Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.92 MB, 50 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO NGÀNH CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG HỌC
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MƠN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ĐỀ TÀI:
Nguyễn Phương Anh - CATBD49C10006 Nguyễn Hà Chi - CATBD49C10022 Nguyễn Mai Khanh - CATBD49C10062 Dương Thị Minh Nga - CATBD49B10098 Lê Mai Linh - CATBD49B10073 Hà Văn Giáp - CATBD49B10039 Đỗ Thu Hằng – CATBD49B10044
HÀ NỘI - 2023
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC
1 Lưu Thị Thanh Mai CATBD49C10094 - Nhóm trưởng, phụ trách phân cơng cơng việc - Tìm kiếm đề tài, nghiên cứu tài liệu làm chính - Hồn thiện phần Mở đầu, Kết luận và Chương 3. - Kiểm tra kết quả đầu ra cho nhóm.
2 Nguyễn Hà Chi CATBD49C10022 - Làm phần tình hình nghiên cứu đề tài
5 Dương Thị Minh Nga CATBD49B10098 - Làm mục 1.2. và 1.4.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">MỤC LỤC
TÓM TẮT... 1
LỜI MỞ ĐẦU... 2
1. Lý do chọn đề tài...2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...6
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu...6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...7
6. Phương pháp nghiên cứu...7
7. Kết cấu của tiểu luận...7
CHƯƠNG 1. Tổng quan về chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017...9
1.1. Khái niệm và nguồn gốc của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương...9
1.2. Khái niệm chính sách tái cân bằng của Mỹ...10
1.3. Nguồn gốc chính sách tái cân bằng của Mỹ ở khu vực CATBD...10
1.4. Lợi ích và mục tiêu chung của Mỹ khi triển khai chính sách này ở CATBD. .14 CHƯƠNG 2. Vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADMM+ <sup>ASEAN Defence Ministers’</sup><sub>Meeting</sub> <sup>Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các</sup><sub>nước ASEAN mở rộng</sub> AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN ACFTA ASEAN-China Free Trade Area <sup>Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –</sup>
Trung Quốc AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
APEC <sup>Asia – Pacific Economic</sup> Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN <sup>Association of South East Asian</sup>
Nations <sup>Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á</sup> ASEAN+ <sup>Association of South East Asian</sup>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">AUKUS <sup>Australia, United Kingdom,</sup>
United States <sup>Úc, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ</sup> BRI Belt and Road Initiative Sáng kiến Vành đai và Con đường BRICS <sup>Brazil, Russia, India, China,</sup>
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans – Pacific
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CSIS <sup>Center for Strategic and</sup>
International Studies
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
DOC <sup>United States Department of</sup>
ECOSOC Economic and Social Council Hội đồng Kinh tế - Xã hội
FDI Foreign Direct Investment <sup>Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước</sup> ngồi
FONOPs <sup>Freedom of Navigation</sup><sub>Operations</sub> <sup>Các hoạt động hải quân tự do hàng</sup><sub>hải</sub> FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">G20 Group of Twenty
Nhóm 20 Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương của 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. IAEA <sup>International Atomic Energy</sup><sub>Agency</sub> <sup>Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng</sup><sub>lượng nguyên tử quốc tế</sub> IPS Indo – Pacific Strategy <sup>Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái</sup>
Bình Dương LMI Lower Mekong Initiative Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kông MIA Missing In Action <sup>Quân nhân bị mất tích trong chiến</sup>
Thương mại Hoa Kỳ POW/MIA <sup>Prisoners Of Wars/ Missing In</sup>
Tù binh chiến tranh/ Quân nhân bị mất tích trong chiến tranh
QDR Quadrennial Defense Review Báo cáo đánh giá quốc phòng RCEP <sup>Regional Comprehensive</sup>
UNCLOS <sup>United Nations Convention on</sup> Law of the Sea
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">US-ACTI <sup>USAID-ASEAN Connectivity</sup> through Trade and Investment
Kết nối USAID-ASEAN thông qua Thương mại và Đầu tư WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại quốc tế
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">TÓM TẮT
Chiến lược “xoay trục" hay “tái cân bằng" của Mỹ tới khu vực CATBD vào năm 2011-2017 là một chiến lược nhằm đẩy mạnh ảnh hưởng chiến lược của Mỹ tới khu vực này (Ralf Emmers 2013). Đây là một chiến lược toàn diện về mọi mặt được tiến hành bởi Tổng thống Barack Obama: chính trị, kinh tế, văn hố, quân sự nhằm duy trì địa vị siêu cường của Mỹ trong thế kỷ XXI cũng như kiềm chế sự hiện diện của Trung Quốc đến khu vực nhiều tiềm năng phát triển này. Khi tiến hành chiến lược xoay trục, lợi ích của Mỹ nhận được khơng chỉ thể hiện qua việc Mỹ tiếp tục duy trì quyền lực của mình ở nhiều lĩnh vực tại CATBD mà Mỹ còn kiềm chế các nước thách thức vai trò của Mỹ trong khu vực này và trên thế giới. Thời điểm chính sách xoay trục của Mỹ được tiến hành, Việt Nam đã mang lại cho Mỹ những lợi ích đáng kể, được chứng minh qua các nhân tố địa lý, chính trị và kinh tế. Do vậy, nhóm muốn chứng minh về vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ. Trước hết, Việt Nam là một quốc gia Đơng Nam Á có vị thế địa - chính trị và địa - kinh tế thuận lợi đóng vai trị cầu nối giữa các lục địa lớn. Việt Nam cũng là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn như WTO, UN, ASEAN…và làm tốt vai trị Chủ tịch ASEAN vào năm 2010 - tích cực tham gia và đóng góp phát triển khu vực của mình. Thêm nữa, nước Mỹ đã cân nhắc kỹ về sự phát triển của nền kinh tế mới nổi ở châu Á - Trung Quốc. Vậy nên, có thể nói vai trị của Việt Nam - một đối tác thân thiện - là rất cần thiết để xây dựng một khu vực hồ bình và ổn định. Trong bối cảnh Trung Quốc có nhiều hành động với Biển Đơng, Tổng thống Obama đã đặt trọng tâm phòng thủ chiến lược với Trung Quốc. Bởi nếu Trung Quốc trở thành quốc gia “bá chủ" ở khu vực châu Á, điều đó sẽ hình thành trật tự đơn cực ở khu vực này, khiến cho Mỹ rơi vào bất lợi lớn và ảnh hưởng đến vị thế siêu cường duy nhất của Mỹ. Do vậy, Mỹ muốn tạo dựng một thế trận để bao vây và kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc tại khu vực này, và Việt Nam - một quốc gia gần kề Trung Quốc - có tiềm năng lớn để đóng góp vào đó. Vì Việt Nam là một trong những nhân tố giúp Mỹ hoàn thành được mục tiêu trong chính sách xoay trục nên mối quan hệ hai nước được phát triển một cách thuận lợi mặc dù Mỹ tận dụng chính sách này để làm nổi bật sự khác nhau về ý thức hệ giữa hai nước. Bên cạnh việc giải thích về chính sách xoay trục của Mỹ giai đoạn 2011-2017, bài tiểu luận của nhóm sẽ khai thác về vị trí của Việt Nam trong chính sách này cũng như đánh giá tác động của chính sách đến quan hệ Việt-Mỹ.
