CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỌC SINH - SINH VIÊN.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Cở sở lý luận và thực tiễn 2
1.1. Cở sở lý
luận
2
1.2. Cở sở thực
tiễn
4
1.2.1. Bối cảnh thế
giới
4
1.2.2. Bối cảnh trong
nước
6
II. Phấn tích chính sách tín dụng cho HSSV ở Việt Nam 7
2.1. Phân tích nội dung chính
sách
7
2.1.1. Một số văn bản quy
định
7
2.1.2. Nội dung chính sách 8
2.2. Những mục tiêu của chính sách 10
2.3. Đánh giá chính
sách
13
III. Một số kiến nghị. 20
Kết
luận
24
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng đối với học sinh, sinh viên là việc Nhà nước thực hiện chính
sách cho vay hỗ trợ để trang trải một phần chi phí học tập, sinh hoạt của học
sinh, sinh viên đang theo học hệ chính qui tập trung tại các trường đại học (hoặc
tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề có thời
gian đào tạo từ 1 năm trở lên.
Ngân hàng Chính sách xã hội là tổ chức tín dụng của Nhà nước được giao
nhiệm vụ huy động vốn để thực hiện chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh
viên theo Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg
ngày
18/5/2006
của Thủ tướng Chính
phủ.
1.2.2. Cơ sở ra đời
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đẩy mạnh nguồn nhân lực
là một trong những chỉ
đạo
của
chính phủ.
Ngày 28/12/2001, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát
triển giáo dục năm 2001-2010. Chiến lược đã chỉ rõ con người và nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Để từng bước triển khai chiến lược giáo dục cần tiến hành nghiên cứu và
xây dựng những chính
sách
phát
triển giáo dục nói chung, trong đó có những
chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nói riêng. Trên tinh thần đó, trong
những năm qua Đảng và nhà nước luôn có những chính sách chăm lo và đầu tư
cho giáo dục nói chung và những chính sách hướng vào học sinh, sinh viên-
nguồn nhân lực
trong tương lai. Cũng vì vậy trong nhiều nghị sự chính sách của nhà nước, vần
đề tín dụng đối với HSSV do nhà nước hỗ trợ ngày càng được thảo luận nhiều.
Chương trình cho vay là mối quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch định
chính sách bởi vì nó có thể góp phần giải quyết một loạt những vấn đề chính
sách căng thẳng của chính phủ. Việc cho vay và được vay giữ một vai trò trung
tâm thúc đẩy đối thoại chính sách và chia sẻ tri thức. Việc hỗ trợ cải cách thông
qua chương trình và dự án cho vay khuyến khích phát triển các hoạt động văn
hóa, xã hội, kinh tế. Nó góp phần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với
trình độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Đồng thời
đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với một bộ phận dân cư vì lẽ này
hay lẽ khác mà trong cuộc sống có những khó khăn không đủ điều kiện cho con
em mình được học tập. Tạo điều kiện cho các con em gia đình chính sách để các
em có trình độ và kiến thức, được thụ hưởng chính sách giáo dục của Nhà nước
ta, thụ hưởng chính sách đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Thụ hưởng thành quả trong công cuộc
xây
dựng
và phát triển giáo dục nhằm tạo
sự công bằng xã hội để mọi người nhận được sự công bằng xã hội trong giáo
dục và đào tạo, có công ăn việc làm, từng bước thoát nghèo. Vì vậy, tín dụng đối
với HSSV là chính
sách
hợp
với yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế trong
giai đoạn mới, phù hợp với lòng dân, được nhân dân đón nhận và nhiệt tình ủng
hộ, thể hiện tính ưu việt mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đang phấn đấu xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xóa đói giảm nghèo, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 78/2002 ND-CP ngày 4/10/2002 về tín dụng đối với hộ
nghèo và
các đối tượng chính sách, đồng thời chính phủ ban hành quyết định số
131/2002
QD-TTg về việc thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam trên cơ sở
tổ chức lại ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây để thực hiện nhiệm vụ cho
vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Sự ra đời của Ngân hàng
Chính sách Xã hội đã tạo lập một công cụ quan trọng để thực hiện hỗ trợ tín
dụng cho người nghèo. Tín dụng đối với HSSV đã dược thực hiện trong chính
sách này của chính phủ. Song cũng vì vậy
mà
phạm
vi đối tượng được áp dụng
cũng rất hẹp và số tiền được vay cũng thấp, chưa giải quyết triệt để mục tiêu
công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo đồng thời không tạo được động lực để
phát triển sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là việc mở rộng hệ thống giáo dục đại
học. Bởi vậy cần có một chính sách tín dụng dành cho đối
tượng
HSSV.
