của một nhà nước độc lập, thống nhất.
+ Cũng vì thế mà năm 1010 trở thành mốc thời gian để người Thăng Long-Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung dùng để tính tuổi cho Thủ đơ thân u của mình. Dời đơ ra Thăng Long, với đầy đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chỉ trong thời gian ngắn, từ mùa Thu năm 1010 cho đến đầu năm 1011, một số cơng trình cung điện cơ bản nhất của Hoàng thành Thăng Long đã được xây dựng xong.
Thời kỳ này, nơi đây được thiết kế xây dựng theo mơ hình “tam trùng thành qch” gồm: Thành nhỏ nhất ở trong cùng là Tử Cấm thành, nơi chỉ dành cho vua, hoàng hậu và số ít cung tần, mỹ nữ. Tiếp đến là Hoàng thành, là nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều. Tồn bộ triều đình, cơ quan đầu não của nhà nước phong kiến đều tập trung làm việc ở nơi này. La Thành là vịng ngồi cùng, là nơi ở của các tầng lớp nhân dân và quan lại, đây còn được gọi là khu Kinh thành.
Trải qua hơn 1.000 năm, kinh thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay đã chứng kiến biết bao đổi thay bởi các triều đại phong kiến. Các cuộc chiến tranh cũng đã phá huỷ, chơn vùi nhiều cơng trình kiến trúc nghệ thuật, nhưng dấu tích khu Hồng thành Thăng Long vẫn cịn đó. Ở khu trung tâm vẫn hiển hiện bóng dáng của tồ thành cổ hình vng được xây dựng từ thời Nhà Nguyễn vào năm 1835. Các tên gọi cổng thành xưa vẫn được dùng đặt tên cho các con phố xung quanh thành cổ như: Cửa Bắc, cửa Nam, cửa Đơng… Dẫu khơng cịn những cung điện song vẫn cịn đó một số cơng trình di tích dọc theo trục trung tâm của khu Hồng thành cũ như: Cửa Đoan Mơn, Điện Kính Thiên, Hậu Lâu. Tại di tích Điện Kính Thiên ở trung tâm Hồng thành vẫn cịn đơi rồng đá ngun khối có từ thời Nhà Lê. Cổng thành cửa Bắc cùng những đoạn tường thành Hà Nội còn khá nguyên vẹn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>1.LĂNG HỒ CHỦ TỊCH:</b>
- Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, danh nhân văn hóa thế giới đi vào cõi vĩnh hằng, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bè bạn quốc tế. Thể theo nguyện vọng thiết tha của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định: “Với tấm lịng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây lăng mộ của Người”.
- Thực hiện quyết định ấy, ngày 2-9-1973, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi cơng trên nền đất cũ của lễ đài Quảng trường Ba Đình, nơi mà ngày 2-9-1945, trước toàn thể quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tun ngơn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Cơng trình Lăng có chiều dài 320m, rộng 100m, cao 21,6m. Tường và các hàng cột của Lăng được ốp đá hoa cương, chính giữa tầng cao nhất có hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” ốp bằng đá đỏ màu mận chín. Quanh Lăng là một khn viên thống rộng, trồng nhiều loại cây và hoa được lựa chọn và đưa về từ nhiều vùng miền của Tổ quốc, biểu trưng cho tấm lịng thành kính,
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">u thương của nhân dân Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng, từ miền Nam đến miền Bắc đối với Bác Hồ.
<b>2.TRUNG TÂM PHỤ NỮ VÀ PHÁT TRIỂN:</b>
Ngày 1/7/ 2002, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 220/QĐ-ĐCT thành lập Trung tâm Phụ nữ và Phát triển (CWD). Với sự đầu tư của Chính phủ, một cơng trình 14 tầng – nhiều cơng năng sử dụng tọa lạc tại 20 Thụy Khuê, Hà Nội đã được thiết kế, xây dựng và hoàn thiện đưa vào sử dụng, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của Phụ nữ Việt Nam. Năm 2007 toàn bộ cơng trình tịa nhà với 3 khu A, B, C đã được hoàn thành việc xây dựng và lắp đặt. Ngay khi đưa vào sử dụng Trung tâm đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế; cung cấp các dịch vụ kinh doanh, dạy nghề hỗ trợ sự phát triển về năng lực, kỹ năng nghề nghiệp, thể lực và thẩm mĩ của phụ nữ Việt Nam.