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những siêu cường của thế[[ giới, Mỹ ln có sức ảnh hưởng nhất định tới chính sách đối ngoại của các quốc gia có mối quan hệ về lợi ích với nước này. Những chính sách đối ngoại của Mỹ với một quốc gia, khu vực thể hiện rõ cái nhìn và quan điểm của lãnh đạo nước này tới quốc gia, khu vực đó. Bởi vậy các quốc gia khác cần chú ý để có thể hoạch định chiến lược và điều chỉnh chính sách của quốc gia mình. Tổng thống Barack Obama bắt đầu nhiệm kỳ của mình - một nhiệm kỳ mang dấu ấn đặc biệt khi ông là Tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ - trong bối cảnh nước Mỹ đang hứng chịu những tổn hại nặng nề từ cuộc Khủng hoảng Kinh tế Thế giới 2008. Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Obama đã tạo nên nhiều sự thay đổi hướng đến lợi ích của nước Mỹ.
Khoảng thời gian đó, những nền kinh tế mới nổi ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ bắt đầu trỗi dậy. CATBD là một khu vực tập trung các cường quốc mới nổi, các nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới và có số dân đơng nhất thế giới - điều có thể tác động và chi phối tới chính trị và kinh tế thế giới. Bởi vậy, chính quyền cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có những hoạch định chiến lược và các điều chỉnh về chính sách đối với khu vực này. Điển hình trong đó là chiến lược Xoay trục về Châu Á được người đứng đầu Nhà Trắng tiến hành năm 2011. Tháng 10 cùng năm, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã viết rằng nước Mỹ “chuyển hướng một cách chiến lược sang khu vực này nhằm đảm bảo và duy trì vai trị lãnh đạo thế giới của nước Mỹ”. Mục tiêu của Mỹ chính là đảm bảo và duy trì vị thế siêu cường duy nhất của mình. Việt Nam - một quốc gia thuộc khu vực CATBD, cụ thể hơn là ở Đông Nam Á - có vị thế địa-chính trị quan trọng và ngày càng được nâng cao bởi sự phát triển của đất nước với chính sách ngoại giao thân thiện, cởi mở hội nhập khu vực, quốc tế. Chính sách Xoay trục năm 2011 của chính quyền Tổng thống Obama đã có những tác động nhất định tới nhiều mặt của Việt Nam. Chính sách Xoay trục của nước Mỹ đã tồn tại qua nhiều đời Tổng thống, tuy nhiên mỗi một người đứng đầu Nhà Trắng lại có tư tưởng khác nhau. Không giống với Tổng thống Obama, người kế nhiệm của ông là Tổng thống Donald Trump lại muốn gia tăng sự ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhằm chủ động ganh đua, thách thức Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực; và ông muốn châu Á phải xoay trục sang Mỹ thay vì Mỹ xoay trục sang châu Á. Cịn Tổng thống thứ 46 của nước này là ơng Joe Biden tiếp tục kế thừa Chính sách xoay trục của Obama nhưng quan tâm nhiều hơn về sự ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Chính sách Xoay trục sang châu Á của Tổng
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">thống Barack Obama bắt đầu vào năm 2011, và 2017 là năm vị Tổng thống này rời khỏi chiếc ghế của người đứng đầu Nhà Trắng. Lý do nhóm tác giả chọn đề tài phân tích về Chính sách xoay trục của Mỹ từ năm 2011-2017 là vì chính sách ấy trong giai đoạn này có nhiều sự ảnh hưởng tới Đông Nam Á nhất. Tổng thống da màu của nước Mỹ đã tăng cường quan hệ quân sự của Mỹ với một vài quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Đồng thời, về mặt kinh tế, ông Obama đã thiết lập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) như một trụ cột kinh tế quan trọng trong chính sách xoay trục châu Á. Việc trở thành thành viên của TPP đã đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho Việt Nam và tạo điều kiện cho Việt Nam được tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Để làm rõ sự ảnh hưởng của Chính sách Xoay trục của Mỹ tới Việt Nam, nhóm tác giả lựa chọn đề tài: “Chính sách tái cân bằng của Mỹ ở khu vực CATBD từ 2011-2017: Vị trí của Việt Nam, ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Mỹ.”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để tìm hiểu về chính sách xoay trục của Mỹ và vị trí của Việt Nam trong chính sách này , ta cần tìm hiểu về ba vấn đề: Chính sách tái cân bằng của Mỹ dưới thời kỳ Barack Obama, vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011 – 2017 và tác động của chính sách ấy tới quan hệ Việt - Mỹ. Trong q trình nghiên cứu, nhóm đã tìm được một số nghiên cứu trong nước nổi bật sau:
2.1. Nguyễn Hà Trang. 2017. Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời “ Tổng thống Barack Obama”. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận án xác định vị trí Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Obama, phân tích các nhân tố tác động đến quá trình định hình vị trí Việt Nam trong nhận thức chiến lược; làm rõ vị trí, ưu thế, tiềm năng của Việt Nam trong đánh giá chiến lược từ phía Mỹ; đồng thời phân tích nội dung cơ bản của chính sách và quá trình triển khai trên thực tiễn những mục tiêu chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trên các phương diện chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh – quân sự…Bản chất của vấn đề cần nghiên cứu chính là “tư duy và thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Việt Nam nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia của Mỹ trong một giai đoạn cụ thể”. Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập tới vị trí của Việt Nam trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc - một siêu cường đang trỗi dậy mạnh mẽ.
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">2.2. Nguyễn Nhâm. 2016. “Mỹ đẩy nhanh tiến độ “Tái cân bằng” khu vực CATBD”. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3(106) 40- 50.