1.2.1. Bối cảnh thế giới.
Ngày nay, dường như bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều nhận thức rõ
rằng nhân tố con người hay nguồn nhân lực con người là nhân tố quyết định đến
sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
Trong xu thế toàn cầu hóa, cùng với chính sách mở cửa về kinh tế, thu
hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ. Hầu hết các nước
trên thế giới đều chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo
để
nâng
cao mặt bằng
dân trí , đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thật đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế theo hướng hiện đại. Đầu tư cho giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực
trong tương lai, vấn đề tín dụng cho HSSV do nhà nước hỗ trợ ngày càng được
thảo luận nhiều trong chương trình nghị sự chính sách của nhiều nước. Chương
trình tín dụng đối với HSSV đã có mặt ở hơn 50 nước trên khắp thế giới và hầu
hết đều dành cho giáo dục trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và đại
học. Điển hình ở Châu Á,
nơi được mệnh danh là “thiên đường của giáo dục đại học”, chương trình này
đã được thiết lập ở một số quốc gia như: Úc, Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia, Mông Cổ, Philippin, Pakixtan, Singapo, Việt
Nam, Thái Lan, Xrilanka,…
Trung Quốc.
Trung Quốc từ lâu được biết đến là một trong những nước có nền văn hóa
đồ sộ và lâu đời nhất thế giới. Ngày nay, Trung Quốc lại được nhiều người biết
đến như một nền kinh tế trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục chất
lượng cao. Trong hơn 50 năm qua, chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục phát huy
truyền thống chú trọng phát triển giáo dục từ ngàn xưa. Mỗi năm ngân sách tài
chính được cấp cho ngành giáo dục chiếm gần 14% tổng chi tiêu nhà nước,
tương đương gần
3% GDP. Chương trình cho sinh viên vay lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc
năm 1986. Hai chương trình quốc gia chính thức được bắt đầu năm 1999 và
hiện vẫn trong giai đoạn xây dựng; một chương trình do chính phủ trợ cấp và
chương trình thứ hai hoạt động theo hình thức thương mại. Chương trình cho sinh
viên vay vốn do chính phủ trợ cấp (GSSLS) là chương trình cho vay chính ở
Trung Quốc. Chương trình có đối tượng là sinh viên nghèo hệ chính quy tập
trung ở các trường đại học công lập.
Hàn Quốc.
Ở Hàn Quốc ưu tiên phát triển trước nguồn nhân lực là một trong những
nhân tố hàng đầu tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong suốt 30
năm của Hàn Quốc.
Hàn Quốc đã đầu tư 30 tỷ USD cho giáo dục, trong đó tăng tỷ lệ chi tiêu cho
giáo dục bậc cao lên mức 28,6% GDP.
Hàn Quốc có 6 chương trình cho vay được chính phủ hỗ trợ cho giáo dục đại học
và đến được với 16% số sinh viên. Trong số những chương trình này, chương
trình cho vay của Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực và Tổng công ty
lương hưu dành cho công chức nhà nước là lớn nhất, chiếm gần 86% tổng số vốn
vay của sinh viên. Chương trình của Bộ Gíao dục và Phát triển nguồn nhân lực là
lớn nhất trong số 6 chương trình cho vay
được
chính
phủ hỗ trợ tài chính.
Chương trình này giải ngân các khoản vốn vay có trợ cấp lãi suất cho toàn bộ
lĩnh vực giáo dục đại học. Chương trình có đối tượng là sinh viên nghèo, ưu tiên
cho sinh viên thuộc nhóm thất
nghiệp
và
có thu nhập thấp.
1.2.2. Bối cảnh trong
n
ƣ
ớc.
Theo thống kê của tổng cục thống kê, số lượng HSSV đều tăng qua mỗi
năm. Về số lượng sinh
đại
học,
cao đẳng cụ thể tăng như sau: Năm 2000 có 899,5
nghìn sinh viên đên năm 2007 là 1,6 triệu sinh viên và năm 2009 là 1,796 triệu
sinh
viên
Thực tế hiện nay có rất nhiều sinh viên gặp khá nhiều khó khăn trong
học tập trong đó có vấn đề học phí phải nộp và các chi phí khác trang trải, phục vụ
cho học tập như tiền ăn học, tiền sách, tiền thuê nhà(đối với nhưng sinh viên từ
nơi khác đến theo học).
HSSV là đối tượng nhạy cảm hơn ai hết với tác động của những khó khăn
do giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tăng cao trong thời gian qua. Theo thống kê
của ngành giáo dục thì chi phí cho một sinh viên trong
một
năm
còn nhiều hơn cả
học phí phải đóng hàng năm. Nếu nhìn một cách tổng thể, số sinh viên xuất thân
từ các vùng quê chủ yếu là thu nhập của gia đình từ nông nghiệp thì khả năng chu
cấp của gia đình cho sinh viên gặp rất nhiều khó khăn, chưa kể các sinh viên ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo….Sẽ là một sự thiệt hại lớn nếu như gần
67% sinh viên có nhu cầu vay vốn nhưng không được đáp ứng sẽ phải nghỉ học.
Hiện nay, nhu
cầu vay vốn của HSSV vẫn tiếp tục tăng cao, chương trình tín dụng này đã và
đang tạo nhiều cơ hội hơn nữa cho những người nghèo được đi học đại học, để
HSSV không phải bỏ học vì thiếu học phí, từ đó góp phần cải thiện sự công
bằng xã hội trong giáo dục.
II. PHÂN TÍCH CHƢƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH, SINH VIÊN VAY
VỐN CỦA VIỆT NAM.
2.1. Nội dung
ch
ƣ
ơng
trình vay vốn đối với học sinh, sinh
viên.
2.1.1: Một số văn bản quy định chương trình cho học sinh, sinh viên vay vốn.
Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên được áp dụng để hỗ trợ cho
học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn góp phần trang trải chi phí cho việc
học tập, sinh hoạt của học sinh, sinh viên trong thời gian theo học tại trường bao
gồm: tiền học phí; chi phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở,
đi lại. Theo quyết định số 157/2007 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 27
tháng 9 năm 2007 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên đã quy định về đối
tượng vay vốn, điều kiện cho vay và phương thức vay vốn.
Chính sách được thể hiện trong các văn bản sau:
- Ngày 18/5/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 107/2006/QĐ-
TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh
viên.
- Ngày 18/8/2006, Bộ tài chính banh hành Thông tư số 75/2006/TT-BTC về
hướng dẫn một số nội dung Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg ngày 18/5/2006
của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên
- Ngày 27/9/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 157/2007/QĐ-
TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh
viên.
- Ngày 15/11/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Q
u y ế
t
đ
ịnh
s
ố
2077/Q
Đ
-
T T
g về điều chỉnh mức cho vay đối với học sinh, sinh viên.
2.1.2. Nội dung chương trình
. Đối tượng được vay vốn
Theo điều 2 của quyết định số 157/2007 QĐ-TTg quyết định về đối tượng được
vay vốn là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các trường
đại học (hoặc tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tại
các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật
Việt Nam, gồm:
1. Học sinh, sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ
nhưng người còn lại không có khả năng lao động.
2. Học sinh, sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các đối
tượng:
- Hộ nghèo theo tiêu chuẩn quy định của pháp
luật.
- Hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150% mức thu
nhập bình quân đầu người của hộ gia đình nghèo theo quy định của pháp luật.
3. Học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật,
thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
Phương thức cho vay
Theo điều 3 của quyết định số 157/2007 QĐ-TTg quyết định về phương thức
cho
vay:
1. Việc cho vay đối với học sinh, sinh viên được thực hiện theo phương thức cho
vay thông qua hộ gia đình. Đại diện hộ gia đình là người trực tiếp vay vốn và
có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng Chính sách xã hội. Trường hợp học sinh, sinh
viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại
không có khả năng lao động, được trực tiếp vay vốn tại Ngân hàng Chính sách
xã hội nơi nhà trường đóng trụ sở.
2. Giao Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện cho vay đối với học sinh, sinh
viên.
Điều kiện vay vốn
Theo điều 4 quyết định số 157/2007 QĐ-TTg quyết định về điều kiện vay
vốn:
1. Học sinh, sinh viên đang sinh sống trong hộ gia đình cư trú hợp pháp tại địa
phương nơi cho vay có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 Quyết định này.
2. Đối với học sinh, sinh viên năm thứ nhất phải có giấy báo trúng tuyển hoặc
giấy xác nhận được vào học của nhà trường.
3. Đối với học sinh, sinh viên từ năm thứ hai trở đi phải có xác nhận của nhà
trường về việc đang theo học tại trường và không bị xử phạt hành chính trở lên
về các hành vi: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, buôn lậu.
2.2. Những mục tiêu của
ch
ƣ
ơng
trình cho sinh viên vay
vốn
Chương trình cho sinh viên vay vốn trên thế giới rất đa dạng. Nói về mục tiêu
thì có thể phân thành 5 mục
tiêu
cơ
bản sau đây:
Thứ nhât, mục tiêu xã hội (bình đẳng/ cơ hội tiếp cận cho người
nghèo)
- Các khoản vay nhằm vào đối tượng sinh viên có nhu cầu.
- Trợ cấp chéo: hỗ trợ sinh viên có nhu cầu bằng nguồn thu từ mức học phí
cao hơn.
- Tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học, đảm bảo công bằng xã hội trong
giáo dục đại học.
Thứ hai, hỗ trợ sinh viên.
- Giảm bớt khó khăn về tài chính cho sinh viên trong quá trình học.
- Tăng cường trách nhiệm của sinh viên.
- Mang lại sự độc lập về tài chính cho sinh viên.
Thứ ba, mục tiêu ngân sách ( tạo thu nhập từ học phí)
- Tạo nguồn thu nhập cho các trường đại học công lập (do có thể tăng mức
học phí), nhằm đảm bảo mức chi phí đào tạo cho sinh viên trong một
năm tăng lên để duy trì chất lượng đào tạo.
- Thay thế nguồn vốn:
+ Để đối phó với việc cắt giảm chi tiêu chung của chính phủ, bao gồm chi
tiêu cho ngành giáo dục.
+ Để đối phó với việc phân bổ lại ngân sách giáo dục của nhà nước từ
trường đại học sang các bậc học khác, đem lại lợi ích xã hội cao hơn.
Thứ tư, mở rộng hệ thống giáo dục đại học.
- Chương trình ở đây, một mặt là có thể tăng tỷ lệ đóng góp của sinh viên
qua học phí, bù đắp cho phần Ngân sách Nhà nước tính trên đầu sinh
viên bị giảm xuống ở đại học công lập, mặt khác là giảm bớt gánh nặng về
mức học phí toàn phần mà sinh viên phải đóng ở các trường đại học tư thục.
- Tạo nguồn thu bổ sung từ học phí để trang trải một phần cho việc mở
rộng khối các trường đại học công lập.
