Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 69 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>HỌC VIỆN NGOẠI GIAO </b>
<b>KHOA TRUYỀN THƠNG VÀ VĂN HĨA ĐỐI NGOẠI </b>
<b>TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN: TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ </b>
<i><b>Đề lẻ </b></i>
<b>Sinh viên: Vũ Hà Phương Anh (TTQT48C11248) Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (TTQT48C11355) Nguyễn Diệu Quỳnh (TTQT48C11551) Nguyễn Mậu Đình Thắng (TTQT48C11560) Đặng Minh Trang (TTQT48C11598) Nguyễn Tất Lâm (TTQT48C11393) </b>
<b>Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Tuấn Phạm Quang Vinh </b>
<b>Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2023 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỤC L C </b>Ụ
<i><b>PHẦN A: Câu 1 ... 4 </b></i>
<b>1. Định nghĩa Truyền thông quốc tế... 4 </b>
2. Nghiên cứu Truyền thông quốc tế bao gồm những chun sâu/khía cạnh/ <b>chức năng gì? ... 4 </b>
2.1. Phạm vi nghiên cứu ... 4
2.2. Phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ môn học Truyền thông quốc tế 5 <b>3. Xu thế Truyền thông quốc tế ... 6 </b>
3.1. Bối cảnh thế giới hiện nay ... 6
3.3 Vai trò của truyền thông quốc tế ... 12
<i><b>PHẦN 2: Câu 2 ... 17 </b></i>
<b>1. Thông tin đối ngoại... 17 </b>
1.1. Định nghĩa ... 17
1.2. Đối tượng và địa bàn của thông tin đối ngoại ... 17
1.3. Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại ... 20
<b>2. Chính sách thơng tin đối ngoại Việt Nam... 22 </b>
2.1. Q trình hình thành chính sách thông tin đối ngoại Việt Nam ... 22
3. Việc nắm vững chính sách thơng tin đối ngoại có ý nghĩa như thế nào đối với anh/chị trong quá trình học tập tại Học viện Ngoại giao và nghề nghiệp <b>trong tương lai? ... 27 </b>
3.1. Vai trị của thơng tin đối ngoại ... 27
3.2. Bối cảnh ... 28
3.3. Liên hệ bản thân ... 28
<i><b>PHẦN 3: Câu 3: Khảo sát, làm rõ đặc điểm truyền thông quốc tế Ấn Độ... 31 </b></i>
<b>1. Giới thiệu về truyền thông quốc tế Ấn Độ... 31 </b>
1.1. Bối cảnh Truyền thông quốc tế Ấn Độ qua từng thời kỳ ... 31
1.2. Các chính sách truyền bá văn hóa, các phương thức truyền thơng
2.3. Vai trị của truyền hình trong việc cơ cấu xã hội và chính trị ... 42
2.4. Vai trị của truyền hình trong truyền thông quốc tế... 44
2.5. Sự phản ánh và phát triển văn hóa Ấn Độ trên màn ảnh quốc tế ... 45
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">2.6. Phát sóng và phân phối truyền hình Ấn Độ trên tồn cầu ... 46
2.7. Truyền hình trong ngoại giao văn hóa ... 48
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>PHẦN A: Câu 1 </b>
<b>thế nghiên cứu Truyền thông quốc tế như một ngành khoa học. 1. Định nghĩa Truyền thông quốc tế </b>
Truyền thông quốc tế được định nghĩa là "truyền thông xuyên biên giới", (the communication that occurs across international borders'). Theo định nghĩa này, đối tượng nghiên cứu của truyền thơng quốc tế chính là các dịng thơng tin ln chuyển xun qua các rào cản biên giới cùng các thể chế và luật lệ điều tiết chúng. Trước kia các nghiên cứu về truyền thông quốc tế thường chi quan tâm đến khía cạnh trao đổi thơng tin giữa các chính phủ với nhau, trong điều kiện một số cường quốc năm quyền thiết lập chương trình nghị sự cho truyền thông thuộc loại này. Nhưng khi “bức màn sắt" phân đôi thế giới trong chiến tranh lạnh bị sụp đổ và những tiến bộ như vũ bão trong kỹ thuật truyền thông (đặc biệt phải kể đến công nghệ thông tin và công nghệ số), truyền thông quốc tế thực sự đã vượt ra khỏi lĩnh vực nhỏ hẹp là quan hệ giữa các chính phủ để bao hàm cả quan hệ giữa các tác nhân kinh tế dân sự ở cấp độ toàn cầu.
Khái niệm communication có gốc Latin là “to share (chia sẻ). Bởi vậy, truyền thông quốc tế hàm nghĩa là chia sẻ tri thức, tư tưởng và niềm tin giữa những người khác nhau trên khắp thế giới; và bởi vậy, có thể trở thành một trong các yếu tố đóng góp vào việc giải quyết xung đột ở cấp độ toàn cầu và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Tuy nhiên, hiện nay đa phần các kênh truyền thông quốc tế lại không được sử dụng vào những mục tiêu trên mà chủ yếu là tập trung vào thúc đẩy lợi ích kinh tế và chính trị của các cường quốc trên thế giới - những người đang nắm giữ và kiểm soát các phương tiện truyền thơng tồn cầu.
<b>2.</b> Nghiên cứu Truyền thơng quốc tế bao gồm những chuyên sâu/khía cạnh/ chức năng gì?
<b>2.1.</b> Phạm vi nghiên cứu
Trước kia các nghiên cứu về truyền thông quốc tế thường chỉ quan tâm đến khía cạnh trao đổi thơng tin giữa các chính phủ với nhau, trong điều kiện một số cường
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">quốc nắm quyền thiết lập chương trình nghị sự cho truyền thơng thuộc loại này. Nhưng khi “bức màn sắt” phân đội thế giới trong chiến tranh lạnh bị sụp đổ và những tiến bộ như vũ bão trong kỹ thuật truyền thông (đặc biệt phải kể đến công nghệ thông tin và công nghệ số), truyền thông quốc tế thực sự đã vượt ra khỏi lĩnh vực nhỏ hẹp là quan hệ giữa các chính phủ để bao hàm cả quan hệ giữa các tác nhân kinh tế và dân sự cấp độ toàn cầu.
Hiện nay, tham dự truyền thơng đại chúng khơng chỉ có các tác nhân nhà nước mà còn các tác nhân phi nhà nước như các chủ thể đến từ xã hội dân sự (các tổ chức xã hội, phong trào xã hội, các tổ chức phi chính phủ, các thành viên của mạng xã hội tồn cầu...); kế đó là các chủ thể đến từ thị trường (các MNCs, các cơng ty và tập đồn xun quốc gia, các hoạt động kinh doanh xuyên biên giới...); và các chủ thể quốc tế (các thể chế quốc tế mang tính khu vực cũng như tồn cầu như ASEAN, WTO, WB....). Cũng bởi vậy mà nội dung của khái niệm “truyền thông quốc tế” đến nay đã rộng ra rất nhiều; nó bao hàm từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự.
Hiện nay truyền thông quốc tế đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều giai tầng trong xã hội: từ nhà nước, thị trường cho đến xã hội dân sự. Phổ nghiên cứu về truyền thông quốc tế cũng mở rộng hơn so với trước đó. Nó khơng cịn bó hẹp trong phạm vi quan hệ giữa các chính phủ. Với thực tiễn đó có thể gọi mọi hoạt động “thông tin đối ngoại” của nhà nước là “truyền thông quốc tế”, nhưng chiều ngược lại thì khơng lại thì khơng. Đó là điểm khác biệt nhưng chiều ngược căn - bản của truyền thông quốc tế hiện nay so với trước kia.
<b>2.2.</b> Phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ môn học Truyền thông quốc
<b>tế </b>
Với tư cách là một môn học: truyền thông quốc tế hiện nay đang nóng lên bởi các nghiên cứu về “văn hóa” xun biên giới; “các phương tiện truyền thơng”, “truyền thơng so sánh” và “truyền thơng chính trị”. Người ta ngày càng quan tâm đến khía cạnh quốc tế của truyền thơng chính là bởi sự phát triển như vũ bão của các ngành công nghiệp truyền thơng và cơng nghiệp văn hóa trong thời đại tồn cầu hóa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Hiện nay, chưa có sự nhất trí chung trong giới nghiên cứu về bộ môn truyền thông quốc tế. Nhiều quan điểm cho rằng, truyền thông quốc tế chưa phải là một ngành khoa học độc lập vì nó là kết quả giao thoa của nhiều ngành khác nhau (mà cụ thể là ngành quan hệ quốc tế và ngành truyền thông).
<b>3.</b> Xu thế Truyền thông quốc tế
<b>3.1. Bối cảnh thế giới hiện nay </b>
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thông tin đang giúp nhân loại tiến hành giao tiếp vượt qua các trở ngại vốn dĩ gắn với không gian và thời gian địa lý. Hệ quả là, q trình tồn cầu hóa trên các phương diện của đời sống nhân loại đang diễn ra mạnh mẽ từ kinh tế, chính trị, xã hội... cho đến văn hóa và tri thức. Khơng gian hoạt động (bao gồm cả không gian giao tiếp) của các chủ thể sống (ở mọi cấp độ từ cá thể cho đến cộng đồng) đang được mở rộng vượt - ra khuôn khổ biên giới của các nhà nước dân tộc (Nation - State).
Dưới tác động của chúng, hầu hết các hình thức (các phương tiện) truyền thống của truyền thơng đang chuyển hóa dần dần theo hướng: rũ bỏ tính chất địa phương để khốc lên bản thân tính chất quốc tế. Đơn cử như một trang báo mạng của một địa phương nào đó, bất cứ ai trên thế giới cũng có thể truy cập đến, đọc nó (nếu như biết ngôn ngữ), thu nhận thông tin và đưa ra các phán xét... Đây là một thực tiễn phổ biến, nhất là với các website viết bằng tiếng Anh một thứ ngơn ngữ được tồn - cầu hóa và truyền thơng quốc tế sử dụng như ngơn ngữ giao tiếp chủ đạo.