Bài báo đề cập đến vấn đề về chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực CATBD, đồng thời đánh giá thực trạng chiến lược “Tái cân bằng CATBD” của Mỹ, dẫn ra một số thách thức tại khu vực và khuyến nghị của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) đối với chính quyền Mỹ. Tuy nhiên, bài báo vẫn chưa đi quá sâu vào phân tích tác động của chính sách “Tái cân bằng" tới quan hệ Việt-Mỹ.
2.3. Ngơ Hữu Tồn Chiến lược xoay trục CATBD của Mỹ dưới thời Tổng thống Barack. “ Obama (2011- 2016). Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học 2018 – 2019
Tác giả chỉ ra bối cảnh ra đời của chiến lược “xoay trục”; mục tiêu và quá trình triển khai chiến lược “xoay trục” trên ba phương diện chính là kinh tế, quân sự và ngoại giao. Tác giả cũng chỉ ra các mục tiêu của Mỹ lần lượt theo các lĩnh vực. Về mặt kinh tế, mục tiêu của nước Mỹ là thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái kinh tế, tiếp tục là đầu tàu kinh tế của khu vực và thế giới. Về mặt quân sự, đối phó với việc tăng cường sức mạnh quân sự của các cường quốc trong khu vực, nhất là Trung Quốc, hỗ trợ cho các đồng minh thân cận duy trì sức mạnh vượt trội về quân sự và răn đe tiến công các nước là mục tiêu mà nước Mỹ hướng tới. Về mặt ngoại giao, mục đích chính là tăng cường củng cố quan hệ với các đồng minh để tạo sự cân bằng chiến lược giữa Đông và Tây, giữa châu Âu, châu Á, châu Mỹ, giữa nước Mỹ với các trung tâm quyền lực chính trị, sức mạnh kinh tế, quân sự trên thế giới; thu hút các nước khác đi theo Mỹ làm đối trọng với các nước trong khu vực, trước hết là hình thành các liên minh mới để bao vây, làm đối trọng với Trung Quốc, sau đó là Nga… Cuối cùng, tác giả đánh giá kết quả của chiến lược xoay trục thời Tổng thống Obama là không nhất quán. Tuy đã đưa ra một số giải pháp, gợi ý cho định hướng phát triển của Việt Nam trong bối cảnh Mỹ triển khai chiến lược xoay trục, tác giả vẫn chưa đề cập đến tác động của chính sách này tới quan hệ hai nước.
Bên cạnh những nghiên cứu trong nước, nhóm cịn tìm được một số cơng trình quốc tế sau:
2.4. Kurt Mcampbell. Xoay trục - Tương lai nghệ thuật lãnh đạo của Mỹ ở châu Á. 2017. NXB Trẻ.
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Dưới lăng kính của của một chính trị gia, cựu Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đơng Á - Thái Bình Dương, đồng thời là kiến trúc sư trưởng chính sách xoay trục sang châu Á của chính quyền Obama, MCampbell đã mơ tả một cách tồn diện diễn biến của chính sách hướng sang châu Á của Mỹ, chỉ ra vai trò trung tâm của châu Á đối với tương lai nước Mỹ. Tác giả đã đưa ra quan niệm, định nghĩa về xoay trục, tái cân bằng; luận bàn về nguồn gốc, kết quả và các phê phán chính về điều đó phân tích bối cảnh chiến lược xoay trục, những tiền để của chiến lược xoay trục từ thời cận đại, luận giải những đặc điểm chính trong chiến lược của Mỹ đối với châu Á, giải thích các xu thế cốt lõi các thời kỳ gián đoạn và các xu thế tái diễn của chiến lược này; luận bàn về những vấn đề mà CATBD đang phải đối mặt từ đó đề xuất một kế hoạch cho chiến lược xoay trục, tái cân bằng của Mỹ đối với khu vực này, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hiện thực hóa chính sách của Mỹ đối với khu vực.
2.5. Zack Cooper et al. 2016. “Asia Pacific Rebalance 2025: Capabilities, Presence, and Partnerships”. CSIS. df
Cơng trình này đã phân tích và nhận định tình hình thế giới, khu vực và đưa ra những khuyến nghị chính sách cho chính phủ Mỹ nhằm thực hiện chiến lược “tái cân bằng” tại khu vực CATBD đạt hiệu quả. Đồng thời, cơng trình cũng đưa ra những dự báo về chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ cho đến năm 2025.
2.6. Colonel Bryan P. Truesdell. “Balance within the rebalance: The supporting role of the U.S. military in the Asia-Pacific region" .
nghiên cứu đã tập trung phân tích những động thái cụ thể về quân sự của Mỹ tại một số quốc gia trong khu vực CATBD, từ đó chỉ ra vai trò hỗ trợ về quân sự của Mỹ đối với các quốc gia này.
Chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại khu vực CATBD là đề tài được nghiên cứu phổ biến, thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các công trình
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">nghiên cứu trong và ngồi nước hầu như chưa đi sâu phân tích việc triển khai chiến lược tái cân bằng theo quan hệ song phương một cách cụ thể. Bên cạnh đó, nhóm nhận thấy các tài liệu vẫn chưa đề cập đến vị trí của Việt Nam trong Chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở khu vực CATBD. Do đó, dựa trên cơ sở các tài liệu đã tham khảo và phân tích, đề tài sẽ tập trung vào vị trí của Việt Nam trong chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở khu vực CATBD và tác động của chiến lược đến quan hệ Việt-Mỹ
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của bài tiểu luận là làm sáng tỏ vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017 cũng như xác định chính sách xoay trục ảnh hưởng tới Việt Nam như thế nào.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, bài tiểu luận có những nhiệm vụ cơ bản sau: - Tìm hiểu khái niệm, nguồn gốc, lợi ích và mục tiêu chung của Mỹ khi triển khai chính sách này ở CATBD
- Phân tích tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ - Đánh giá tác động của chính sách xoay trục tới quan hệ Việt-Mỹ
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu và tình hình nghiên cứu của nhóm, nhóm đưa ra câu hỏi nghiên cứu: Việt Nam có vị trí như thế nào trong chính sách xoay trục của Mỹ và chính sách này có tác động như thế nào đến quan hệ Việt-Mỹ từ 2011-2017?
Từ câu hỏi nghiên cứu trên, nhóm đưa ra bốn giả thuyết nghiên cứu có thể xảy ra: Giả thuyết 1: Việt Nam có vị trí quan trọng trong chính sách xoay trục của Mỹ ở hai mặt chính là kinh tế, chính trị. Đặc biệt, Việt Nam cũng là một con bài quan trọng để Mỹ kiểm chề sự ảnh hưởng của Trung Quốc.