- Mở rộng các trường đại học thông qua phát triển khối các trường đại học tư
thục (để giảm thiểu vai trò của nhà nước trong tài trợ cho sự mở rộng
này)
Thứ năm, nhu cầu về nguồn nhân lực.
- Đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp cụ thể hoặc nguồn nhân lực khu vực.
- Chương trình góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nằm trong ưu
tiên quốc gia.
Mục tiêu của chương trình tín dụng cho sinh viên ở Việt
Nam
M
ục
t
i
ê u
c
hính :
- Tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho người nghèo, đảm bảo công bằng xã
hội trong giáo dục đại học. (mục tiêu thứ nhất)
- Đóng góp nhu cầu về nguồn nhân lực (mục tiêu thứ
năm)
Ở Việt Nam, chương trình hỗ trợ vốn cho học sinh, sinh viên được triển
khai từ năm 2007 với mục tiêu là không để học sinh, sinh viên nào bỏ học vì
không có tiền đóng học phí. Sau hơn 3 năm triển khai, hơn 2 triệu học sinh, sinh
viên con em gia đình khó khăn đã được vay vốn để tiếp tục học tập. Đây là một
chủ trương lớn, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc góp phần tích cực cho việc đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước. Chương trình
sinh
viên
ở Việt Nam, qua chỉ thị số
21/2007/CT-TTg, mục tiêu chính là mục tiêu thứ nhất, tăng cơ hội tiếp cận giáo
dục đại học cho người nghèo, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục đại học.
“Để thực hiện nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho tất
cả các học sinh, sinh viên đã trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước, nhưng có gia đình khó khắn, có thể
học đến khi tốt nghiệp” trích chỉ thị số 21/2007/CT-TTg về thực hiện chế độ
cho vay ưu đãi để học đại học, cao đẳng và dạy nghề.
Bên cạnh đó, mục tiêu chính kế tiếp là mục tiêu thứ năm, đóng góp nhu
cầu về nguồn nhân lực.
“Giáo dục – đào tạo, trước hết là giáo dục đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng và đào
tạo nghề nghiệp với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội có ý nghĩa rất quyết
định đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong
thời
kì hội nhập quốc
tế” trích chỉ thị số 21/2007/CT-TTg về thực hiện chế độ cho vay ưu đãi để học
đại học, cao đẳng và dạy nghề.
M
ục
t
i
ê u
phụ :
Chương trình cho sinh viên vay vốn của Việt Nam, còn có cả mục tiêu
thứ hai, thứ ba ( tuy nó không phải là mục tiêu chính ), nghĩa là có cả “mục tiêu
chia sẻ chi phí”, chuyển bớt gánh nặng tài chính sang
cho
sinh
viên và gia
đình họ. Chương trình sinh viên vay vốn của Việt Nam hiện nay tương tự như
chương trình của Anh và Úc cách đây 10-15 năm, có mục đích thay đổi “cơ cấu
chia sẻ chi phí”
, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng học phí, tăng chi phí đơn vị ( chi phí đào
tạo 1 sinh viên trong thời gian học) để nâng cao chất lượng đào tạo.
2.3 Đánh giá
ch
ƣ
ơng
trình
Những kết quả đạt
đ
ƣ
ợc.
Ngày 10/3/2011, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện
Nhân đã chủ trì Hội nghị trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
sơ kết ba năm thực hiện Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên (thực
hiện theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ).
Theo báo cáo, đến nay đã có hơn 2 triệu học sinh, sinh viên thuộc 1,8
triệu hộ gia đình đã được
vay
vốn
với doanh số cho vay tín dụng học sinh sinh
viên đạt
27.049 tỷ đồng.
Chúng ta đều biết, chính sách tín dụng cho học sinh sinh viên của Chính
phủ là rất cần thiết và hữu ích đối với các đối tượng học sinh sinh viên được
hưởng chính sách này. Qua ba năm thực hiện, có thể nhận thấy chính sách này
có rất nhiều ưu điểm, tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn những hạn chế cần phải
khắc phục trong
thời
gian tới.
Ƣu
điểm
- Qua ba năm thực hiện, chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên
đã khẳng định ý nghĩa xã hội to lớn của nó, tạo điều kiện để bất cứ học sinh, sinh
viên nào nếu thi đỗ đều có điều kiện theo học.
- Trong thời gian thực hiện chính sách, các chương trình cho vay vốn của
ngân hàng nhìn chung đã giải ngân kịp thời, đưa vốn đến đúng với hầu hết các
đối tượng, bảo đảm vốn được dùng đúng mục đích là trang trải cho việc học tập
và được dùng có hiệu quả, chỉ có một số rất ít đối tượng sử dụng không đúng
mục đích. Chính nhờ nguồn vốn này, nhiều gia đình khó khăn đã có khả năng
cho con em đi học, giúp cho hàng triệu học sinh, sinh viên có thêm kinh phí
trang trải học phí và sinh hoạt hằng ngày. Thực tế hiện nay cho thấy, có rất
nhiều sinh viên gặp khá nhiều khó khăn trong học tập, trong đó có vấn đề học
phí phải nộp và các chi phí khác trang trải, phục vụ cho học tập, như: tiền ăn
học, tiền sách vở, tiền ở ký túc xá (nhà thuê) đối với những sinh viên từ các địa
phương đến học. Theo thống kê của ngành giáo dục thì chi phí cho một sinh viên
một năm học còn nhiều hơn cả học phí phải đóng hàng năm. Nếu nhìn một cách
tổng thể, số sinh viên xuất thân từ các vùng quê chủ yếu là thu nhập của gia đình
từ nông nghiệp thì khả năng chu cấp của gia đình cho sinh viên gặp rất nhiều khó
khăn, chưa kể các sinh viên ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,…Nhờ chính sách tín dụng cho học sinh sinh
viên của Chính phủ, đã làm giảm bớt những khó khăn cho những trường hợp
này. Bên cạnh đó, chính sách này cũng giúp hạn chế được dịch vụ cho vay nặng
lãi phục vụ cho việc nhập trường hiện nay ở nông thôn và kể cả thành thị.