Q trình tồn cầu hóa đang tạo ra các dịng thơng tin xun quốc gia mà không cần để ý xem các nguồn phát có mục tiêu “đối ngoại” hay khơng. Nói cách khác, truyền thông quốc tế hiện nay không phụ thuộc vào ý chí hay mục tiêu thơng tin của các chủ thể là quốc gia, mà trái lại, nó bao hàm cái sau này như một bộ phận lệ thuộc. Nó trở thành một “sân chơi” chung, mà ở đó, các nhà nước, cơng ty, cộng đồng và cá thể đều có thể tham dự với những “quy ước và luật lệ tự xây dựng tương ứng. Nếu một nhà nước nào đó muốn hiện diện trên FB, nó buộc phải “đóng vai” thành viên giống như các thành viên cịn lại, và khơng thể mang theo “quyền uy” mà nó có trong đời sống hiện thực vào không gian ảo này.
3.2. Các xu hướng Truyền thông quốc tế
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i><b>3.2.1 Xu hướng tư nhân hóa </b></i>
Xu hướng tư nhân hố rộng khắp những mạng lưới thơng tin và truyền thơng mà vốn trước đó do nhà nước quản lý đã được WTO cùng WB ra sức cổ suý trong - suốt những năm 1990 cho đến bây giờ đã làm thay đổi lớn lao diện mạo của - truyền thông quốc tế.
Cũng bởi các phương tiện truyền thông đại chúng mà đặc biệt là television đã có ảnh hưởng lớn trong việc định hình nghị sự truyền thơng quốc tế, nên các mối quan tâm cũng hướng đến xu hướng tập trung quyền lực thông tin và những ảnh hưởng của quá trình này đối với truyền thông quốc tế.
Mặc dù Internet đang được bàn thảo sôi nổi trong các nghiên cứu về truyền thông quốc tế trong những năm gần đây, nhưng với tư cách là một tác nhân truyền thống, television vẫn là một tác nhân quan trọng trong việc định hình nghị sự đối với hệ thống truyền thơng tồn cầu đương đại.
Trong kỷ nguyên truyền thông số đa kênh, số lượng hình ảnh của thế giới phương Tây được nhân bội tỷ lệ thuận với quyền lực truyền thống mà họ đang nắm giữ. Tất cả những cái đó đã thúc đẩy một lối sống theo chủ nghĩa tiêu dùng trong dân chúng thế giới. Trong bối cảnh như vậy, television với “ngôn ngữ chủ đạo là hình ảnh đã - thể hiện năng lực xuyên qua các rào cản ngôn ngữ và văn hóa để đến được với đại chúng - điều mà trước đó các phương tiện truyền thơng “viết” và “nói” khơng thể làm nổi.
Ví dụ, theo Statista.com, số liệu thống kê được theo năm 2023 về lượng người xem TV trên toàn thế giới hiện tại là 5,46 tỷ người.
<i><b>3.2.2 Xu hướng tập trung hố, sáp nhập hố </b></i>
Ví dụ, Hoa Kỳ vẫn là nước hưởng lợi nhiều nhất do nắm giữ trong tay hệ thống vệ tinh viễn thông hùng mạnh và có đơng đảo các đại diện hàng đầu trong lĩnh vực cơng nghiệp văn hóa và thương mại điện tử.
“Hoa Kỳ đang thống trị hệ thống truyền thơng tồn cầu liên quan đến thơng tin và tư tưởng. Âm nhạc, phim ảnh, tivi và các phần mềm của Hoa Kỳ đã chứng tỏ sự ưu việt, vượt trội và rõ ràng đến mức, có thể con người và “tự do cho dịng chảy của
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">các tư bản” đang là những yêu sách được nền ngoại giao công chúng của Hoa Kỳ theo đuổi. Tạo ra một nền điện ảnh đáng mơ ước với những người nghệ sĩ, đó là Hollywood.
Gần đây, ta thấy thị trường phim ảnh Hàn Quốc cũng đang “phất cờ”. Gần đây nhất đó là bộ phim XO, Kitty là sự kết hợp văn hố và giải trí của cả hai nước Hàn Mỹ - trên nền tảng Netflix. Sản phẩm đón nhận được sự u thích nhiều từ khán giả. Hiện thực đang diễn ra xu hướng tập trung hóa, sáp nhập hóa các cơng ty truyền thống và mạng truyền thông quốc tế mà chủ yếu là của thế giới nói, chúng có mặt - ở khắp nơi trên trái đất. Chúng ảnh hưởng đến “khẩu vị”, đến cuộc sống và cảm hứng của hầu khắp các dân tộc trên thế giới”.
Ví dụ, trong sự kiện xung đột giữa hai nước Nga Ukraine, tồn thế giới ln chú - ý tới động thái đưa tin, truyền thông của các bên nước lớn như Mỹ, phương Tây hay khối NATO. Hay trong các sự kiện chính trị quan trọng , truyền thông các nước lớn trên luôn giành được sự chú ý nhiều hơn cả.
Xu hướng tập trung hóa như vậy trong truyền thơng quốc tế sẽ làm cho bản đồ truyền thông trên tồn cầu trở nên mất cân đối và bất bình đẳng: Một phương Tây hùng mạnh đang thống trị thế giới cịn lại về phương diện thơng tin, văn hóa và truyền thơng. Điều này đã làm dấy lên sự quan ngại của các nước đang hoặc chậm phát triển về hiểm họa bị xâm hại chủ quyền văn hóa.
Hệ quả của thực trạng này là một miền Nam nghèo thông tin ngày càng trở nên phụ thuộc vào một miền Bắc giàu thông tin. Lịch sử dường như vẫn giữ nguyên quy luật: nước giàu thống trị về chính trị, kinh tế, quân sự, ngôn ngữ, mạng lưới vận tải và truyền thơng đối với số đơng những nước nghèo cịn lại.
<i><b>3.2.3 Xu hướng tồn cầu hố </b></i>
Mối quan hệ giữa “tồn cầu hóa” và “truyền thơng quốc tế”
Tồn cầu hoá là một tư tưởng khá mới trong khoa học xã hội, dẫu rằng, những người quan tâm đến lĩnh vực truyền thông đại chúng, các công ty xuyên quốc gia và các hoạt động kinh doanh quốc tế, v.v.. vẫn thường xuyên đề cập đến nó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Đứng trước quá trình thâm nhập lẫn nhau của các xã hội trên thế giới và quá trình gia tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau ở cấp độ toàn cầu, các học giả cũng như các chính trị gia đã nhận thấy sự cần thiết phải sử dụng một thuật ngữ có năng lực mơ tả các hoạt động cũng như q trình gây ra những hiện tượng xuyên quốc gia. Thuật ngữ đó chính là tồn cầu hóa. Rõ ràng là, cái quan điểm nhìn nhận thế giới chỉ qua lăng kính nhà nước dân tộc đã khơng cịn đầy đủ trong tình hình hiện nay.
Tồn cầu hố là một hiện thực phức hợp, nên không thể cắt nghĩa được nó nếu chỉ dựa trên một nguyên nhân duy nhất. Quả thật, sự phát triển của công nghệ là động lực chính của tồn cầu hố, song bên cạnh đó cịn những động lực khơng kém phần mạnh mẽ; đó là ý chí của các nhà nước, sự liên hiệp lại với nhau của các xã hội cơng dân, q trình hợp nhất của các nền kinh tế, sự bùng nổ các thể loại tổ chức xuyên biên giới, các dòng di cư khổng lồ, sự hội nhập khu vực, sự dâng cao của thực tiễn dân chủ, những lo ngại chung về các hiểm họa sinh thái
Mặc dù toàn cầu hóa đang cịn là đối tượng gây nhiều tranh luận, nhưng vẫn tồn tại một số dấu hiệu đặc trưng để nhận biết về hiện tượng này, đó là: cơng nghệ mới; sự tự do hóa các dịng chảy thông tin và khả năng liên lạc trực tiếp vượt qua các trở ngại về khoảng cách; sự gia tăng xu hướng chuẩn hóa các sản phẩm kinh tế và xã hội; gia tăng hội nhập xuyên quốc gia; tính dễ làm tổn thương lẫn nhau do sự tuỳ thuộc vào nhau tăng lên. Dưới đây là những phân tích ngắn gọn về các đặc trưng ấy.
Công nghệ mới
Cuộc cách mạng công nghệ hiện nay đang giúp con người rút ngắn thời gian và khoảng cách một cách đáng kể trên nhiều bình diện của đời sống xã hội. Và thành tựu đó, đến lượt mình, đã tạo ra những chuyển biến về chất trong quan niệm về không - thời gian xã hội và không thời gian nhân cách.-
Ý nghĩa của không gian vật lý trong xã hội (vốn vẫn được đo bằng khoảng cách địa lý giữa các chủ thể có ý thức) đã bị giảm một cách đáng kể. Cùng công nghệ mới, quá trình truyền tin, giao tiếp của con người vượt không gian, với tần suất và tốc độ chưa từng có.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Việc tăng tốc những tương tác và những q trình mang tính tồn cầu, dưới áp lực của cuộc cách mạng vận tải và truyền thông, đang làm cho cường độ và quy mô của những mối liên kết tăng lên nhanh chóng và kích hoạt sự phát tán các tư tưởng, hàng hố, thơng tin, tư bản cũng như nhân khẩu ở cấp độ tồn cầu. Cơng nghệ thơng tin đang gia tăng cường độ (hay sự lớn mạnh về ý nghĩa) của những mối liên kết, của những dịng thương mại, dịng đầu tư, tài chính, di cư và các luồng tư tưởng, thông tin, văn hố.