Giả thuyết 2: Chính sách xoay trục của Mỹ có thể giúp quan hệ hai nước đi theo chiều hướng tích cực ở các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phịng. Chính sách này của Mỹ nhằm mục tiêu tăng cường sự hiện diện của mình ở Đơng Nam Á nên Mỹ có thể tận dụng mục tiêu này để quan hệ với Việt Nam nhiều hơn. Điều này khơng chỉ giúp Mỹ hồn thành được mục tiêu của mình mà cịn giúp Việt Nam khẳng định ảnh hưởng của mình khi có thể phát triển mối quan hệ tốt đẹp với cường quốc như Mỹ.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Giả thuyết 3: Chính sách xoay trục của Mỹ có thể khiến Việt Nam lo ngại trong việc quan hệ với Mỹ vì khi Mỹ triển khai chính sách này, Mỹ sẽ sử dụng Việt Nam để hoàn thành mục đích của mình: kiềm chế Trung Quốc và thay đổi vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Chính vì thế, Việt Nam có thể sẽ cân nhắc về việc phát triển quan hệ với Mỹ tránh trường hợp bị lợi dụng và ảnh hưởng đến đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giả thuyết 4: Chính sách xoay trục của Mỹ có thể khiến Việt Nam lo ngại trong việc tạo dựng mối quan hệ với Mỹ song quan hệ hai nước vẫn phát triển khi điều chỉnh lợi ích lẫn nhau. Mặc dù chính sách xoay trục của Mỹ có thể khiến Việt Nam rơi vào cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung hay có sự gia tăng trong viêc khác nhau về ý thức hệ, hai nước vẫn có những chuyến thăm cấp cao để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng giữa hai quốc gia, giúp xoá bỏ những nghi kị và tiếp tục phát triển quan hệ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, bài tiểu luận tập trung phân tích chính sách xoay trục của Mỹ và vị trí của Việt Nam trong chính sách này.
Về phạm vi thời gian, bài tiểu luận sẽ tập trung vào giai đoạn 2011-2017 cịn đối với khơng gian nghiên cứu, bài tiểu luận tập trung vào khu vực CATBD và Việt Nam. 6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu trên, bài tiểu luận sẽ vận dụng phương pháp khai thác tài liệu. Đồng thời, bài tiểu luận sẽ áp dụng phương pháp phân tích nội dung kết hợp với phương pháp định tính nhằm phân tích nội dung các tài liệu kể trên, diễn giải và tổ chức nội dung đúc kết được theo cấu trúc nghiên cứu.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, phần chính của luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017 có nhiệm vụ cung cấp khái niệm và nguồn gốc của chính sách tái cân bằng Mỹ; chỉ ra mục đích và mục tiêu chung của Mỹ khi triển khai chính sách này ở CATBD
Chương 2: Vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017 là phần trọng tâm của bài tiểu luận, phân tích vị trí của Việt Nam ở khu vực CATBD và đi sâu phân tích vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ.
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Chương 3: Tác động tích cực của chính sách xoay trục tới quan hệ Việt-Mỹ từ 2011-2017 có nhiệm vụ đưa ra nhận định về ảnh hưởng của chính sách xoay trục đến quan hệ Việt-Mỹ qua các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và an ninh-quốc phịng.
Cuối cùng, do còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian thực hiện, bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót trong q trình đánh giá và đưa nhận định. Kính mong q thầy cơ và những người quan tâm có thể giành những đóng góp và chỉnh sửa.
CHƯƠNG 1. Tổng quan về chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017 1.1. Khái niệm và nguồn gốc của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, khái niệm CATBD xuất hiện. Đây là khu vực địa lý chiếm một phần ba thế giới. Số dân cư chiếm khoảng một nửa hành tinh. Khu vực CATBD tập trung nhiều quốc gia có nền văn hóa đa dạng, được thừa hưởng nhiều nền văn minh lâu đời nhất như Trung Quốc, Ấn Độ. Đây cũng là cái nôi của một số tôn giáo lớn như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở đây còn là vùng đất phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống thực dân cũ. Giành được độc lập, CATBD đã nhanh chóng trở thành khu vực năng động nhất trên thế giới khi chứng kiến sự phát triển vượt trội như: Nhật Bản với nền kinh tế phát triển “thần kỳ”; sự xuất hiện của bốn con rồng kinh tế Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore; sự phát
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">triển của ASEAN trong thập kỷ 80 và sự ra đời của các diễn đàn trong khu vực sau đó (ARF năm 1994, APEC năm 1989,..);...Sau mười năm đầu tiên của thế kỉ XIX, châu Á đã dựng lên một chu trình phát triển kinh tế mới, nâng tầm quan trọng nền kinh tế của CATBD vượt qua các khu vực khác trên thế giới. Nhờ sự phát triển vượt trội và tiềm năng, khu vực CATBD đã được đánh giá là tương lai của thế giới trong thế kỷ XIX.
Vào năm 1900, cố Ngoại trưởng John Hay tuyên bố “Địa Trung Hải là đại dương của quá khứ, Đại Tây Dương là của hiện tại, và Thái Bình Dương là đại dương của tương lai”. Trong một cuộc phỏng vấn sau khi bản Báo cáo quốc phòng của Bộ Quốc phịng Mỹ được ban hành 30/9/2002, Đơ đốc Dennis C.Blair, Tư lệnh Thái Bình Dương khẳng định vị trí thứ nhất hiện nay thuộc về Đông Á, Tây Nam ở vị trí thứ hai và Châu Âu là vị trí thứ ba trong chính sách an ninh của Mỹ. Có thể nói, Hoa Kỳ sớm đã nhận ra được tiềm năng của khu vực CATBD. Năm 1995, bản báo cáo về “Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ” khẳng định khu vực này “có ý nghĩa ngày càng tăng đối với nền an ninh và sự tồn tại của Hoa Kỳ”. Bên cạnh đó, Mỹ ln coi mình là một quốc gia thuộc CATBD. Tổng thống Obama từng tuyên bố trước Quốc hội Australia ở Canberra “Hoa Kỳ là cường quốc Thái Bình Dương và chúng tơi sẽ mãi hiện diện ở đây”.