Theo thời gian, với sự trợ giúp về tài chính và kỹ thuật của một số tổ chức quốc tế: Cơ quan hợp tác phát triển Tây Ban Nha (AECID), Ủy ban y tế Hà Lan (MCNV), Quỹ nhi đồng Liên hợp (UNICEF),... CWD từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và thực hiện thêm nhiều dịch vụ hỗ trợ thiết yếu. Đến nay mơ hình Ngơi nhà Bình n (PHS) – hỗ trợ tồn diện, miễn phí cho phụ nữ, trẻ em bị bạo lực trên cơ sở giới (mua bán, bạo lực, xâm hại...); Tổng đài hỗ trợ phụ nữ 1900969680 và phịng tham vấn là những thành cơng nổi bật của CWD, được Chính phủ và các tổ chức trong nước, quốc tế ghi nhận. CWD đã nhân rộng hoạt động ở một số tỉnh (như tại Hải Phịng, Cần Thơ, Đắk Nơng) và trở thành tổ chức uy tín cung cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu về mọi mặt của phụ nữ, như tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng, kiến thức cho phụ nữ, đặc biệt cho nhóm phụ nữ yếu thế, thiệt thòi; tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, giới thiệu việc làm cho phụ nữ; tổ chức tư vấn luật pháp chính sách, tham vấn quyền của phụ nữ, hôn nhân gia đình, giới...
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">HỒNG THÀNH THĂNG LONG:
<b>Họa đồ kinh thành Đông Kinh thời Lê với sông Nhị chảy ở phía Đơng (mạnginternet)</b>
+ Giai đoạn Tiền Thăng Long:
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Cuối thế kỉ IX chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng, Đầu thể kỉ X, các thế lực đánh giết lẫn nhau chia cắt Ngũ Đại Thập Quốc. Khi đó Khúc Thừa Dụ được dân ủng hộ đánh chiếm Đại La tự xưng thành Tiết độ sứ.
Sau khi nắm được quyền lực ông đã xây dựng chính quyền đơ hộ nhà Đường nhưng thực ra là 1 chính quyền độc lập và do người Việt quản lí.
Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân từ Ái Châu đánh Đại La đánh đuổi Lý Tiến. Dương Đình Nghệ giải phóng Đại La giành lấy quyền tự chủ. Năm 938, Ngô Quyền hạ thành Đại La, tiêu diệt Kiều Cơng Tiễn. Sau đó ơng chỉ huy trận Bạch Đằng đánh bại quân Nam Hán. Mùa xuân năm 939 ơng xưng danh Ngơ Vương về Cổ Loa đóng đơ. Sau khi Đinh Tiên Hồng dẹp loạn 12 sứ qn, các triều đại nhà Đinh, Tiền Lê đóng đơ ở Hoa Lư. Lúc này Lư Cơ tu sửa lại Hoàng Thành quay về hướng nam và vị quan này là người được coi là vua Lý Thái Tổ.
+ Giai đoạn nhà Lý từ thế kỉ XI đến XIV:
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô về thành Đại La và đổi tên về Thăng Long và được xây dựng lại. Khi mới xây dựng, kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mơ hình Tam trùng thành qch gồm: vịng ngồi cùng là La Thành, vịng thứ hai là Hoàng Thành – nơi sinh sống của cư dân, và trong cùng là Tử Cấm Thành – là nơi ở của nhà vua.
Mới năm 1010 Lý Thái Tổ đã cho xây dựng Hoàng Thành và cung điện trong thành. Hồng Thành có được đắp bằng đất có hào bao quanh và mở 4 cửa: Tưởng Phủ ở phía đơng, Quảng Phúc ở phía tây, Diệu Đúc ở phía bắc.