- Ngoài ra, chính sách này đã có những sự thay đổi, bổ sung, điều chỉnh
phù hợp và có lợi hơn cho các đối tượng được thụ hưởng.
+ Từ năm học này, về cơ bản chính sách không có nhiều thay đổi mà được
bổ sung thêm một số điều theo hướng giúp đỡ được đông đảo HSSV hơn. Cụ
thể, đối tượng được cho vay sẽ được mở rộng thêm các thành phần bộ đội phục
viên và HSSV nông thôn học nghề (trung cấp, cao đẳng nghề). Ngoài ra, những
trường hợp khó khăn về tài chính đột xuất sẽ được xem xét để vay trong vòng 12
tháng thay vì việc vay kéo dài từ khi khó khăn đến hết khi học như trước. Đồng
thời, trong chính sách năm nay cũng có những điểm mới như sau: Những hộ
có
nhu
cầu hoàn lại vốn, ngân hàng sẽ sẵn sàng phục vụ, thay vì phải chờ hết 4 năm
học như quy định
trước đây.
+ Theo quy định trước đây, HSSV ra trường sau một năm sẽ bắt đầu phải
thực hiện nghĩa vụ trả
lãi
và
trả dần gốc các khoản vay. Từ năm học này, đối
với trường hợp HSSV học xong đi thực hiện nghĩa vụ quân sự sẽ không bị tính
lãi và chưa phải trả nợ gốc. Bên cạnh đó, những HSSV đang vay theo chương
trình vay gián tiếp (vay qua bố mẹ) nhưng bố mẹ mất khả năng thanh toán do
yếu tố khách quan (chẳng may qua đời, tai nạn nặng ) thì được chuyển sang
chương trình vay trực tiếp (sinh viên được trực tiếp vay vốn).
+ Sau khi có sự điều chỉnh khung học phí ở các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy, mức cho vay tối đa từ 800
nghìn đồng/tháng/học sinh, sinh viên được tăng lên 860 nghìn đồng và hiện nay
là 900 nghìn đồng/tháng/học sinh, sinh viên, đỡ phần nào gánh nặng cho người
học. Mức
lãi suất cho vay học sinh, sinh viên là 0,5%/tháng, thấp hơn so với mức lãi suất
cho vay hộ nghèo và diện
chính
sách
khác (0,65%/ tháng).
+ Từ khi triển khai chính sách đến nay, quy trình, thủ tục cho vay đối
với học sinh, sinh viên được Ngân hàng Chính sách xã hội cải tiến nhiều lần
như chuyển từ cho vay trực tiếp học sinh, sinh viên sang cho vay qua gia đình,
giải ngân qua thẻ ATM, giải ngân hoặc thu nợ tại các điểm giao dịch xã, tạo điều
kiện thuận lợi cho các gia đình cũng như học sinh, sinh viên khi giao dịch với
ngân hàng.
- Tín dụng đào tạo cũng đã giúp các nhà trường ổn định quy mô, đồng nghĩa
với ổn định nguồn thu hỗ trợ. Từ khi thực hiện đổi mới cơ chế tài chính trong
giáo dục, việc tăng học phí theo quy định có thể giúp các trường có thêm nguồn để
phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nhưng lại tăng nỗi vất vả cho HS, SV.
Do đó, có thể nói, chương trình tín dụng đã tháo gỡ cơ bản những khó khăn của
cả hai phía. Các trường dễ triển khai chính sách mới của Chính phủ hơn, người
học yên tâm học tập hơn.
Hạn chế
- Thứ nhất, về thủ tục hành chính.
+ Thủ tục hành chính còn rườm rà, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ từ phía nhà
trường và địa phương.
Sự
xác
nhận của các trường đại học, cao đẳng cũng vấp
phải những yêu cầu từ phía ngân hàng quá khắt khe,
những
nội
dung yêu cầu xác
nhận có khi ngoài tầm của trường đại học, cao đẳng, thí dụ: Xác nhận sinh viên
không nghiện hút, cờ bạc,…trong khi nhà trường không thể biết đầy đủ thông tin
này, đặc biệt là thông tin đối với các sinh viên hệ vừa làm vừa học (hệ tại
chức). Do vậy,
một số trường đại học, cao đẳng đã từ chối khéo việc cấp giấy xác nhận, đẩy
sinh viên vào tình trạng không thể vay vốn được vì không có chứng nhận của
trường.