Sự tập trung thơng tin cho phép thực hiện liên lạc trực tiếp
Như vậy có thể gọi kỷ nguyên hiện nay là kỷ nguyên của sự chuyển giao thông tin hay “thời đại thông tin”. Số lượng máy tính trên tồn cầu gia tăng theo cấp số nhân. Mạng thông tin, viễn thông, Internet, các hãng truyền thông xuyên quốc gia... đang làm cho thông tin luân chuyển trên khắp bề mặt địa cầu và chi phí liên lạc giảm khơng ngừng. Trong tình huống đó, khả năng tập trung thơng tin về một mối để tạo thành “các điểm nút nhận thức” được mở ra. Hoạt động thu thập và xử lý tin đang ngày càng trở nên quan trọng trên mọi phương diện của đời sống. Song hành với nó là hoạt động phát tán thơng tin ra khắp tồn cầu dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể hình dung chúng như hai mặt của một quá trình thống nhất: trao đổi và tương tác thơng tin trong một khơng gian tồn cầu thống nhất. Thế giới đang trở thành “ngơi làng tồn cầu” xét từ phương diện thông tin.-
Sự gia tăng xu hướng chuẩn hóa các sản phẩm kinh tế và xã hội Nhu cầu về các chuẩn mực đánh giá chung, các tiêu chí phổ biến, các bộ phận có thể hốn đổi cho nhau và các biểu tượng giống nhau đang tăng lên trong điều kiện tồn cầu hố. Những đồng tiền chung, các thủ tục chung, các trang thiết bị điện tử hoặc cơ khí dù được sản xuất ở đâu vẫn tương thích với nhau đang xuất hiện ngày một nhiều và trở nên phổ biến. Các chuẩn kỹ thuật thu phát tin đang được sử dụng đồng bộ. Các giá trị và biểu tượng giao tiếp chung đang dần dần hình thành để nhận được sự thừa nhận chung; và do đó được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng thế - giới.
Gia tăng hội nhập xun quốc gia
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Tồn cầu hóa đang mở rộng phổ giao tiếp giữa các nhà nước, các địa phương và các hoạt động xã hội trên khắp thế giới. Có thể thấy, những biểu hiện này thông qua xu hướng gia tăng con số các tổ chức đa phương, các hiệp ước khu vực. Xu thế này đang tạo ra một xã hội đa văn hoá, đa cực và mở rộng hơn, hay nói cách khác, là một “khơng gian văn hóa xun quốc gia”, mà trong đó, ngơn ngữ, thói quen và truyền thống được bảo tồn, bất chấp khoảng cách địa lý.
Tồn cầu hóa đang mở rộng tầm với cho các hoạt động xã hội, chính trị và kinh tế vượt khỏi khuôn khổ biên giới nhà nước, khu vực và châu lục.
Tính dễ làm tổn thương lẫn nhau do sự tuỳ thuộc vào nhau tăng lên Một cách tất yếu, sự hội nhập làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau tăng lên. Đi kèm theo đó là tình trạng: những sự kiện diễn ra ở nơi này lại có một ý nghĩa lớn lao đối với những nơi xa xôi khác. Ranh giới giữa những vấn đề đối nội (trong nước) với những sự vụ bên ngoài đang càng ngày càng mờ đi. Khả năng gây thương tổn lẫn nhau giữa các quốc gia khu vực và châu lục là rất cao.
Hệ quả là tính cố kết của xã hội trong lòng nhà nước dân tộc ngày càng trở nên yếu ớt và dễ lâm vào khủng hoảng. Trong khoảng thời gian được tính bằng phút, những rối loạn của một ngân hàng lớn có thể gây ra sự sụp đổ tài chính khác ở tận cùng ngõ ngách trên thế giới... Du lịch thuận tiện, thông tin liên lạc tức thời, và sự lưu chuyển tiền mặt dễ dàng đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự khẳng định sức mạnh của các cá nhân và các phần tử phi nhà nước.
Ví dụ: Internet đã tạo ra một “ngơi làng tồn cầu”, kết nối mọi người từ khắp nơi trên thế giới. “Ngơi làng tồn cầu” này, vừa giúp con người chứng kiến những thay đổi trong cách nhìn nhận bản thân, nhìn nhận những người khác và nhìn nhận những gì diễn ra xung quanh; vừa cung cấp thơng tin, đồng thời cũng định hình cách nhận thức thế giới của từng người. Đơn cử, với những hình ảnh dưới dạng video về chiến thắng của đội tuyển U22 Việt Nam tràn ngập trên các mặt báo và mạng xã hội đã tạo nên một “cơn sốt truyền thông” tại Hàn Quốc. Các từ khóa ‘‘Chiến thắng lịch sử’’, ‘‘chung kết SEA Games 30’’, ‘‘Việt Nam vô địch’’ hay ‘‘Park Hang seo’’ cũng lọt top 10 danh sách từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất thời -điểm chiến thắng lịch sử tại SEA Games 30. Không chỉ các tờ báo trong nước đưa
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">tin về chiến thắng của đội tuyển U22 Việt Nam, mà còn rất nhiều tờ báo nổi tiếng nước ngồi khác. Chính điều này đã tạo ra góc nhìn đa chiều khơng chỉ cho thấy cách nhìn nhận của quốc tế về những ghi nhận nỗ lực đối với bóng đá Việt Nam mà còn tạo nên sự kết nối chung giữa những người u bóng đá trên tồn thế giới. * Tóm lại, có thể coi tồn cầu hố như những liên kết đang không ngừng mở rộng, gia tăng cường độ và tốc độ; và gây ảnh hưởng ở cấp độ toàn thế giới. Quan niệm như vậy về tồn cầu hóa sẽ giúp chúng ta hình dung một cách kinh nghiệm về các mơ thức liên hệ của thế giới đương đại, tại những lĩnh vực then chốt: từ quân sự đến văn hố.
<b>3.3 Vai trị của truyền thơng quốc tế </b>
Vai trị thúc đẩy quyền lực chính trị
<i><b>3.3.1. Quan điểm coi Truyền thông quốc tế như công cụ tuyên truyền ý thức </b></i>
<b>hệ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu </b>
Cách tiếp cận “kinh tế”: Trong các nghiên cứu về truyền thông quốc tế, cách tiếp cận “kinh tế” có cội nguồn là học thuyết Mác. Mệnh đề cơ bản của cách tiếp cận này là: Giai cấp cầm quyền không chỉ nắm trong tay phương thức sản xuất vật chất mà cả phương thức sản xuất đời sống tinh thần. Sự thống trị về kinh tế dẫn đến sự thống trị về tinh thần và văn hóa.
Trong thời đại tồn cầu hóa, những người đi theo chủ thuyết này đã lập luận rằng: Hiện nay, Chủ nghĩa tư bản đã phát triển vượt ra khỏi khuôn khổ của nhà nước dân tộc (Nation State) để trở thành một thực thể mang tính tồn cầu, thì dĩ nhiên, cơ - chế truyền thơng vốn giữ vai trị là “hệ thần kinh” của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - cũng phải đạt được tầm với toàn cầu; hay nói cách khác là, phải mang tính quốc tế.
Cách tiếp cận nói trên cũng cho rằng, nhờ có trong tay cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ thông tin, nên giai cấp tư sản là những người thống trị trong trật tự thông tin tồn cầu và dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về thông tin và truyền thông như hiện nay.
Cách tiếp cận chính trị xã hội:<i><b>- </b></i> Cách tiếp cận này được xem như sự bù đắp và bổ cho cái nhìn thiên về “kinh tế” của những người theo điểm mác xít.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Nó đã nhấn mạnh vai trị của truyền thông trong việc truyền bá (tuyên truyền) các mục tiêu kinh tế và quân sự của các cường quốc.
Cách tiếp cận chủ nghĩa tư bản toàn cầu: Đây là cách nhìn nhận tồn cầu hố như sự triển khai hiện thực tư bản chủ nghĩa ra khắp toàn cầu [quan điểm của Ross và Trachte (1990); Sklair (1995); McMichael (1996); Robinson (1996)...]. Họ đã đấu tranh để đi đến quan niệm “tồn cầu hố”, mà trong đó, các lý giải về quan hệ quốc tế dựa trên quan niệm lấy nhà nước làm trung tâm, hay dựa trên các nền kinh tế quốc dân phải nhường chỗ cho một hiện thực chung đang lớn mạnh khơng ngừng chủ nghĩa tư bản tồn cầu.
Đi theo đường hướng này, Ross và Trachte đã giải thích khá thành cơng hiện tượng “giải cơng nghiệp hóa” / deindustrialization ở một số khu vực thuộc trung tâm của - chủ nghĩa tư bản và những biến chuyển theo cơ chế thị trường ở các nước mà chúng ta vẫn gọi là Thế giới thứ ba”.
Tồn cầu hố là phương cách mà chủ nghĩa tư bản dùng để thay thế cho mô hình nhà nước phúc lợi, vì mơ hình này đã tỏ ra lỗi thời, tốn kém và khơng cịn đem lại hiệu quả như mong muốn.
Các thông điệp văn hóa do truyền thơng đại chúng mang lại đang tác động mạnh đến những khu vực đói nghèo và kém phát triển, do ở những nơi đó khơng có đủ phương tiện và nguồn tài lực để đáp ứng nhu cầu tinh thần, giải trí và thị hiếu của đông đảo quần chúng.