Năm 1029, Lý Thái Tơng xây dựng lại toàn bộ khu Cấm Thành sau khi nơi này bị tàn phá bởi loạn tam vương. Lý Thái Tông đã cho xây dựng điện Thiên An trên nền cũ điện Càn Nguyên làm nơi thiết triều 2 bên tả hữu là điện Tuyên Đức và Thiên Phúc. Trước điện Thiên An là sân rồng có 1 cái chng lớn.
Năm 1203, vua Lý Cao Tông bắt đầu đợt xây dựng mới. Cung điện mới được xây dựng ở phía tây tẩm điện trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Chính Nghi, trên là điện Kinh Thiên, thềm gọi là Lệ Giao, giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm là Ngâm Hồng, ....
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Ngoài các điện khác đều được xây dựng liên tục nhà Lý cịn cho xây dựng các cơng trình tín ngưỡng khác: đền Quán Thánh, chùa chân giáo, đài Chúng Tiên,...
Nhiều vườn ngự cũng được dựng nên trong Hoàng thành. Mùa thu năm 1048, mở luôn 3 vườn ngự: vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh và vườn Xuân Quang. Năm 1065, mở thêm vườn Thượng Lâm.
+ Giai đoạn nhà Lê – Mạc từ thế kỉ XV đến XVIII:
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Thái Tổ vẫn đóng đô ở Thăng Long nhưng đổi tên thành Đông Kinh. Từ năm 1940 đến thế kỉ XVI kinh thành mới có nhiều thay đổi. Trong thời gian này tường hồng thành cũng như thành Đại La ln được xây đắp mở rộng thêm ra. Năm 1490 để phòng nạn loạn đảng như Lê Nghi Dân lẻn giết Lê Nhân Tông ở trong cung nên vua đã cho xây lại Hồng Thành dài thêm 8 dặm. Cơng việc xây dựng trong tháng 8 mới xong.
Từ năm 1516 đến 1527, nhà Mạc cướp ngơi nhà Lê, kinh thành Đơng chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện, đền chùa, đường phố chìm trong biển lửa bị tàn phá nhiều lần. Trong nửa cuối thế kỉ XVI, cục điện Năm Bắc Triều với một bên là nhà Mạc và một bên là nhà Lê Trịnh diễn ra quyết liệt. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành vì yếu thế. Đơng kinh ngày càng điêu tàn.
Năm 1585, Mạc Mậu Hợp quyết quay trở lại Đông Kinh xây dựng lại thành.
Năm 1599, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa lại để đón vua Lê ra. Từ ấy cung điện đều ở trong Phủ Chúa Trịnh.
+ Giai đoạn từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh Hà Nội:
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>Bản đồ hà nội năm 1873 với khu vực thành cổ ở sát hồ Tây (mạng internet)</b>
Năm 1788 , Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đêm đại quân 29 vạn người sang chiếm Thăng Long. Đầu năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ 3 đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc triều Hậu Lê lụi tàn . Quang Trung định đơ ở Phú Xn. Thăng long chỉ cịn là Bắc Thành. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngơi Hồng Đế. Kinh đô vẫn được đặt tại Phú Xuân.
Năm 1805, vua Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ vì cho rằng đây chỉ cịn là Trấn Bắc thành mà Hồng Thành Thăng Long thì rộng lớn q. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vauban của Pháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Cái tên này tồn tại cho đến năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi Hà Nội thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là thủ đô của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội bị phá đi hồn tồn để lấy đất làm cơng sở và trại lính cho người Pháp.
+ Giai đoạn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn:
Thành Hà Nội do Gia Long xây dựng cũng làm theo thể thức các tỉnh thành khác và điều chủ yếu là không được to rộng hơn Phú Xuân. Năm 1804, hoàng thành cũ bị phá và năm sau đó một thành chu vi nhỏ hơn (5 km) được xây theo kiểu Vauban của Pháp. Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Bốn bức tường thành tương ứng với bốn con phố hiện nay là: phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý Nam Đế ở phía Đơng, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía Tây.