+ Ngoài ra, mẫu giấy xác nhận cần thiết để vay vốn cũng không thống nhất
giữa các địa phương. Mẫu giấy xác nhận vay vốn được áp dụng theo quy định
của Bộ GD-ĐT, có kèm theo giấy cam kết trả nợ. Nhưng một số địa phương lại
không chấp nhận mẫu giấy xác nhận này, đồng thời họ còn quy định theo một
mẫu xác nhận khác của Ngân hàng Chính sách. Điều này khiến cho sinh viên
phải năm lần bảy lượt chạy đi chạy lại xin
làm
xác
nhận, nhiều trường hợp thủ
tục quá rườm rà và khắt khe khiến người vay nản nên bỏ luôn việc vay vốn.
- Thứ hai, công tác quản lý và thu hồi vốn còn gặp nhiều khó khăn.
+ Để đáp ứng công tác quản lý của các nhà trường, Bộ GD-ĐT, Bộ LĐ-
TB&XH và Ngân hàng Chính sách xã hội đã xây dựng hệ thống thông tin quản
lý gồm phần mềm quản lý vay vốn đi học và website
"Vay
vốn
đi học". Nhưng
dữ liệu lấy về từ Ngân hàng Chính sách xã hội chưa phù hợp hoàn toàn với các
yếu tố đầu vào của website nên việc tra cứu thông tin cụ thể về tình hình vay vốn
còn hạn chế. Vì vậy, đến thời điểm này, các cơ quan quản lý, các trường chưa thể
sử dụng website để nắm bắt thông tin sinh viên vay vốn của trường mình.
Từ
đó,
việc quản lý, nhắc nhở, đôn đốc HS, SV trả nợ sau khi ra trường đang gặp nhiều
khó khăn.
+ Tính khả thi của việc thu hồi vốn và lãi đối với đối tượng cho học sinh,
sinh viên vay có thể làm cho ngân hàng chính sách xã hội gặp một số khó khăn
nhất định. Khoản cho vay thường là không có vật
tư
làm
đảm bảo, thời hạn cho
vay cũng khá dài. Khi kết thúc khóa học, sinh viên mới phải trả nợ vay và lãi
suất cho
ngân hàng . Như vậy, nếu một sinh viên từ khi nhập trường đến khi kết
thúc khóa học (4 năm), năm nào cũng được vay vốn thì dư nợ luỹ kế sẽ
lê
n cao,
nhưng
khả năng trả nợ sau khi tốt nghiệp từ năng lực của sinh viên cả là một vấn đề
khó khăn cho sinh viên, điều này sẽ gây cho ngân hàng chính sách xã hội những
áp lực khi thu hồi vốn và lãi. Số dư nợ từng người đối với ngân hàng là không
lớn, nhưng vì nhiều người vay, do vậy tổng dư nợ sẽ tăng, càng làm cho khả năng
thu hồi vốn của
ngân
hàng
bị hạn chế. Hơn nữa, nếu người vay không trả được
nợ do sự di chuyển địa chỉ nơi cư trú, do chưa tìm kiếm được việc làm để có
thu nhập trả nợ…cũng sẽ làm tăng những khó khăn cho các ngân hàng.
- Thứ ba, còn tình trạng cho vay không đúng đối tượng.
Đối tượng thụ hưởng của Chương trình cho vay học sinh, sinh viên theo
Quyết định 157/2007/QĐ-TTg trải rộng đã dẫn đến những khó khăn nhất định
trong việc xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn
về tài chính của Ủy ban Nhân dân địa phương. Mặc dù cơ chế dân chủ
(cho
dân
bình bầu hộ nghèo) nhưng một số địa phương triển khai chưa đến nơi đến chốn,
dẫn đến việc xác định đối tượng chưa chính xác. Đặc biệt, việc xác định đối
tượng nghèo và cận nghèo mang tính định tính, nên một số địa phương làm tắt
theo kiểu tạo điều kiện cho tất cả sinh viên đều được vay. Trái lại, một số địa
phương chạy theo bệnh thành tích, nên mỗi địa phương chỉ đưa ra một số hộ
nghèo nhất định, khiến nhiều học sinh, sinh viên không được vay vốn mặc dù
gia đình có hoàn cảnh khó khăn và thuộc diện được vay vốn. Điều đó chưa phù
hợp với những chính sách của Nhà nước và cũng làm cho các đối tượng được thụ
hưởng chính sách này chưa được xác định đúng.
- Thứ tư, nguồn vốn cho vay còn thiếu.
Mức độ cho vay trong chính sách này phụ thuộc phần lớn vào mức độ
hoàn vốn của nó, vì nguồn vốn bổ sung hầu như rất ít hoặc không có. Tuy nhiên,
theo đã phân tích ở trên thì mức độ thu hồi vốn còn gặp không ít khó khăn.
Việc thu hồi
vốn còn chậm, dẫn đến thiếu vốn để quay vòng. Khi ra trường, sinh viên
thường gặp khó khăn trong xin việc làm, nếu có việc thì lương thường thấp, chi
phí cho bản thân còn không đủ, do đó họ hoàn vốn chậm, ảnh hưởng đến việc
luân chuyển vốn. Ngoài ra, đối tượng được vay vốn phần lớn là con nhà nghèo,
người bảo lãnh không có khả năng trả nợ thay. Vì vậy, số nợ quá hạn ngày một
nhiều hơn. Những điều đó đã dẫn tới một kết cục: Khoản vốn cho vay đã ít
ngày một cạn, số đối tượng được vay ngày càng ít đi.