Một trật tự thơng tin bất bình đẳng đang dần được hình thành trong thế giới ngày nay. Trong đó, nước giàu có khả năng chi phối nước nghèo bằng sức mạnh của các chuẩn mực giá trị và thị hiếu.
Ví dụ, trong bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Triển lãm Quốc phịng quốc tế Việt Nam 2022 nêu lên quan điểm: “ Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; hợp tác vì hịa bình, phát triển, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc…”. Tôn chỉ này liền mạch, thống nhất thông qua nhiều bài phát biểu trong các sự kiện quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">tế đã dần dần tạo dựng hình ảnh một Việt Nam chuộng hịa bình, mong muốn hợp tác với nước bạn trong mắt bạn bè quốc tế.
Như vậy từ một quan điểm như vậy, TTQT liên tục đưa tin, cập nhật không chỉ trong phạm vi Việt Nam mà còn trong các phương tiện truyền thơng chính thống của các quốc gia khác. Điều này cũng góp phần đảm bảo vị trí cũng như tình cảm nước bạn với Việt Nam ta.
3.3.3.1 Vai trò thúc đẩy kinh tế
Truyền thơng quốc tế hiện đang giữ vai trị quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, trên hai phương diện:
Thứ nhất, nó đang cung cấp các dịch vụ thơng tin hỗ trợ thị trường ở cấp độ tồn cầu. Một khi thiếu đi những thơng tin nói trên, chắc chắn, thị trường và nền kinh tế tồn cầu khơng thể vận hành được. Đó là những dịch vụ cung ứng thông tin về thị trường, hàng hóa, giá cả, các chỉ số tài chính, quảng cáo, giới thiệu.v.v.. Thứ hai, bản thân Truyền thông Quốc tế là một ngành cơng nghiệp hiện đang có doanh số chiếm tỷ trọng cao trong GDP toàn cầu và xu hướng này vẫn tiếp tục gia tăng cùng với mức tăng nhu cầu về thông tin, tri thức, văn hóa và giải trí của cơng chúng thế giới.
Ví dụ, truyền thơng quốc tế liên tục đưa tin về sự không ổn định của kinh tế. Đỉnh điểm là sự kiện ngân hàng lớn SCB tại Mỹ phá sản, là một dấu cảnh tỉnh lớn cho mọi người dân về bức tranh tài chính năm nay. Nhờ cập nhật những thơng tin kinh tế như vậy, TTQT góp phần vào cơng tác giúp người dân thế giới cải thiện hiểu biết về những con số. Từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế, tài chính của một đất nước lên cao hơn.
3.3.3.2 Vai trò thúc đẩy giao lưu văn hóa
Truyền thơng quốc tế đang mở ra một phổ giao lưu và tương tác rộng lớn, với cường độ và tần suất mà lịch sử trước đó chưa từng biết đến. Mặc dù giao lưu và tương tác văn hố vốn khơng phải là điều xa lạ đối với các nền văn hóa trong lịch sử. “Sự trao đổi và giao lưu văn hố đó khiến mỗi nền văn hoá khác nhau, trong quá trình va chạm với nhau, trên cơ sở gìn giữ bản sắc của nền văn hố của mình,
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">đã đồng thời hấp thu và tham khảo các nền văn hố khác, thậm chí cịn hình thành sự hồ đồng giữa các nền văn hố khác nhau về chất”
Mạng Internet và hệ thống truyền thông vệ tinh tồn cầu đang đem những hình ảnh, con số và sự kiện đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, kể cả những ngõ ngách xa xôi nhất của địa cầu đến với từng nhà. Từ đó đã dẫn đến quan niệm của nhiều nhà - văn hố học cho rằng: khơng chỉ các nền văn minh đang ý thức, mà cả trái đất cũng đang xúc cảm. Các nhà nước, các địa phương, các tổ chức phi chính phủ và người lao động ngày càng vượt qua những ranh giới của không gian sống truyền thống. Những trở ngại về không gian và thời gian đối với giao lưu văn hoá ngày càng bị thu hẹp. Nhờ vậy, các dân tộc và những nền văn hóa khác nhau trên thế giới ngày càng thường xuyên tiếp xúc với nhau.
- Truyền thanh, truyền hình và Internet đã chuyển hóa nhiều yếu tố văn hóa thành đơn vị chung cho tất cả các nền văn hóa trên thế giới (chẳng hạn như: thời trang, thể thao, du lịch, văn hố đại chúng). Cũng nhờ cơng nghệ thông tin mới mà nhiều thành tựu văn hoá riêng lẻ của các dân tộc từ những di sản cổ đại đến các hiện - tượng trác tuyệt trong nghệ thuật, văn học và âm nhạc, trong triết học và khoa học - đã bước qua biên giới dân tộc để trở thành tài sản chung của nhân loại. Đây là xu hướng hội nhập văn hoá và tạo ra hệ các giá trị phổ qt trong điều kiện tồn cầu hố.
Giao thoa văn hóa có thể dẫn đến việc hình thành nên hệ giá trị chuẩn chung cho toàn nhân loại như xu hướng đã được đề cập trước đó; nhưng cũng có thể gây ra những đụng độ văn hoá, để rồi dẫn đến thái độ bài ngoại hoặc chủ nghĩa biệt lập văn hoá v.v… Bởi vậy cái nhìn đúng đắn và khách quan hơn cả là nên xem truyền thông quốc tế chỉ đơn giản là các công cụ môi giới, hỗ trợ cho những giao tiếp và trao đổi giữa các nền văn hóa. Một khi đã quan niệm như vậy, thì tác động của truyền thông quốc tế sẽ là rất đa diện, đa xu hướng, và thậm chí có những xu hướng trái ngược với nhau.
Truyền thông quốc tế có thể phát tán các yếu tố văn hóa, dẫn đến sự hịa đồng và tạo ra hệ giá trị chung mang tính chia sẻ, nhưng điều đó khơng có nghĩa là nó sẽ xóa bỏ đi tính độc đáo và khác biệt văn hóa. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng... để tồn
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">tại được đến ngày nay, đã phải đấu tranh không ngừng để bảo tồn “cái tôi” độc đáo của mình. Và tính độc đáo ấy chính là bản sắc của họ cái cơ sở văn hoá dùng để - khu biệt họ với người khác.
Một mặt, văn hóa thẩm thấu vào tầng tâm thức sâu xa của con người, bởi vậy, nó khơng dễ gì bị vứt bỏ hay có thể cải tạo bất cứ lúc nào. Mặt khác, văn hố có rất nhiều bình diện mà khơng thể tiến hành phân chia một cách đơn giản bằng sự so sánh hơn kém. Một số phong tục tập quán, quan niệm giá trị, có thể bị dân tộc khác coi là lạc hậu, khơng hồn thiện, nhưng do thích hợp với lối sống của dân tộc đó, cũng sẽ vẫn tiếp tục được bảo lưu.
Ví dụ: Văn hố phương Tây thâm nhập vào nước ta từ lâu và dần dần xuất hiện trong cả những bữa ăn của ta. Thật khơng khó để tìm thấy một cửa hàng Mcdonald tại Việt Nam. Hay như văn hoá giải trí của Hàn Quốc cũng vơ cùng sơi động và được các bạn trẻ Việt săn đón. Ngược lại nước ta tích cực có những sản phẩm để mang đến quảng bá qua TTQT cho nước bạn như món Phở truyền thống hay Bánh mỳ đường phố. Sự trao đổi văn hố qua lại khơng những khơng làm lu mờ văn hố Việt ta mà cịn mang nó đến với thế giới gần gũi, định hình lại một hình ảnh Việt Nam ngày càng phát triển mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc.
Truyền thông quốc tế đang thúc đẩy sự ra đời của một nền văn hóa chung cho tồn nhân loại; song nó cũng khơng làm tiêu biến các nền văn hoá độc đáo khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b>PHẦN 2: Câu 2 </b>
Anh/Chị hãy làm rõ q trình hình thành và phát triển của chính sách thông tin đối ngoại của Việt Nam.
<b>1. Thông tin đối ngoại 1.1. </b>Định nghĩa
Thông tin đối ngoại là hoạt động thơng tin ra nước ngồi của một nhà nước, là hoạt động truyền tải thông tin trong lĩnh vực đối ngoại. Thông tin đối ngoại bao gồm những hoạt động chủ động cung cấp thơng tin có định hướng chủ thể để giới thiệu, phổ biến, quảng bá, giải thích, lập luận, thuyết phục về một đối tượng cụ thể (một đất nước, một tổ chức, nhóm người, hoặc một cá nhân) nhằm mục đích tạo phản hồi tích cực, thiện cảm, mong muốn hợp tác, tranh thủ sự ủng hộ , giúp đỡ của các nhân tố có yếu tố nước ngồi hoặc để đối phó, phản bác đối với những thơng tin sai lệch, gây bất lợi cho chủ thể của thông tin đối ngoại.
Cụ thể, thông tin đối ngoại ở Việt Nam là thơng tin quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con người lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, thông tin về chủ trường đường - lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước ra thế giới và thông tin về thế giới vào Việt Nam.
Tuy có cùng phương tiện điều tiết thông tin, tuy vậy, khác với truyền thông quốc tế, thông tin đối ngoại chỉ có một chủ thể là các quốc gia. Cụ thể, Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch đã tổ chức các chiến dịch truyền thông trực tuyến và nhận được hưởng ứng lớn từ du khách trong nước và quốc tế như: "Why Vietnam",
#MyVietnam, #VietnamNOW, "Stay at home with Vietnam", "Visit Vietnam from home". Thơng tin đối ngoại Việt Nam sử dụng hình thức quảng bá du lịch thông qua hợp tác điện ảnh, như xây dựng hình ảnh đất nước du lịch sau khi bộ phim "Kong: Skull Island" được cơng chiếu. Ngồi ra cịn có thành tựu trong Cơng tác TTĐN trong công tác người Việt Nam ở nước ngồi, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, dạy và học tiếng Việt; Phối hợp với các nước để đưa tinh hoa văn hóa thế giới đến với cơng chúng Việt Nam.