Nhiệm kỳ của Tổng thống Obama bắt đầu khi nền kinh tế Mỹ gặp cuộc khủng hoảng nặng nề, quân đội Mỹ sa lầy tại hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan. Nội bộ nước Mỹ và thế giới đang dần biến đổi phức tạp và ẩn chứa nhiều yếu tố bất định. Trọng tâm kinh tế và địa - chính trị của thế giới dần dịch chuyển về khu vực CATBD. Đồng thời, khu vực này cũng có những thách thức với vị trí siêu cường của Hoa Kỳ khi quốc gia đông dân nhất thế giới là Trung Quốc đang dần trỗi dậy. Trước những biến động, khủng hoảng của thế giới thì sự phát triển không ngừng của Châu Á như một điểm sáng để Mỹ hướng tới. Trong quá trình điều chỉnh trọng tâm chiến lược về khu vực CATBD, nước Mỹ liên tục khẳng định mình là một quốc gia của khu vực này. Trước đây sự quan tâm của Mỹ không ổn định nhưng giờ đây các nhà ngoại giao Mỹ luôn cố gắng chứng tỏ họ chưa bao giờ bỏ rơi khu vực này và CATBD rất quan trọng trong những chiến lược tiếp theo của Mỹ. Mỹ tuyên bố “Đối với Mỹ, khơng có khu vực nào quan trọng hơn CATBD và khơng có khu vực nào khác có tầm quan trọng như thế đối với Mỹ trong thế giới mới”. Từ đó, chiến lược “Xoay trục - tái cân bằng” được ra đời.
1.2. Khái niệm chính sách tái cân bằng của Mỹ
“Xoay trục - tái cân bằng” là việc Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược từ châu Âu sang khu vực CATBD, biến khu vực này càng quan trọng đối với tương lai nước Mỹ. Với chiến lược tồn diện về mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự) - “xoay trục - tái
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">cân bằng” tại khu vực CATBD được triển khai bởi Tổng thống Obama cùng những mục tiêu rõ ràng, có trọng điểm.
1.3. Nguồn gốc chính sách tái cân bằng của Mỹ ở khu vực CATBD
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (CATBD) hiện nay là đại bàn triển khai các chiến lược quan trọng của các nước lớn trên thế giới như: “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (IPS) của Mỹ; “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) của Trung Quốc; “Chính sách hướng Đơng” của Nga, “Chủ nghĩa hồ bình tích cực của Nhật Bản; “Hành động phía Đơng” của Ấn Độ;… Việc Mỹ thực hiện chính sách hướng sang Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là dưới thời Tổng thống Barack Obama vào những năm đầu thập niên thế kỷ XXI, đã mang lại nhiều thành công song chặng đường thực hiện đó cịn nhiều chơng gai và thách thức.
Từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ vẫn coi châu Âu là trọng điểm chiến lược toàn cầu. Từ khi Tổng thống G. W.Bush lên cầm quyền đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu hướng sự chú ý sang khu vực CATBD với mục đích to lớn là duy trì vị thế siêu cường trong thế kỷ mới. Nhưng chiến lược đối với khu vực CATBD bắt đầu rõ nét hơn dưới thời của Tổng thống B.Clinton. Trong bản Báo cáo “Đánh giá chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại CATBD” vào năm 2013, Winston Lord đã trình bày trước Uỷ ban Đối ngoại thượng viện: “Đối với Mỹ, khơng có khu vực nào quan trọng hơn CATBD và khơng có khu vực nào khác có tầm quan trọng như thế với Mỹ trong thời gian tới”. (Thuỷ 2013)
Cho tới khi dưới thời chính quyền Obama vẫn tiếp tục kế thừa chính sách đối với khu vực CATBD của các chính quyền tiền nhiệm với chiến lược “xoay trục” bao gồm các mục tiêu, biện pháp chiến lược và quá trình thực hiện tồn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự và ngoại giao. Kể từ khi Mỹ thực hiện triển khai chính sách xoay trục sang CATBD quan hệ Mỹ và các nước khu vực cũng như là tình hình thế giới bước sang một trang mới.
Tháng 10/2011, Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton lần lượt tuyên bố Chiến lược “xoay trục”. Nằm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, chiến lược xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương có vai trị là để đảm bảo và duy trì vai trị lãnh đạo thế giới của nước Mỹ, trong đó nổi bật là kiềm chế Trung Quốc (Thuỷ 2013)“việc Trung Quốc ngày càng tăng cường quyền lực và ảnh hưởng ở Đông Á ở mức độ nhất định đe doạ lợi ích của Mỹ trong khu vực”. Chiến lược “xoay trục” đã phản ánh tầm quan trọng của khu vực CATBD trong nền kinh tế tồn cầu và chính trị quốc tế. Mỹ luôn quan tâm khu vực địa chiến lược, địa chính trị này về vấn đề liên quan tới các thể chế khu vực và bảo vệ các nguyên tắc và luật pháp quốc tế.
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Sau khi công bố chiến lược Xoay trục tái cân bằng sang CATBD, chính quyền Tổng thống Barack Obama tập trung thực thi 6 nội dung chính bao gồm: (1) Củng cố quan hệ với các đồng minh truyền thống (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan, Australia); (2) Tăng cường quan hệ với các nước bạn bè, các quốc gia đang trên đà đi lên (Ấn Độ, Singapore, Indonesia,…); (3) Tham gia xây dựng cấu trúc khu vực một cách tích cực tại các hội nghị, diễn đàn như: Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kông (LMI), Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+); (4) Tăng cường việc hiện diện quân sự, chú trọng vào việc luân chuyển quân tới khu vực (Singapore, Australia, Philippines,…) thông qua các cuộc diễn tập quân sự song phương và đa phương; (5) Thúc đẩy sự hợp tác kinh tế tại khu vực: đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), ủng hộ APEC, Sáng kiến gắn kết kinh tế mở rộng với ASEAN (E3); (6) Tiếp tục truyền bá, cố suý giá trị dân chủ, nhân quyền,… (Châu 2022)
Trước khi xuất hiện chính sách xoay trục, tình hình thế giới cũng như nước Mỹ được đánh giá là không mấy tươi sáng và hầu như liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng đến khiến Mỹ buộc phải thay đổi các hướng đi của mình trong chiến lược.
Thứ nhất, sau tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã gây tổn thất không nhỏ đến kinh tế Mỹ. Trong hoàn cảnh nền kinh tế suy yếu, theo thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ đã giảm liên tục từ năm 2007 – 2009. Đáng kể đến là những hành động đơn phương của Mỹ (đặc biệt là dưới thời kỳ chính quyền G. W.Bush) đã trực tiếp dính líu đến cuộc chiến ở Afghanistan gây ra sự tổn hại về uy tín cũng như sức mạnh nước Mỹ trên trường quốc tế.
Thứ hai, Học thuyết G. W.Bush với 4 trụ cột: bành trướng dân chủ, chủ nghĩa đơn phương, quyền bá chủ của người Mỹ, đe doạ và chiến tranh ngăn chặn đã khơng tìm ra được phương thức biến nước Mỹ thành siêu cường và thiết lập trật tự thế giới mới. Chính sách đối ngoại và cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ đang lún sâu vào không mang lại những kết quả tốt đẹp.