Tường thành xây bằng gạch hộp chân thành xây băng đá xanh và đá ong. Tường cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng. Thành mở ra 5 cửa là: cửa Đông (tương ứng với phố cửa Đông bây giờ), cửa Tây (tương ứng với phố Bắc Sơn hiện nay), cửa Bắc (nay vẫn còn), cửa Tây Nam (tương ứng với đoạn giao phố Chu Văn An và Nguyễn Thái Học bây giờ), cửa Đông Nam (tương ứng với đoạn giao phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học bây giờ). Đường vào cửa xây vòm xuyên qua tường thành dài 23 m. Trên mỗi cửa có lầu canh gọi là thú lâu. Xung quanh tường thành là một dải đất rộng 6-7m rồi đến một con hào rộng 15–16 m, sâu 5 m thông với sông Tô Lịch và sơng Hồng. Hào lúc nào cũng có nước nhưng thường chỉ cao khoảng 1m.
Phía ngồi các cổng thành có xây một hàng tường đắp liền trên bờ hào gọi là Dương mã thành, dài 2 trượng 9 thước, cao 7 thước 5 tấc. Các Dương mã thành đều cố một cửa bên gọi là Nhân Mơn. Từ ngồi thành đi vào đều phải đi qua Nhân Môn rồi mới đến cổng thành. Phía trong thành được bố trí như sau:
Ở trung tâm thành là điện Kính Thiên được xây dựng từ thời Lê trên núi Nùng. Điện dựng trên những cột gỗ lim lớn người ôm không xuể. Thềm điện có hai đơi rồng đá rất
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">đẹp cũng từ thời Lê. Sau điện này bị người Pháp phá hủy và xây trên nền cũ tòa nhà Con Rồng để làm trụ sở pháo binh Pháp. Sau năm 1954 nhà con Rồng lại trở thành trụ sở của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là nơi diễn ra cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng ngày 21 tháng 3 năm 1975 hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 75-76.
Phía đơng thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đầu triều Nguyễn. Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy.
Năm 1835, vì cho rằng thành Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng 5m.
Năm 1848, vua Tự Đức cho phá dỡ các cung điện thời nhà Hậu Lê còn lại trong thành, những đồ chạm khắc mỹ thuật bằng gỗ, đá đều đưa về Huế để trang trí các cung điện trong đó, chỉ cịn sót lại rồng đá ở điện Kính Thiên...
<b>-</b> Hoạt động chức năng của Hoàng Thành Thăng Long :
Để phát huy giá trị di sản văn hóa thì hoạt động xúc tiến du lịch là yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nhận thức được điều đó, trong 10 năm kể từ khi di sản được vinh danh, Trung tâm Bảo tồn Di sản Hoàng thành Thăng Long đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến du lịch nhằm giới thiệu rộng rãi giá trị các di sản đến du khách trong và ngoài nước.
Các hoạt động quảng bá về di sản: Trung tâm đã phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế, các cơ quan báo chí để kết nối, giới thiệu, quảng bá và hợp tác, phát triển du lịch Khu di tích Hồng Thành Thăng Long. Trong đó, nổi bật có một số sự kiện thường niên...
Xây dựng, phát triển các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch: Trung tâm đã xây dựng tour tham quan “Chạm vào quá khứ”, nhấn vào các điểm tham quan như Đoan Môn, Nhà D67 và hai căn hầm bí mật của Tổng hành dinh; dâng hương tưởng nhớ 52 vị tiên đế; trải nghiệm nước giếng Hoàng cung…
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><b>-</b> Sau khi thiết kế kỹ thuật đã được phê duyệt, Bạn khẩn trương thiết kế thi công. Để sát hơn với điều kiện Việt Nam, ta đã cử 7 kiến trúc sư, kỹ sư thuộc các ngành xây dựng, điện, nước, thông hơi cùng Bạn tham gia thiết kế. Bạn cũng đề nghị Đồn Việt Nam đảm nhận cơng tác thiết kế kết cấu, trang trí ở những vị trí quan trọng như: Sảnh chính, phịng thi hài, cửa gỗ và các cấu kiện bằng đồng.