Ngoài ra, do các ngân hàng thương mại bao gồm ngân hàng thương mại
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần… không tham gia cho học sinh,
sinh viên vay vốn mà chỉ có ngân hàng chính sách
cho
vay.
Do đó, nguồn vốn
không thể đủ để giải ngân cho tất cả các đối tượng trong diện được vay.
- Thứ năm, mức cho vay còn thấp.
Kể từ khi thực hiện chính sách tín dụng cho học sinh sinh viên đến nay,
đã có sự điều chỉnh các mức cho vay từ
800.000đ/người/tháng lên
860.000đ/người/tháng rồi đến 900.000đ/người/tháng. Tuy nhiên, sự điều chỉnh
đó còn chưa theo kịp với mức tăng học phí cũng như sự tăng giá một cách chóng
mặt của các mặt hàng sinh hoạt thiết yếu trong thời gian gần đây. Do đó, cho dù
mức tiền vay được tăng lên, nhưng mức tăng đó so với vấn đề lạm phát cao
hiện nay vẫn
là
quá thấp, sự điều chỉnh tăng đó chỉ góp phần rất nhỏ trong việc
giải quyết những khó khăn đối với các đối tượng được vay vốn.
T
óm
lại:
Sau một thời gian triển khai và thực hiện, mặc dù còn có những khó khăn
và hạn chế nhất định, song chính sách tín dụng đối với HS, SV đã thực sự là
chính sách đầu tư có chiều sâu, dài hạn, có hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực,
đào tạo
nhân tài. Trong thời gian tới, cần có những giải pháp để chính sách này phát
huy được nhiều tác dụng hơn
và
hạn
chế được những nhược điểm vẫn còn tồn tại.
III. CÁC KIẾN NGHỊ CHO CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỌC
SINH, SINH VIÊN.
1.Triển khai cho vay vốn đi du học nước ngoài
Cùng với chính sách cho học sinh, sinh viên vay vốn học tập trong nước,
Nhà nước cần sớm triển khai cho vay vốn đi du học ở nước ngoài. Mức vay có
thể bằng 40% - 100% nhu cầu đóng học phí tại nước đi du học. Việc cho vay gắn
với trách nhiệm gia đình tại Việt Nam và trách nhiệm của sinh viên sau khi hoàn
thành khóa học đối với đất nước, không nhất thiết người đi du học sau khi tốt
nghiệp phải về nước làm việc ngay mà có thể được phép làm việc ở nước ngoài
khoảng 3 – 5 năm.
Nhà nước có thể dành mỗi năm khoảng 500 – 800 chỉ tiêu được vay vốn
đóng học phí và hỗ trợ chi phí đi học ở nước ngoài cho những học sinh đạt
điểm cao trong các kỳ thi tuyển sinh đại học ở tất cả các khối đào tạo theo
những quy định cụ thể. Phần hỗ trợ chi phí đó không phải trả lãi, có thể phải
hoàn lại
hoặc không
phải hoàn lại phù hợp với các tiêu chí được đưa ra từ đầu.
Phần hỗ trợ tài chính đó bao gồm cả chi phí học tập ngoại ngữ trong nước.
Những người đó sau khi tốt nghiệp nếu về nước làm việc thì có thể được miễn
một phần tiền hỗ trợ. Nếu ở lại nước ngoài làm việc thì phải trả nợ toàn bộ kể cả
vốn tín dụng và phần hỗ trợ kinh phí nhà nước. Phần trả nợ cũng được tính cụ thể
trả nợ dần hằng năm dựa trên thu nhập của họ. Sau khi tốt nghiệp đại học, nếu có
nhu cầu học thạc sĩ hay tiến sĩ,
thì Nhà nước hỗ trợ tiếp kinh phí cho họ để sau này trở về làm cán bộ giảng dạy
tại các trường đại học, cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách của
Chính phủ, phù hợp với các tiêu chí được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa
ra.
2. Mở rộng diện cấp học bổng cho sinh viên xuất
sắc
Kết hợp với chính sách tín dụng học tập, Nhà nước cần mở rộng diện cấp
học bổng cho sinh viên, trước tiên đó là những học sinh đoạt giải tại các cuộc
thi quốc tế, hoặc cho cả những học sinh tham dự các cuộc thi quốc tế; tiếp đến là
học sinh đoạt các giải chính thức tại các kỳ thi quốc gia, đỗ thủ khoa và “ á khoa”
trong một số trường đại học trọng điểm được lựa chọn. Nhà nước khuyến khích,
tạo điều kiện cho các các đối tượng nói trên nếu có nhu cầu du học đại học ở
nước ngoài vay vốn đi học và có chính sách vận động, khuyến khích các doanh
nghiệp cấp học bổng cho sinh viên học đại học cả ở trong và ngoài nước.