Thứ ba, Việc Mỹ dính líu trực tiếp đến cuộc chiến chống khủng bố, cụ thể là là thực hiện chính sách can dự và bành trướng tác động lớn tới sự đảm bảo an toàn cho đất nước. Tong 8 năm dưới thời Tổng thổng G. W.Bush, nước Mỹ bị sa lầy vào 2 cuộc chiến tranh vô cùng tốn kém; nợ nần quốc gia tăng vùn vụt một cách chóng mặt, nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái. Điều khủng khiếp nhất là sự suy sụp của nền tài chính Mỹ gây ra
11
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">cuộc khủng khoảng tài chính chưa từng có cho lịch sử nhân loại và làm cả thế giới bị ảnh hưởng.
Giữa tình hình khơng mấy tươi sáng của Mỹ, nền kinh tế tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn đang trên đà phát triển tốt mặc cho tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu tương đối lớn. Tuy nhiên, các nền kinh tế năng động mới nổi như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, ASEAN đã và đang thách thức chính quyền nước Mỹ cần thay đổi trong tư duy trong chính sách đối ngoại tại khu vực châu Á. Lúc bấy giờ các nhà kinh tế phương Tây dự đoán rằng khu vực châu Á – Thái Bình Dương là “cỗ máy của nền kinh tế toàn cầu” (Khanh 2017). Khu vực CATBD được xem là một thị trường đầy tiềm năng để có thể thúc đẩy phát triển và giúp phục hồi nền kinh tế Mỹ. Và chỉ khi nắm được khu vực này mới có thể nắm sự thống trị kinh tế thế giới.
Câu chuyện tái cân bằng của Mỹ thực chất là vấn đề đặt trọng tâm và ưu tiên đối với khu vực châu Á, đặc biệt là khu vực Đơng Nam Á – nơi có vị trí rất quan trọng trong cuộc chạy đua Mỹ - Trung. Địa bàn này là nơi Trung Quốc sử dụng để vươn ra thế giới, có vai trị là trung tâm trong việc duy trì hồ bình, ổn định và thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực CATBD. Chính quyền Obama đã xây dựng chính sách xoay trục dựa trên nền tảng của các mối quan hệ sẵn có giữa Mỹ và châu Á (Vũ 2017).
Ngay sau khi Tổng thống Barack Obama lên nắm quyền, Mỹ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhất kể từ 80 năm trở lại đây, khiến cho sức mạnh quyền lực tuyệt đối của Mỹ bị suy giảm đáng kể. Trong khi đó, Trung Quốc đang ngày càng thể hiện sức mạnh của mình và trỗi dậy mạnh mẽ, đã thách thức vai trị lãnh đạo của Mỹ. Trước tình hình như vậy, chính quyền Obama đã thúc đẩy chiến lược “quay trở lại ĐNA” thơng qua chính sách ngoại giao “thơng minh” và “linh hoạt” (Khanh 2017). Do tình hình cục diện thế giới và khu vực có nhiều chuyển biến, buộc Mỹ phải có những thay đổi trong chính sách đối ngoại, lợi ích cốt lõi trước kia của Mỹ ở châu Âu sẽ chuyển sang châu Á trên các phương diện kinh tế, chính trị, quân sự. Những bước điều chỉnh chiến lược xoay về CATBD của Mỹ có mục đích nhằm đảm bảo lợi ích cốt lõi của Mỹ và duy trì vị thế của mình tại khu vực cũng như thế giới.
Mỹ cũng đã thực hiện các phương cách mang tính “phịng ngừa” nhằm chống lại sự gia tăng về sức mạnh quân sự cũng như việc tuyên bố chủ quyền đối với các khu vực đang tranh chấp ở vùng biển lân cận. Vào năm 2010, trước sự dự đoán về việc bổ sung lực lượng quân sự của Mỹ ở khu vực CATBD, hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện thuỷ chiến của mình khi 3 tàu ngầm mang tên lử đạn đạo đã được thiết lập cho các cuộc tấn công tại
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">các vùng biển Diego Garcia (Ấn Độ Dương), Busan (Hàn Quốc) và vịnh Subic (Philippines) (Thompson 2010).
Trong bài phát biểu tại Trung tâm Đông – Tây ở Hawaii, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã khẳng định: “Tương lai của Mỹ gắn liền với CATBD và tương lai của khu vực này cũng phụ thuộc vào Mỹ”. Trong chính sách xoay trục hướng về châu Á, Mỹ ưu tiên sử dụng “sức mạnh thông minh” với các công cụ ngoại giao và phát triển. Trong báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ năm 2010 khẳng định rằng: “Nước Mỹ cần phải tiếp tục vai trò lãnh đạo thế giới của mình thơng qua việc tạo dựng và phát huy các nguồn lực sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ” (TTXVN 2010). Chính quyền Obama xác định rõ ràng trong chính sách rằng khu vực CATBD, bao gồm từ Ấn Độ đến New Zealand và các đảo Thái Bình Dương cho đến phía bắc Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên, là một ưu tiên chiến lược của Hoa Kỳ. Mỹ thực hiện “tái cân bằng” giữa can dự về kinh tế với các can dự về chính trị, quân sự và ngoại giao của Mỹ. Bên cạnh đó là tái cân bằng trong quan hệ đồng minh với các đồng minh truyền thống như Thái Lan, Nhật Bản, Myanmar. Chú trọng thúc đẩy các quan hệ song phương lẫn can dự hơn vào các diễn đàn đa phương. (Khanh 2017). Nói tóm lại, dưới thời chính quyền Obama, chính sách tái cân bằng tại khu vực CATBD là chiến lược lớn đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Có nhiều góc nhìn quan sát về vấn đề chính sách xoay trục được tạo ra với mục đích và vai trị như thế nào. Tuy nhiên khơng thể phủ nhận được mục tiêu lớn nhất là việc nhằm khẳng định vị thế siêu cường của Mỹ trên trường quốc tế và tại khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới – châu Á Thái Bình Dương. Vẫn có nhiều góc quan sát đơn giản cho rằng Mỹ vạch ra chính sách tái cân bằng là để kiềm chế sự vươn lên của cường quốc đang đi lên, Trung Quốc. Trong nửa đầu thế kỷ XXI, các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, cơng nghệ cũng như qn sự của Trung Quốc. Vì thế, Mỹ luôn cố gắng tập trung nhiều vào khu vực Đông Bắc, Đông Nam A và Đông Á – những khu vực có tầm quan trọng trong chiến lược tái cân bằng sau giai đoạn dài chiến tranh ở Afghanistan và Iraq. Sau những sự cân nhắc kỹ lưỡng về chiến lược, kinh tế, chính trị, những lợi ích mà Mỹ có thể đạt được tại khu vực CATBD, chính sách xoay trục tái cân bằng được xây dựng nên để giúp Mỹ đạt được mục đích thống trị nền kinh tế tồn cầu cũng như là duy trì vị trí lãnh đạo tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trước khi xuất hiện chính sách xoay trục, tình hình thế giới cũng như nước Mỹ được đánh giá là không mấy tươi sáng và hầu như liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng đến khiến Mỹ buộc phải thay đổi các hướng đi của mình trong chiến lược.