<b>1.2. Đối tượng và địa bàn của thông tin đối ngoại </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Thông tin tuyên truyền đối ngoại đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung. Một số hình thức của thông tin đối ngoại bao gồm các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch được thực hiện thông qua nhiều kênh như các hội chợ, diễn đàn, triển lãm trong nước, trong khu vực và thế giới.
Đối tượng tuyên truyền trong công tác thông tin đối ngoại chủ yếu là người nước ngoài, ngoài ra là người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước. Điều này khác với cơng tác đối nội khi đối tượng của hình thức này là cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước. Nếu đối tượng hướng đến của cơng tác đối nội có nhiều điểm chung với người làm công tác đối nội về tưởng, nền giá trị, văn hóa,... thì ở cơng tác đối ngoại có nhiều điểm khác, thậm chí trái ngược với người làm tuyên truyền về tư tưởng, giá trị, văn hóa,...
Đối tượng của thơng tin tun truyền đối ngoại gồm nhiều tầng lớp giai cấp, thành phần xã hội với trình độ nhận thức, hiểu biết và có mối quan tâm khác nhau đến Việt Nam. Đối tượng này được chia làm hai loại, đối tượng bên ngoài nước và đối tượng trong nước.
<b>Đối tượng ngoài nước </b>
Đối tượng ngoài nước đầu tiên là chính giới, bao gồm các nghị sĩ Quốc hội, quan chức chính phủ, các chính khách, các nhà hoạt động chính trị ở các cấp. Họ là những người có vai trị quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại, có thể là lực lượng hậu thuẫn cho những chính sách của nước đó với nước ta. Như vậy, với đối tượng này, cần cung cấp chủ trương chính sách lớn, vấn đề liên hệ trực tiếp với quan hệ song phương, các thông tin liên quan cần thiết.
Một đối tượng quan trọng khác là giới kinh doanh, bao gồm các công ty, nhà đầu tư, kinh tế, tài chính. Họ là lực lượng có vai trị quan trọng trong việc thực thi chính sách kinh tế của nước họ ở nước ngoài. Bởi vậy, thông tin đối ngoại tới đối tượng này thường bao gồm việc cung cấp thông tin về chính sách kinh tế, các biện pháp khuyến khích đầu tư, các lợi ích kinh tế cụ thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Giới học giả, bao gồm các nhà nghiên cứu, các giáo sư giảng daỵ tại các trường đại học hoặc các trung tâm nghiên cứu là đối tượng có vai trị tham gia hoạch định hoặc thẩm định chính sách đối nội và đối ngoại. Thông tin đối ngoại thường được thông tin “đầu tay” tới đối tượng này để nhận đánh giá, nhận xét chính xác về tình hình chung cũng như trong một lĩnh vực cụ thể của một quốc gia. Các hoạt động thông tin được cung cấp, trao đổi, tiếp xúc với các cấp lãnh đạo của nhà nước qua tổ chức hội thảo, hội nghị.
Quần chúng nhân dân các nước là nhóm đối tượng đông đảo nhất và nếu được vận động, họ sẽ trở thành một lực lượng hậu thuẫn hùng hậu. Tiếp cận với đối tượng này, thông tin đối ngoại thường dưới dạng phương tiện thông tin đại chúng với nội dung phong phú, đa dạng. Với Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn hoặc định cư ở nước ngoài là đối tượng đặc biệt, kiêm vai trò lực lượng thực hiện cơng tác đối ngoại. Họ đóng vai trị cầu nối văn hóa quan trọng, là cầu nối kinh tế thương mại giữa Việt Nam và các nước nơi họ sinh sống.
<b>Đối tượng trong nước </b>
Đối tượng trực tiếp chứng kiến tình hình chính trị xã hội, kinh tế văn hóa của đất nước ta là cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam. Họ là các cán bộ, nhân viên thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, đoàn ngoại giao; các đại diện, nhân viên các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nhà đầu tư, kinh doanh, chuyên gia các lĩnh vực, các đoàn khách đến thăm viếng, khách du lịch, đội ngũ phóng viên báo chí nước ngồi đang hoạt động báo chí tại Việt Nam, sinh viên tri thức. Họ có thể hợp tác với chính phủ, ra báo cáo hàng năm về tình hình đất nước đang sinh sống và có thể tạo dư luận bất lợi. Bởi vậy thơng tin đối ngoại thường nhằm mục đích tạo ấn tượng tốt đẹp về đất nước và con người Việt Nam.
Đông đảo nhân dân cũng là một đối tượng đặc biệt của thông tin đối ngoại bên cạnh người nước ngồi ở Việt Nam. Khi trình độ dân trí ngày càng tăng, nhân dân có những nhận thức sâu sắc hơn về tình hình trong nước và quốc tế, công tác thông tin đối ngoại thường nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức đúng đắn nhất về chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">sách của Đảng, Nhà nước, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
<b>Địa bàn thông tin đối ngoại </b>
Thời gian gần đây, địa bàn thơng tin đối ngoại đã có những bước mở rộng quan trọng: tăng cả về lượng và chất, về bề rộng và chiều sâu. Trước đây, nước ta xác định có một số quốc gia trọng điểm cần tuyên truyền về kinh tế, văn hóa, quan hệ truyền thống, xử lý các vấn đề nhạy cảm như Mỹ, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc, Campuchia,... nhưng nay đã được mở rộng địa bàn thông tin đối ngoại sang cả ở khu vực Bắc Mỹ, Mỹ Latinh, Đông Bắc Á, ASEAN, Nga, Đông Âu và các nước EU, châu Phi,...; nội dung và hình thức tuyên truyền đối ngoại được Ban chỉ đạo xác định theo từng thời kỳ.
<b>1.3. Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại </b>
Hiện nay, ở nước ta, tham gia vào công tác thông tin đối ngoại bao gồm các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan truyền thơng đại chúng, đồn thể quần chúng và cơ quan đại diện của ta tại nước ngồi. Bên cạnh đó cịn có sự tham gia của Việt kiều và những cá nhân, tổ chức nước ngồi có thiện chí với ta.
Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại được chia làm hai nhóm chính, đó là lực lượng trực tiếp và lực lượng gián tiếp. Lực lượng quan trọng và đứng đầu trong công tác thông tin đối ngoại là các cơ quan truyền thông đại chúng. Khơng chỉ có các cấp, ngành, cơ quan hành chính nhà nước làm cơng tác thơng tin đối ngoại, mà hiện nay một số doanh nghiệp cũng tham gia thực hiện thơng tin đối ngoại, thâm chí đưa thông tin đối ngoại trở thành một trong những nội dung của chiến lược Marketing. Ngoài ra, trong những năm gần đây, một lực lượng tham gia cơng tác thơng tin đối ngoại khá tích cực là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Hoạt động thông tin đối ngoại của ta được thực hiện thông qua một số phương thức phổ biến. Thứ nhất, tuyên truyền truyền đối ngoại thông qua con đường ngoại giao, các cơ quan phát ngơn chính thức của Đảng và nhà nước với chủ trương là đa dạng
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế. Thứ hai, tuyên truyền đối ngoại thơng qua đồn ra đồn vào, thường dưới hình thức những chuyến thăm chính thức được tổ chức để xây dựng tình hữu nghị với các nước trên thế giới và trong khu vực. Thứ ba, tuyên truyền đối ngoại thông qua các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài. Ở các sứ quán và cơ quan đại diện của ta đều có sách báo, băng hình ngoại văn để cung cấp cho độc giả nước ngoài. Ngoài ra ở mỗi sứ quán đều cso các tùy viên văn hóa báo chí phụ trách thơng tin đối ngoại. Thứ tư, công tác thông tin đối ngoại được truyền đạt qua kênh phương tiện thơng tin đại chúng, hay cịn được gọi là quyền lực thué tư. Chính phủ sử dụng báo chí để tuyên truyền, đưa ra các thông điệp gây ảnh hưởng tới dư luận và thăm dị dư luận của cơng chúng cũng như của các chính phủ khác. Báo chí ngày nay là một bộ phận khơng thể thiếu trong q trình ra quyết sách của chính phủ, và ngược lại, chính phủ cũng trở thành một đối tác trong hoạt động của báo chí. Trong mối quan hệ này, thực thể này kích thích thực thể kia thay đổi và phản ứng lại trước những thay đổi của bên kia. Thứ năm, thông tin đối ngoại được thông tin qua kênh phóng viên nước ngồi. Hiện nay có 26 văn phòng thường trú tại Việt Nam, như Reuteurs (Anh), AP (Mỹ), AFP (Pháp), Novosti (Nga), NHK (Nhật Bản), Tân Hoa Xã (Trung Quốc),... Kênh thông tin này có trình độ chun mơn cao, nghiệp vụ cao, hiểu đối tượng bên ngồi cần thơng tin gì, có phương thức phù hợp để chuyển tải những nội dung phù hợp, phương tiện kỹ thuật hiện đại, truyền đạt thơng tin nhanh chóng, kịp thời, âm thanh hình ảnh chất lượng cao, có tính thuyết phục cao. Thứ sáu, thông tin đối ngoại được truyền thông thông qua kênh đối ngoại nhân dân và giao lưu quốc tế. Với lực lượng đông đảo và đa dạng thành phần, lứa tuổi bao gồm khách du lịch, là thành viên các đoàn thể (các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức hữu nghị,..), địa phương, cơ sở, sinh viên nước ngoài du học tại Việt Nam, các doanh nhân, nhà đầu tư, người Việt Nam ở nước ngoài.