3. Tăng cường đàm phán, ngoại giao tìm nguồn tài trợ học bổng từ các nước, các
tổ chức quốc tế
Cùng với việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, cần tăng cường đàm
phán, tìm kiếm qua
con
đường
ngoại giao nguồn học bổng của chính phủ và các tổ
chức quốc tế, cấp cho sinh viên ưu tú của Việt Nam; đàm phán, tìm kiếm
nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, các tổ chức quốc tế
khác, của chính phủ các nước, tạo nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội
thực hiện chính sách tín dụng học tập. Công tác trên cần được hỗ trợ bằng việc
tăng cường đào tạo tiếng Anh, trợ giúp sinh viên học tiếng Anh, nhất là sinh viên
các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đáp ứng yêu cầu của các nước tiếp
nhận sinh viên đến học tập.
4. Điều chỉnh mức vay phù hợp với tình hình thực tế và với từng đối tượng sinh
viên
Về mức vay, hiện nay mức vay đối với sinh viên đã được nâng lên
900.000 đồng/người/tháng, tăng hơn so với mức vay bình quân 860.000 đồng của
năm học
2009 – 2010 và tăng mạnh hơn so với mức được vay trước đây (300.000
đồng/tháng). Tuy nhiên, mức vay mới đó vẫn rất thấp so với chi phí thực tế,
phổ biến của sinh viên, nhất là đối với sinh viên học tại Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh. Việc điều chỉnh mức cho vay cũng cần phù hợp với mức học phí
được điều chỉnh theo nhóm ngành học. Đồng thời, Nhà nước nên mở rộng sang
các đối tượng có thu nhập trung bình, có nhu cầu vay vốn học tập, miễn là số
tiền đó được chia đều cho các kỳ đóng tiền và chuyển thẳng cho cơ sở đào tạo.
Mức vay đối với các gia đình nghèo, gia đình cận nghèo, gia đình không thuộc
diện trên nhưng có hoàn cảnh khó khăn hay có nhu cầu vay, cũng cần có sự
khác nhau. Số tiền giải ngân mỗi đợt cũng cần phù hợp với từng đối tượng.
Thực tế hiện nay, nhiều gia đình được xếp loại trung bình, nhưng khi có
1 hay 2 người con học đại học, cao đẳng và dạy nghề, thì lại rơi vào hoàn cảnh
hết sức khó khăn. Khó khăn về tài chính dễ buộc con em họ phải thôi học. Theo số
liệu của NHCSXH, từ năm 2008 đến tháng 6-2009, đối tượng gặp khó khăn đột
xuất về tài chính chiếm 15% trong tổng số sinh viên được vay vốn ưu đãi học tập,
tỷ lệ này hiện nay khoảng 20%. Song, thiết nghĩ nên mở rộng tỷ lệ này, đơn
giản hơn nữa thủ tục cho vay đối với những gia đình có con em đi học gặp khó
khăn về tài chính, kéo dài hơn thời gian cho vay tín dụng học tập (không chỉ quy
định là 12 tháng mà cần tăng lên 24 tháng hay đến khi tốt nghiệp).
5. Mở rộng phạm vi chính sách nhằm hỗ trợ các trường đại học nâng cao điều kiện
cơ sở hạ tầng cho sinh viên
Chính sách này cũng cần mở rộng sang cho các trường đại học, cao
đẳng, vay vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường, nhất là xây
dựng ký túc xá cho sinh viên nếu các cơ sở đào tạo đó có
nhu
cầu.
Kết hợp giữa
vốn tín dụng của Nhà nước thông qua Ngân hành chính sách xã hội, với vốn
đầu tư của ngân sách địa phương, nguồn kinh phí của nhà trường, của doanh
nghiệp, vốn ODA hay vốn tín dụng quốc tế khác.
Hiện nay, 28 địa phương và 3 bộ, ngành đang đầu tư khoảng 5.400 tỉ
đồng xây dựng ký túc xá
cho
sinh
viên các cơ sở đào tạo. Bộ Xây dựng dự báo
nhu cầu vốn đầu tư cho chương trình này trong năm học mới lên tới gần 6.000 tỉ
đồng. Nhưng sau khi chương trình đó được hoàn thành, ước tính chỉ đáp ứng
được khoảng gần 30% nhu cầu. Như vậy, nhu cầu thuê ký túc xá của sinh viên
rất lớn nên cần có chính sách tín dụng của Nhà nước cho lĩnh vực này.
Kết
l
u ậ
n
Có thể khẳng định chính sách tín dụng cho học sinh – sinh viên là một
kênh đầu tư vốn ngân sách nhà nước có hiệu quả kinh tế – xã hội rộng lớn. Song,
thông qua chính sách tín dụng này ngân sách nhà nước không bao cấp cho cả
người vay lẫn Ngân hàng chính sách xã hội. Bởi vì người vay vốn vẫn phải có
trách nhiệm trả nợ cả gốc và lãi sau khi đã tốt nghiệp, đi làm việc có nguồn thu
nhập, đồng thời để có nguồn vốn tiếp tục cho sinh viên khác vay. Tuy nhiên,
chính sách này có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn về trả nợ. Phù hợp với
diễn
biến
của
thực tế, chính sách tín dụng học tập và các giải pháp tài chính khác
đi kèm cần được tiếp tục hoàn thiện, bổ
sung
để đạt được các mục tiêu trước mắt
cũng như lâu dài như đã đề cập.