<b>-</b> Cơng trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh do Viện nghiên cứu thiết kế Cục Tổ chức xây dựng Mátxcơva chủ trì cùng với các viện và các viện thiết kế chuyên ngành khác. Chủ trì thiết kế là kiến trúc sư Garon Ixacovich, người đã được nhận giải thưởng Lênin về thiết kế cơng trình lưu niệm ở thành phố Ulianopxco q hương Lê nin. Kiến trúc sư Garon Ixacovich cùng với 2 chuyên gia khác là Đê bốp - Viện sỹ, Giám đốc Viện Khoa học giữ gìn thi hài Lê nin người có cơng lớn giúp ta giữ gìn thi hài Bác và Tổng Cơng trình sư Metvedep, Tổng Cơng trình sư xây dựng Lăng Bác. Sau khi xây dựng xong Cơng trình Lăng đã được Nhà nước ta tun dương Anh hùng lao động.
<b>-</b> Kiến trúc sư Garon còn chủ trì thiết kế Bảo tàng Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa lao động hữu nghị Việt Xơ và tượng đài Lê nin ở Hà Nội.
<b>-</b> Theo dự kiến giữa ta và Bạn thì giai đoạn lập bản vẽ thi công và thiết kế tổ chức thi công dự định kéo dài 12 tháng và định khởi công xây dựng Lăng vào mùa khơ năm 1972÷1973. Nhưng tháng 4 năm 1972 đế quốc Mỹ lại ném bom miền Bắc nên Chính phủ hỗn xây dựng Lăng.
<b>-</b> Đầu năm 1973, Hiệp định Pari được ký kết, miền Bắc bước vào thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế, Chính phủ ta quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để khởi công xây dựng Lăng vào mùa khô 1973-1974. Từ tháng 4 năm 1972 Bạn ngừng việc thiết kế Lăng Bác để thực hiện các kế hoạch khác. Vì vậy tháng 6 năm 1973 hai Chính phủ mới ký Nghị định thư về việc Liên Xô tiếp tục thiết kế và giúp đỡ xây dựng Lăng. Ta yêu cầu Bạn cố gắng giúp đỡ để Cơng trình Lăng hồn thành và đưa vào sử dụng vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945÷1975).
<b>-</b> Bạn thiết kế khẩn trương, nhưng vẫn khơng kịp tiến độ thi công, mãi đến tháng 8 năm 1974, sau 1 năm khởi công ta mới nhận được các bản vẽ thi công cuối cùng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>-</b> Nhìn chung đồ án thiết kế đã thực hiện đúng nhiệm vụ thiết kế, có chất lượng cao. Các tác giả thiết kế chính đều là những chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm. Với tinh thần quốc tế vơ sản trong sáng và với tình cảm và lịng kính u vô hạn đối với Bác Hồ, nên các cơ quan thiết kế và các tác giả đã làm hết sức mình để cho Lăng Bác thật sự là cơng trình kiến trúc vĩ đại, có độ bền vững cao, trang trí hài hịa và có các hệ thống thiết bị hiện đại, có cơ số dự phịng cao.
<b>-</b> Tuy nhiên vì Bạn ở xứ lạnh nên chưa am hiểu hết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của ta nên một số mặt kỹ thuật xử lý chưa thích hợp. Bạn chưa hiểu sâu tập quán của Nhân dân ta và các chuyên gia của Việt Nam cũng mới tham gia thiết kế cơng trình đặc biệt này nên thiếu kinh nghiệm. Vì vậy có một số giải pháp kỹ thuật chưa hợp lý nên trong quá trình sử dụng phải bổ sung hồn thiện.