Nội dung thông tin đối ngoại luôn bám sát các nhiệm vụ chính trị nêu trong các nghị quyết Đảng, nhà nước. Thông tin đối ngoại phải phục vụ đắc lưucj và hiệu quả cho triển khai chính chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; tăng cường thông tin thành tựu đổi mới, chủ trương đường lối
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thông tin đối ngoại phải kịp thời, đầy đủ trọng tâm vào phục vụ kinh tế đối ngoại, giới thiệu chính sách, chống tham nhũng; phản ánh tình hình thế giới, kinh tế quốc tế, quan điểm chủ trương của nhà nước trong quan hệ với các nước cũng như quảng bá, giới thiệu nền văn hóa, dân tộc, đất nước Việt Nam.
<b>2. C hính sách thơng tin đối ngoại Việt Nam </b>
Chính sách thơng tin đối ngoại của Việt Nam là sự áp dụng của các phương tiện truyền thông và các hoạt động liên quan đến việc truyền tải thơng tin và tạo hình ảnh của Việt Nam đến quốc tế. Mục tiêu của chính sách này là tăng cường sự hiểu biết và thân thiện giữa Việt Nam và các quốc gia khác, đồng thời thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia. Chính sách thơng tin đối ngoại cũng đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ và xây dựng thương hiệu quốc gia của Việt Nam trên thế giới.
Quá trình hình thành và phát triển chính sách thơng tin đối ngoại của Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn chính sau: Giai đoạn từ khi Việt Nam tham gia Liên Hiệp Quốc (1977) đến cuối thập niên 1980: Trong giai đoạn này, chính sách thơng tin đối ngoại của Việt Nam được xây dựng chủ yếu dựa trên các hoạt động truyền thông truyền thống như báo chí, truyền hình, phát thanh và tun truyền phía Nam. Việt Nam chủ trương thực hiện chính sách thông tin đối ngoại nhằm giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về đấu tranh của dân tộc Việt Nam,..Chính sách thơng tin đối ngoại của Việt Nam sau giai đoạn cuối năm 1980 tập trung vào việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới, hướng tới mục tiêu xây dựng quan hệ hợp tác, đối thoại và tơn trọng chủ quyền, lợi ích của mỗi quốc gia. Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức và hiệp định quốc tế, như ASEAN, APEC, WTO, và tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Việt Nam cũng đã phát triển quan hệ với các đối tác truyền thống như Nga và Trung Quốc, cũng như mở rộng quan hệ đối tác với các nước phương Tây.
<b>2.1. Quá trình hình thành chính sách thơng tin đối ngoại Việt Nam </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Chiến lược thông tin đối ngoại Việt Nam là một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của nước ta những năm đổi mới. Sự nhận thức đúng đắn và kịp thời của Đảng về việc cung cấp thông tin đối ngoại đã thực sự là nền tảng định hướng các hoạt động trong lĩnh vực này.
<i><b>2.1.1. Giai </b></i>đoạn 1980 <i><b>-1996 </b></i>
Chính sách thơng tin đối ngoại của Việt Nam được hình thành từ cuối những năm 1980 và bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào những năm 1990. Trước đó, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thách thức trong quan hệ đối ngoại do sự cô lập và áp đặt của các nước phương Tây sau cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, từ năm 1986, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới kinh tế và đối ngoại, mở rộng mối quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế, đặc biệt là các nước ở châu Á và Đông Nam Á. Điều này đã mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam.
Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại được đặt trong bối cảnh những năm 1991, Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở một loạt các nước Đông Âu và Liên Xô. Cục diện chiến tranh lạnh, đối đầu giữa hai phe XHCN và TBCN kéo dài gần nửa thế kỉ cơ bản kết thức, trật tự thế giới cũ bị phá vỡ, nhưng trật tự thế giới mới chưa hình thành. Dưới ảnh hưởng của tư duy chiến tranh lạnh, Mỹ coi các nước xã hội chủ nghĩa còn lại là đối tượng cần thanh toán: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba, Triều Tiên. Trong giai đoạn này, tình hình nước ta gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng, mất gần như hồn tồn chỗ dựa chính trị quốc tế, viện trợ kinh tế và quân sự, thị trường quốc tế. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ VII tun bố: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.” Từ đó, Đảng và Chính phủ ta có ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác thông tin đối ngoại như: chỉ thị số 11/CT TW về “đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối -ngoại”, Thông báo số 188/TB TW về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình -mới , Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng (2001) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường công tác thông tin đối ngoại,… Văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta là Chỉ thị số 11/CT TW của Ban bí thư Trung ương Đảng (1992) về “đổi mới và -tăng cường” công tác thông tin đối ngoại. Xét về nguyên nhân khách quan, thời
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">điểm đầu những năm 1990 là thời điểm bất lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa vì một loạt mơ hình xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ dẫn đến phong trào cộng sản, thoái trào, tạo điều kiện cho các lực lượng thù địch chế độ xã hội chủ nghĩa đẩy mạnh các hoạt động thông tin liên lạc, lừa bịp nhằm chống phá. Đó là thời điểm vô cùng cần thiết để tiến hành thông tin đối ngoại về bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dẫu con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội có nhiều khó khăn, thử thách nhưng Việt Nam đang chứng minh cho thế giới rằng đất nước này đang bắt đầu công cuộc đổi mới và không lùi bước trước bất cứ thử thách nào.
Sau hai cuộc chiến tranh dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã và đang bắt đầu công cuộc đổi mới trong thập kỉ đầu những năm 1990, Việt Nam khơng chỉ muốn các nước biết đến hình ảnh Việt Nam với tình thần dung cảm , ý chí kiên cường mà cịn ở những khía cạnh khác như sự say mê, cần cù, sáng tạo… trong lao động, sự yêu thương và tinh thần đoàn kết của đồng bào, một Việt Nam thời kỳ đổi mới của sự năng động, của ý chí vươn lên, sẵn sàng cho hội nhập… Về những nguyên nhân chủ quan thì chúng ta chưa có sự chỉ đạo thống nhất, sắc bén, kịp thời về công tác thơng tin đối ngoại cũng như khơng có chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại trong khi phương tiện, cơ sở vật chất kĩ thuật thiếu thốn. Rõ ràng là, công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam vẫn ở tình trạng yếu kém kéo dài cả về lực lượng, nội dung, hình thức thơng tin.
<i><b>2.1.2 Giai đoạn 1996 - 2000 </b></i>
Năm 1996, Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ VIII, trong bối cảnh tình hình có nhiều chuyển biến theo hướng thuận cho đất nước. Đại hội VII xác định đất nước ta “bước vào thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đưa ra chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế”. Vì vậy, thông tin đối ngoại cũng bước vào thời kỳ phát triển mới. Bộ Chính trị yêu cầu tiếp tục thực hiện Chỉ thị 11, đồng thời chú trọng: quan hệ và chủ động xúc tiến công tác thông tin, tuyên truyền hướng vào các đối tượng và địa bàn đã được xác xác định tại chỉ thị 11, ưu tiên cung cấp thông tin đúng định hướng cho người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du lịch, học tập và các nhà Việt Nam học trên thế giới; tiếp tục nâng cao chất kượng
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hệ thống thông tấn báo chí, xuất bản quốc gia để làm nóng cốt cho cơng tác thơng tin đối ngoại.
Ngồi ra, chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 26/04/2000 của Thủ tướng Chính phủ về “tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại” ra đời sau khi công tác thông tin đối ngoại đã đạt được một số kết quả khả quan , Nhà nước đã dành ngân sách thích đáng cho thông tin đối ngoại, đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thơng tin viễn thơng và kết nối mạng Internet, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất tăng cường, nhận thức của các cấp, các ngành có bước chuyển mới. Điều này thể hiện sự phù hợp với xu thế vận dụng nguồn sức mạnh mềm trong kỷ nguyên thông tin và tồn cầu hóa của thế giới nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cơng tác thơng tin đối ngoại của ta vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại hội nhập hiện nay nên cần phải “đẩy mạnh” hơn nữa quá trình này.
<i><b>2.1.3. Giai đoạn 2001 - nay </b></i>
Đất nước bước vào thế kỉ XXI, Đại hội đã vạch ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Đến Quyết định số 79/2010/QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm -theo Quy chế quản lý gồm 3 chương, 13 điều đã quy định và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hơn cho các bộ ngành liên quan. Một điểm mới cho Quyết định này là trong phần “Quy định chung” đã chính thức đưa ra khái niệm về thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại gồm hai chiều: chiều thứ nhất là thông tin về Việt Nam ra thế giới và chiều thứ hai chứa đựng thông tin về thế giới vào Việt Nam. Ngày nay, dường như không có sự phân biệt rạch rịi giữa nội dung thơng tin trong nước và quốc tế. Trong nội dung thơng tin về tình hình quốc tế có thể hiện thái độ, lập trường, quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế hay thể hiện cách ứng xử và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Đồng thời, trong nội dung thơng tin về tình hình tring nước cũng sẽ có những yếu tố khu vực và quốc tế có liên quan, tác động đến Việt Nam. Quyết định số 16 QĐ/TW ngày 27/12/2001 về thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện công tác này thống nhất và tập trung
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">hơn. Trong kết luận số 16 – KL/TW ngày 14/02/2012 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 2020” cũng chỉ rõ.-
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) nêu rõ: “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với việc mở rộng biên độ hội nhập <small>(1)</small>
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, địi hỏi phải làm tốt hơn nữa cơng tác thơng tin đối ngoại. Ngày 14-2-2012, Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Kết luận số 16-KL/TW về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 2020, trong đó xác -định thơng tin đối ngoại là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng.