13
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">1.4. Lợi ích và mục tiêu chung của Mỹ khi triển khai chính sách này ở CATBD
Với chiến lược toàn diện về mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự) - “xoay trục - tái cân bằng” tại khu vực CATBD được triển khai bởi Tổng thống Obama cùng những mục tiêu rõ ràng, có trọng điểm.
Trước mắt, Mỹ sẽ tiếp tục duy trì lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị, văn hóa, sức mạnh quân sự và ngoại giao tại CATBD. Bên cạnh đó, Mỹ cũng kiềm chế các nước thách thức vai trò của Mỹ trong khu vực này và trên thế giới. Các mục tiêu trước mắt được đề ra trên nhiều lĩnh vực: (1). Kinh tế: Mỹ cần thoát khỏi sự khủng hoảng và suy thoái về kinh tế, ổn định và phát triển để tiếp tục là cường quốc số một về kinh tế trên thế giới; (2). Chính trị: Mỹ muốn duy trì và có thêm sự uy tín, sức ảnh hưởng của mình tại các diễn đàn, tổ chức, liên kết để củng cố trí nước lớn của mình; (3). Văn hóa: Mỹ tiếp tục lan truyền các giá trị, tư tưởng về tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Xuất khẩu văn hóa Mỹ tới các nước trong khu vực; (4). Quân sự: Mỹ cần hạn chế việc tăng cường quân sự của các nước đang trỗi dậy trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Hỗ trợ các đồng minh thân cận có sức mạnh vượt trội về quân sự, tiến đến răn đe các nước khác; (5). Ngoại giao: Mỹ tăng cường và củng cố quan hệ với các nước đồng minh để tạo sự cân bằng giữa phương Đông và phương Tây, giữa các châu lục, giữa Mỹ với các trung tâm quyền lực khác trên thế giới. Gia tăng sự ảnh hưởng, thu hút các nước khác làm đối trọng với nhau và đi theo Mỹ.
Về cơ bản, lâu dài: Mỹ đưa các nước vào quỹ đạo tư bản do Mỹ đứng đầu, khôi phục vị thế siêu cường duy nhất, tiến đến làm bá chủ thế giới. Tổng thống Obama nêu rõ mục tiêu lâu dài: (1). Tăng cường mối quan hệ đồng minh an ninh với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philipin, Oxtraylia. Đồng thuận về chính trị, bảo đảm quan hệ đồng minh linh hoạt để đối phó với những khó khăn, thách thức song song việc tận dụng thời cơ mới; bảo đảm an ninh, phòng thủ. luôn trong tư thế sẵn sàng và răn đe mọi thách thức; (2). Mỹ chú trọng tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi và tiềm năng trong khu vực: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia, Singapore, Malaysia, các quốc đảo ở Thái Bình Dương,…; (3). Vai trị của mình bằng cách tham gia các tổ chức khu vực như ASEAN, APEC, EAS,... đóng vai trị tích cực trong các diễn đàn này; (4). Mỹ mở rộng quan hệ, thương mại và đầu tư trong khu vực thông qua APEC, G20, TPP nhằm thúc đẩy mở cửa thị trường, giảm rào cản và tăng sự minh bạch, công bằng thương mại; (5). Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực. Một mặt tiến hành “hiện đại hóa” các mối quan hệ quân sự tại Đông Bắc Á. Mặt khác tăng cường sự hiện diện tại Đông Nam Á và Ấn Độ Dương; (6). Mỹ thúc ép cá nước tiến hành cải cách nhằm tăng cường bảo vệ
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">dân chủ, nhân quyền và tự do chính trị theo kiểu Mỹ và phương Tây (Nguyễn Thị Quế & Nguyễn Thị Thuý 2016).
Đồng thời, khi triển khai chính sách xoay trục, Mỹ đã nhận được những lợi ích ở khu vực CATBD thơng qua các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; kinh tế và an ninh quốc phịng.
Về lĩnh vực chính trị, ngoại giao, chính sách xoay trục đã giúp Mỹ đã tăng cường được “đồng minh”, “đối tác” bằng cách duy trì quan hệ với nhiều quốc gia tại khu vực. Mỹ đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam (2013), Malaysia (2014), và Lào (2016); nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược với Indonesia (2016). Bên cạnh đó, Mỹ đã mở rộng phạm vi hợp tác trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ và Singapore (Châu 2022). Bên cạnh đó, Mỹ đã tích cực và chủ động hơn trong việc thúc đẩy các chương trình nghị sự của EAS, ARF, ADMM+, thể chế hoá cơ chế gặp cấp cao Mỹ - ASEAN, đưa cơ chế này thành thường niên từ năm 2013. Quan hệ với ASEAN được nâng cấp lên đối tác chiến lược vào năm 2015, và đã nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2022.
Về kinh tế, Mỹ trở thành thị trường chủ chốt của khu vực, với tổng giá trị nhập khẩu hàng năm trên 3000 tỉ USD. Chính quyền Obama vẫn duy trì là nhà đầu tư nước ngồi quan trọng tại Đông Á và Đông Nam Á với tổng số vốn đầu tư trên 1000 tỉ USD. Mỹ trở thành đối tác quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu và lợi ích đầu tư của ASEAN. (Châu 2022)
Về quốc phịng, Mỹ đã có thể thể tăng cường thúc đẩy quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia – những đồng minh truyền thống quan trọng của Mỹ. Các nước đồng minh đóng vai trị chính trong các vấn đề khu vực, như: thực hiện chính sách với Trung Quốc, tăng ngân sách quốc phòng, mua sắm trang, thiết bị quân sự tối tân và tích cực tham gia vào các mặt trân song phương và đa phương. Mỹ cùng với Anh và Australia (Bộ Tứ Kim Cương – liên minh an ninh AUKUS) cùng có chung hướng về mục tiêu xây dựng an ninh tập thể trong khu vực và liên kết các đồng minh của Mỹ ở châu Âu và châu Á.