<b>Quần thể lăng Bác:Quảng trường Ba Đình:</b>
Lăng được xây dựng trên nền cũ của lễ đài giữa quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời. Nghĩ tới lúc thống nhất đồng bào cũng được thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã chính thức khởi công xây lăng vào 2 tháng 9 năm 1973. Cát được lấy từ suối Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình do người dân tộc Mường đem về. Đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiêm Hoá, Ngũi Thỡa, Tuyên Quang... Đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (chùa Thầy), đá đỏ núi Non Nước... Nhân dân dọc dãy Trường Sơn cũng gửi ra 16 loại gỗ quí. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chũ nõu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên-Lai Châu, tre từ Cao Bằng... Thanh thiếu niên cũng tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm. Trong lăng là thi hài Hồ Chí Minh đặt trong hịm kính được ghép bằng đá đen huyền lấp lánh. Qua lớp kính trong suốt, Hồ Chí Minh nằm trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân có đặt một đơi dép cao su.
Lăng có chiều dài 320 m, rộng 100 m, và 240 ô cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Là nơi trang nghiêm của Hà Nội, lăng được bảo vệ cẩn mật. Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chí Minh. Đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngơi nhà sàn Hồ Chí
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Minh. Lăng Hồ Chí Minh thường có nhiều đồn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.
<b>Phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh:</b>
Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc tại đây từ tháng 12/1954 đến tháng 9/1969. Trong 15 năm đó, Người đã cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho Cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ quan trọng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập, dân tộc dân chủ, vì hồ bình và tiến bộ xã hội của thế giới.
Tồ nhà đồ sộ, bề thế, sang trọng cao bốn tầng nhìn thẳng ra đường Hùng Vương là điểm di tích đầu tiên trong hành trình tham quan Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Trong thời gian thực dân Pháp thống trị, toà nhà này được gọi là Phủ tồn quyền Đơng Dương vì đây là nơi ở và làm việc của các Tồn quyền Đơng Dương. Cơng trình mang phong cách thời Phục hưng này do kiến trúc sư người Pháp gốc Đức Lichten Fenđơ thiết kế, được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ XX (1900 - 1906). Quy mô và phong cách kiến trúc của tòa nhà dường như muốn thể hiện quyền uy và sức mạnh của nước Pháp ở Đông Dương. Diện tích sử dụng của tịa nhà gần 1300 mét vng. Tồn bộ tồ nhà có trên 30 phịng; mỗi phịng được trang trí theo một phong cách riêng. Mỗi khi có một viên Tồn quyền lên thay thế, tồ nhà lại được trang trí, sửa chữa lại theo ý thích của người chủ mới. Từ ngày tồ nhà hoàn thành xong đến khi cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời đã có 29 đời Tồn quyền và Quyền Tồn quyền đến ở và làm việc tại đây. Pôn-Bô (Paul Beau) là Toàn quyền đầu tiên. Toàn quyền cuối cùng là Đờ-Cu (Decoux), sau đó ơng ta giữ ln chức Cao uỷ ở Đơng Dương và Thái Bình Dương.
Từ năm 1945 đến năm 1946, phát xít Nhật rồi đến quân đội Trung Hoa dân quốc chiếm giữ toà nhà này. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai thì nơi đây lại trở thành trụ sở cao nhất của chính quyền thực dân. Tồ nhà này chỉ thực sự thuộc về nhân dân Việt Nam sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành cơng.
Ngày 10/10/1954, Hà Nội được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ, Trung ương Đảng từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đơ sau chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ. Với lòng kính yêu lãnh tụ, với mong muốn đảm bảo điều kiện làm việc tốt nhất cho Hồ Chủ tịch và đáp ứng được những nghi lễ ngoại giao khi Người đón tiếp khách trong nước, quốc tế, các đồng chí trong Trung ương Đảng, Chính phủ đã mời Người về ở và làm việc tại Phủ Toàn quyền xưa, nhưng Người đã khước từ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Trước kia đây là Phủ Toàn quyền, nhưng việc xây dựng nên cơng trình kiến trúc này là bàn tay của những người thợ Việt Nam. Bây giờ nhân dân
</div>