Triển khai thực hiện Kết luận số 16-KL/TW, ngày 06-8-2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 2020. Tiếp đó, ngày 04- -9-2012, Chính phủ ban hành Quyết định 1209/QĐ TTg Phê duyệt Quy hoạch phát thanh, truyền -hình đối ngoại đến năm 2020, nêu rõ: Phát thanh, truyền -hình đối ngoại là lực lượng chủ lực để thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại. Ngày 28-2-2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 368/QĐ Ttg về việc Phê duyệt chương -trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013-2020. Ngày 08-2-2014, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tới năm 2020.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nêu rõ: “Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước”. Triển khai Nghị quyết Đại hội XII, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), tháng 11 2016, ra Nghị quyết về -thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó xác định cơng tác thơng tin đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao và phát huy hiệu quả uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 05-8-2020, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1191/QĐ TTg phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi -mới và nâng cao năng lực công tác thông tin tuyên truyền và thông tin đối ngoại góp phần xây dựng biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, với mục
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">tiêu tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và thông tin đối ngoại nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam tới các nước có chung đường biên giới, góp phần xây dựng biên giới quốc gia hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đại hội XIII của Đảng (1 2021) nhấn mạnh: “Đổi mới nội dung, phương- pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại”. Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo, định hướng của Đảng, công tác thông tin đối ngoại ngày càng phát triển. Hiện nay, thông tin đối ngoại được đa dạng phương thức tuyên truyền để người dân, kiều bào và bạn bè quốc tế tiếp cận thông tin đối ngoại. Cụ thể, tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền biển, đảo, phân giới, cắm mốc và quản lý biên giới giới năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm năm2023 do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, theo ông Nguyễn Quế Lâm, Vụ trưởng Vụ thông tin đối ngoại và Hợp tác quôc quốc tế thông tin: “Đổi mới phương thức tuyên truyền bằng cách thực hiện chuyển đổi số dưới hình thức các cuộc thi tìm hiểu kiến thức trực tuyến, mang đến trải nghiệm mới mẻ, phù hợp với giới trẻ, tiếp cận được đông đảo người dân trong nước, kiều bào và bạn bè quốc tế”. Chuyển đổi số trong thơng tin đối ngoại được coi là chìa khóa để đưa thơng tin tích cực và thành tựu của Việt Nam ra toàn cầu, điển hình như kênh mạng xã hội.
<b>3.</b> Việc nắm vững chính sách thơng tin đối ngoại có ý nghĩa như thế nào đối với anh/chị trong quá trình học tập tại Học viện Ngoại giao và nghề nghiệp trong tương lai?
<b>3.1.</b> Vai trị của thơng tin đối ngoại
Thơng tin, tun truyền đối ngoại là một cầu nối giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác, là lực lượng quan trọng quảng bá và nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam, góp phần thu hút các nguồn lực để phát triển đất nước. Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại ngày càng đóng vai trị quan trọng hơn, gắn bó mật thiết hơn đối với việc triển khai các hoạt động đối ngoại của Việt Nam.
Một là, truyền thông đối ngoại đẩy mạnh thông tin về các hoạt động đối ngoại của Việt Nam trên bình diện đa phương, tận dụng cơ hội nâng cao hình ảnh đất nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><b>Hai là</b>, truyền thơng đối ngoại góp phần giúp Việt Nam tăng cường lòng tin, đưa quan hệ đối ngoại song phương tiếp tục đi vào chiều sâu, phát triển ổn định, bền vững.
góp phần định vị hình ảnh Việt Nam trên truyền thông quốc tế.
<b>3.2. Bối cảnh </b>
Trước hết, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Trong tình hình cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, truyền thông cũng trở thành một “mặt trận”, cạnh tranh giữa các nước trong truyền thông, thông tin đối ngoại đang trở nên khốc liệt chưa từng thấy.
Thứ hai, tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế - tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Chúng ta đang sống trong thời đại của truyền thông mới, truyền thông mạng xã hội, khi mà mỗi người đều là “nhà báo mạng xã hội”, có thể là một nguồn phát tin hay là một kênh truyền tin; mỗi người dân đều có thể tiếp cận với nhiều thơng tin trên khắp thế giới. Song với đó, mơi trường truyền thông cũng hết sức phức tạp, thông tin thật giả lẫn lộn.
Thứ ba, các thế lực thù địch khơng ngừng tìm cách chống phá, phát tán những thông tin bịa đặt, sai sự thật, khơng được kiểm chứng về Đảng và Nhà nước, tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, bơi nhọ, phá hoại hình ảnh Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.
<b>3.3. Liên hệ bản thân </b>
Việc nắm vững vai trò và nội dung căn bản của Chính sách Thơng tin đối thoại có ý nghĩa thiết thực đối với sinh viên Học viện Ngoại giao nói chung, cũng như ngành truyền thơng quốc tế nói riêng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Thứ nhất, sinh viên được hiểu rõ vai trò của chính sách thơng tin đối thoại: Vai trị của chính sách thơng tin đối thoại là xác định cách một quốc gia hoặc tổ chức tương tác, giao tiếp và truyền tải thông điệp với cộng đồng quốc tế. Đây là một yếu tố quan trọng trong quan hệ quốc tế, vì giao tiếp hiệu quả và truyền thơng đúng đắn có thể xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các quốc gia khác.
Hiểu rõ vai trò này giúp sinh viên tại Học viện Ngoại giao nhận thức được tầm quan trọng của giao tiếp hiệu quả trong quan hệ quốc tế và trao đổi thông tin trong môi trường đa văn hóa. Việc hiểu và áp dụng chính sách thông tin đối thoại sẽ giúp họ trở thành những người nắm vững kỹ năng giao tiếp quốc tế và có khả năng tương tác một cách tơn trọng và hiệu quả với các đối tác quốc tế.
Xuất phát từ những nhận thức chính trị cơ bản, sinh viên phân biệt những quan niệm, quan
điểm về lịch sử báo chí để có được cách tiếp cận báo chí hiện đại và truyền thơng quốc tế đúng. Thơng qua đó, bộc lộ thái độ chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và khă năng ứng phó trước những biến cố của địi sống chính trị báo chí trong nước và trên thế giới.
Thứ hai, xây dựng khả năng giao tiếp đa dạng:
Nắm vững nội dung căn bản của chính sách thơng tin đối thoại giúp sinh viên phát triển khả năng giao tiếp trong các tình huống đa dạng. Giao tiếp trong lĩnh vực ngoại giao đòi hỏi khả năng thích ứng và linh hoạt với các đối tác từ nhiều quốc gia và văn hóa khác nhau.
Bằng cách hiểu rõ chính sách thơng tin đối thoại, sinh viên có thể học cách giao tiếp trực tiếp, viết văn bản và sử dụng phương tiện truyền thông một cách hiệu quả trong các bối cảnh quốc tế. Họ có thể hiểu và áp dụng các nguyên tắc giao tiếp đa văn hóa, biết cách tạo dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các đối tác quốc tế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Thứ ba, đào tạo về thông tin và truyền thông quốc tế:
Chính sách thơng tin đối thoại u cầu kiến thức về thông tin và truyền thông quốc tế. Nắm vững nội dung căn bản của chính sách này giúp sinh viên hiểu các yếu tố liên quan đến truyền thông quốc tế, bao gồm các nguồn thông tin, phương pháp phân tích tin tức, đánh giá tác động của thông tin đối với quan hệ quốc tế và cách thức sử dụng phương tiện truyền thông quốc tế một cách hiệu quả.
Bằng cách hiểu rõ thơng tin và truyền thơng quốc tế, sinh viên có thể nắm vững các kỹ năng quan trọng như đọc hiểu thơng tin, đánh giá tính xác thực của nguồn tin và biết cách sử dụng thông tin một cách đúng đắn trong quan hệ quốc tế. Điều này rất hữu ích trong việc đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của thơng tin trong các hoạt động ngoại giao và truyền thông.
Thứ tư, áp dụng trong nghề nghiệp tương lai:
Việc nắm vững chính sách thơng tin đối thoại khơng chỉ có ý nghĩa trong quá trình học tập tại Học viện Ngoại giao mà cịn có thể áp dụng trong nghề nghiệp tương lai. Bất kể sinh viên làm việc trong lĩnh vực ngoại giao, quan hệ quốc tế hay truyền thơng, hiểu rõ chính sách này giúp họ trở thành những người chuyên gia trong việc giao tiếp và truyền tải thông điệp một cách hiệu quả.
Với khả năng giao tiếp đa dạng và hiểu biết về thông tin và truyền thông quốc tế, sinh viên có thể xây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực ngoại giao, quan hệ quốc tế, truyền thông quốc tế, nhà báo quốc tế và nhiều lĩnh vực khác liên quan đến quan hệ quốc tế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">PHẦN 3: <b>Câu 3: K</b>hảo sát, làm rõ đặc điểm truyền thông quốc tế Ấn Độ
<b>1.</b> Giới thiệu về truyền thông quốc tế Ấn Độ
Truyền thơng quốc tế Ấn Độ đóng vai trị quan trọng trong việc truyền tải thông tin và tạo dựng nhận thức về Ấn Độ trên phạm vi quốc tế. Với nhiều cơ hội và thách thức mới, truyền thông quốc tế Ấn Độ bao gồm nhiều phương tiện truyền thơng như truyền hình, phim ảnh, âm nhạc, xuất bản và các nền tảng truyền thông trực tuyến. Ấn Độ là một nguồn cung cấp nội dung truyền thông đáng chú ý trên thế giới với nguồn tài nguyên phong phú về văn hóa, lịch sử, đa dạng ngôn ngữ và nền kinh tế phát triển. Truyền thơng quốc tế Ấn Độ khơng chỉ đóng vai trò là một cầu nối giao tiếp giữa Ấn Độ và thế giới, mà còn giúp xây dựng hình ảnh tích cực về đất nước và nhân dân Ấn Độ. Tuy nhiên, truyền thông quốc tế Ấn Độ cũng đối mặt với một số thách thức như đa dạng ngơn ngữ và văn hóa trong Ấn Độ khiến việc phản ánh chính xác hình ảnh của quốc gia đến cộng đồng quốc tế trở nên khó khăn và sự cạnh tranh với các nền truyền thơng quốc tế khác cũng địi hỏi sự sáng tạo và đầu tư.
Tuy nhiên, với sự phát triển và lan rộng của truyền thơng, Ấn Độ có thể khai thác tiềm năng của mình để góp phần vào quan hệ quốc tế, văn hóa và kinh tế. Bằng cách sử dụng các nền tảng truyền thơng quốc tế, Ấn Độ có thể chia sẻ và tạo dựng những giá trị, văn hóa và lối sống của mình với cộng đồng quốc tế. Qua các chương trình truyền hình, phim ảnh và các dự án truyền thơng quốc tế, Ấn Độ đã có cơ hội giới thiệu những khía cạnh đa dạng của văn hóa, lịch sử và cảnh đẹp tự nhiên của quốc gia đến công chúng quốc tế. Việc giới thiệu các sản phẩm truyền thông của Ấn Độ tới công chúng quốc tế không chỉ tạo ra những cơ hội thương mại và kinh doanh mới, mà cịn giúp xây dựng hình ảnh tích cực về đất nước và nhân dân Ấn Độ trên phạm vi tồn cầu.
<b>1.1.</b> Bối cảnh Truyền thơng quốc tế Ấn Độ qua từng thời kỳ
Truyền thông quốc tế Ấn Độ đã trải qua nhiều thay đổi và phát triển qua từng thời kỳ khác nhau. Từ thời kỳ thuộc địa đến hiện đại, truyền thông quốc tế của Ấn Độ đã trải qua nhiều bước phát triển đáng kể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><b>Thời kỳ thuộc địa (1858-1947): </b>
Trong thế kỷ 16 và 17, các công ty thương mại châu Âu đã cạnh tranh với nhau một cách dữ dội để kiếm được lợi nhuận từ Ấn Độ. Vào quý cuối của thế kỷ 18, Anh đã vượt qua tất cả những người khác và tự khẳng định mình là cường quốc thống trị ở Ấn Độ. Anh đã quản lý Ấn Độ trong khoảng hai thế kỷ và đem lại những thay đổi mang tính cách mạng trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, đỉnh cao của quá trình thuộc địa đã đạt được vào đầu những năm 1600 khi người Anh đến với tư cách là thương nhân. Lợi dụng sự tan rã tồn tại ở Ấn Độ sau thời kỳ thống trị của Mughal, người Anh đã tích cực sử dụng chiến lược ‘chia để trị’ để thống trị Ấn Độ trong hơn 2 thế kỷ.
Trong giai đoạn này, Ấn Độ thuộc địa chịu sự kiểm sốt của Anh và quyền lực thơng tin chủ yếu thuộc về người Anh. Quyền tự do ngôn luận bị hạn chế nghiêm ngặt và nguyên tắc thông tin bị kiềm chế. Quá trình này đã ảnh hưởng lớn đến truyền thông quốc tế của Ấn Độ trong thời kỳ thuộc địa.
Các công ty thương mại của Anh đã tận dụng phương tiện truyền thông đầu tiên của Ấn Độ như báo chí để tuyên truyền và đưa ra thông tin để thúc đẩy các mục đích thuộc địa. Họ cũng đã sử dụng các phương tiện truyền thông để đưa ra các kỳ vọng về văn hóa của người Anh, giúp xây dựng hình ảnh một nền văn hóa và nền văn minh cao hơn so với người Ấn Độ.
Đối với Ấn Độ, các phương tiện truyền thông truyền thống như tạp chí, báo chí và đài phát thanh đã được sử dụng để truyền tải các thông tin về cuộc chiến đấu cho độc lập và quyền công dân của người Ấn Độ. Tuy nhiên, do sự kiểm sốt của người Anh, tự do ngơn luận bị hạn chế và thông tin được kiểm duyệt trước khi được công bố.
<b>Thời kỳ độc lập (1947-1991): </b>
Năm 1915, Mohandas Karamchand Gandhi đã thành công một cách đáng kinh ngạc trong việc lãnh đạo sự đoàn kết giữa hai nhóm người để giành độc lập cho nước của
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">mình. Ảnh hưởng của Gandhi đối với văn hóa Ấn Độ và khả năng của ông trong việc giành độc lập thông qua một phong trào rộng rãi hồn tồn khơng bạo lực đã khiến cho ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất. Người Anh đã phải thực hiện cam kết rời khỏi Ấn Độ vào năm 1947.
Sau khi nắm quyền quản lý đất nước vào năm 1947, Chính phủ Ấn Độ đã tiến hành cuộc cải cách đầu tiên về lãnh thổ và hành chính. Đến năm 1949, 555 trong số 601 cơng quốc đã gia nhập Ấn Độ và số cịn lại đã gia nhập Pakishtan. Như vậy, từ một quốc gia phân tán, Ấn Độ đã trở thành một quốc gia thống nhất, tạo điều kiện cho việc triển khai công cuộc xây dựng đất nước.
Từ khi giành được độc lập, Ấn Độ đã chú trọng vào việc phát triển các phương tiện truyền thông quốc tế của riêng mình để giới thiệu đất nước đến thế giới. Điều này được thể hiện rõ qua việc thành lập Đài phát thanh và Truyền hình quốc gia Ấn Độ (All India Radio and Doordarshan) vào đầu những năm 1950. Hai cơ quan truyền thông quốc gia này không chỉ phục vụ công chúng trong nước mà cịn lan tỏa hình ảnh đất nước đến khắp các quốc gia trên thế giới. Tuy đã có nhiều thay đổi và phát triển sau này, nhưng All India Radio và Doordarshan vẫn tiếp tục tồn tại đến ngày nay, và vẫn là những cơ quan truyền thông quốc gia quan trọng của Ấn Độ..
Thời kỳ đổi mới kinh tế (1991 đến nay):<b></b>
-Từ khi áp dụng các biện pháp đổi mới kinh tế, mở cửa và hội nhập quốc tế từ năm 1991, Ấn Độ đã trải qua một quá trình phát triển đầy tiềm năng. Điều này được thúc đẩy bởi sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là các công nghệ liên quan đến truyền thông quốc tế. Các kênh truyền hình thương mại tư nhân được phép hoạt động, cho phép người dân tiếp cận với đa dạng các nội dung truyền thông. Tuy nhiên, sự phổ biến của Internet mới thực sự tạo ra một bước đột phá trong việc truyền tải thông tin, cho phép truyền thông trực tuyến và mạng xã hội trở nên phổ biến.
Hiện nay, Ấn Độ đã có một ngành truyền thơng quốc tế phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều kênh truyền hình quốc tế, phương tiện truyền thơng trực tuyến,
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">các công ty phát thanh và truyền hình đa quốc gia. Người Ấn Độ cũng đã có mặt trong ngành cơng nghiệp điện ảnh quốc tế, và tầm ảnh hưởng của họ ngày càng được cơng nhận.
Nhìn chung, sự phát triển của truyền thơng quốc tế Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho sự kết hợp giữa các yếu tố về kinh tế, cơng nghệ và văn hóa, tạo nên một môi trường thuận lợi cho sự phát triển đa dạng của ngành truyền thông ở đất nước này.
<b>1.2. Các chính sách truyền bá văn hóa, các phương thức truyền thơng </b>
quốc tế của Ấn Độ
Chính sách truyền thơng ngoại giao của Ấn Độ đang được đặt ra nhằm tăng cường quan hệ ngoại giao và đẩy mạnh hình ảnh của đất nước này trên toàn thế giới. Với mục tiêu này, chính phủ đã tăng cường các hoạt động truyền thơng ngoại giao để thu hút sự chú ý và tạo nên ấn tượng tích cực với các quốc gia khác. Ngồi các hoạt động truyền thơng truyền thống như phát sóng truyền hình, đài phát thanh và tạp chí, Ấn Độ cịn đang sử dụng những kênh truyền thông mới như mạng xã hội và các ứng dụng di động để tiếp cận đến một đối tượng khán giả rộng lớn hơn. Bên cạnh đó, chính phủ Ấn Độ cịn đang tìm cách tăng cường liên kết với các cơ quan truyền thông nước ngồi để đẩy mạnh hình ảnh của đất nước này trên toàn cầu. Tất cả những nỗ lực này đều nhằm tăng cường quan hệ đối tác và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đồng thời đưa tên tuổi của Ấn Độ trở thành một thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.
<b>Chủ thể truyền thông trong ngoại giao văn hóa </b>
Thủ tướng Narendra Modi đã dẫn dắt Ấn Độ và được nhân dân ủng hộ suốt hai nhiệm kỳ kể từ năm 2014. Ông luôn tập trung vào sự thịnh vượng của đất nước và chính sách đối ngoại.
Thủ tướng Modi đã đưa ra tầm nhìn chiến lược phát triển dựa trên sự tham gia chiến lược toàn cầu của Ấn Độ vào một mơ hình mới, bao gồm các lợi ích về kinh tế, khoa học, văn hóa, chính trị và an ninh của Ấn Độ trên nguyên tắc bình đẳng và
</div>