Lợi ích lớn nhất của Mỹ tại CATBD ở thời điểm này chính là sức ảnh ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực. Nước Mỹ đã từng trải qua những giai đoạn sụt giảm tương đối trong lịch sử, tuy nhiên, nhiều nước trong khu vực, trong đó có một số quốc gia Đơng Nam Á – các nước đồng minh của Mỹ đã từng hợp tác với Mỹ và hy vọng Mỹ sẽ vẫn là đối tác giúp duy trì cân bằng chiến lược tại khu vực.
15
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">CHƯƠNG 2. Vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017
2.1. Lợi ích mà Việt Nam mang lại cho Mỹ khi chính sách xoay trục được triển khai Việt Nam mang lại cho Mỹ những lợi ích đáng kể khi đất nước này thực hiện chính sách xoay trục. Có nhiều nhân tố để chứng minh cho điều này như địa lý, chính trị và kinh tế.
Xét về địa lý, Việt Nam là đất nước sở hữu vị trí địa lí mang tính chiến lược, có nhiều tiềm năng về hàng hải, được khai thác theo hai hướng: Một là “cửa ngõ” ra biển của lục địa Châu Á; hai là làm “đầu cầu” trên đất liền của con đường giao thương - trên biển. Ngoài ra, những ý nghĩa về mặt chiến lược và địa chính trị của Biển Đơng cũng là một cơ sở quan trọng góp phần nâng cao ý nghĩa địa chiến lược của Việt Nam trong nhận thức của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đơng, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đơng Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Kông. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực. (Biển Đông: Địa chiến lược và tiềm năng kinh tế 2014). Trong chính sách xoay trục, Mỹ có thể tận dụng những ý nghĩa địa lý của Việt Nam cho việc di chuyển, trao đổi buôn bán các mặt hàng, triển khai quân sự. Việt Nam cũng sẽ giúp Mỹ dễ dàng kết nối với các nước Đơng Nam Á hơn.
Việt Nam có những vị trí ngày càng trở nên quan trọng về mặt chính trị trong quan hệ với các quốc gia, tổ chức trong khu vực và trên thế giới, điều này làm nâng cao vị trí của Việt Nam trong nhận thức chiến lược đối ngoại của Mỹ. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, đồng thời cũng là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 13 nước, quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, và 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở các châu lục (Nguyễn Nhâm 2016, 42). Tại Châu Á, Việt Nam và khối ASEAN đang dần trở thành một tiếng nói quan trọng có tầm quyết định đối với nhiều vấn đề tầm cỡ thế giới. Tại Liên hợp quốc, tổ chức đa phương toàn cầu lớn nhất, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nổi bật đánh dấu sự trưởng thành của ngoại giao đa phương, mở đầu bằng sự kiện Việt Nam được quốc tế tín nhiệm bầu với số phiếu rất cao và đã đảm nhiệm thành cơng vai trị Ủy viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). Sau đó, Việt Nam liên tục và đồng thời được các nước tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng như:
16
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014- 2016), Hội đồng Kinh tế-Xã hội (ECOSOC) (nhiệm kỳ 2016-2018), thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) (nhiệm kỳ 2013-2015) và là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IAEA trong 2 năm 2013-2014. `(Đỗ Thùy Dương 2017) Trong chính sách “tái cân bằng” với CATBD, chính quyền tổng thống Obama tiếp tục củng cố các mối quan hệ liên minh và thúc đẩy quan hệ với các nước khác để hạn chế sự xáo trộn quyền lực tại khu vực, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy. Là một siêu cường trên thế giới, thực hiện mục tiêu duy trì vai trị lãnh đạo tồn cầu, đảm bảo trật tự và triển khai hiệu quả chính sách tại khu vực, thì Mỹ cần có thêm nhiều đối tác thân thiện và có năng lực tại khu vực. Trong đó, Việt Nam được Chính phủ Mỹ đánh giá rất cao với nhiều tiềm năng và được xem là một đối tác mới trong tổng thể chiến lược của Mỹ đối với khu vực CATBD có nhiều biến chuyển nhanh chóng. Phát triển mối quan hệ với Việt Nam, Mỹ sẽ có thêm được nhiều sự ủng hộ từ các quốc gia khác đặc biệt là từ khối ASEAN.
Về mặt kinh tế, Mỹ đánh giá Việt Nam là một đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ sau đổi mới năm 1986, tốc độ phát triển của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu. Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), ASEAN, Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/01/1996. Năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu(ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào APEC. Năm 2010, Việt Nam đã là là một thành viên sáng lập của TPP (Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên CPTPP 2019). Mỹ có thể nắm bắt cơ hội để đầu tư vào một đất nước đang có nhiều tiềm năng như Việt Nam, từ đó nhận về các lợi ích kinh tế trong chiến lược xoay trục của mình. Các hiệp định và qui chế thương mại ưu đãi của Mỹ đã tạo điều kiện cho hàng hóa của hai nước thâm nhập nhiều hơn vào thị trường của nhau: kim ngạch buôn bán giữa hai nước năm 1994 đạt 220 triệu USD nhưng đến năm 2015 con số này là 45,1 tỉ USD. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 13 vào thị trường Mỹ và nước nhập khẩu lớn thứ 37 của hàng hóa Mỹ. Một điểm đáng chú ý là Việt Nam luôn xuất siêu vào thị trường Mỹ. Về đầu tư, tính đến năm 2014 Mỹ trở thành nhà đầu tư lớn tứ 7 ở Việt Nam với 11 tỉ USD trong 725 dự án. (Michael F. Martin 2016)
Với những thành tựu nói trên, Việt Nam đóng một tiếng nói khơng nhỏ trong tiến trình phát triển của khu vực, ngày càng thể hiện vai trò là một nước tích cực trong các vấn đề chung trên toàn cầu. Cộng hưởng những lợi thế này của Việt Nam tại khu vực, khi thực hiện chính sách xoay trục, Mỹ sẽ có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với một thị trường rộng lớn và tiềm năng trong lĩnh vực kinh tế và đi sâu hơn các lĩnh vực văn hóa-xã hội khác. (Hồng Vũ 2017, 51)
17
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">2.2. Xác định vị trí của Việt Nam trong chính sách tái cân bằng của Mỹ từ 2011-2017 2.2.1. Vị trí của Việt Nam ở khu vực CATBD
CATBD là một khu vực có vị thế địa - chính trị và địa - kinh tế quan trọng và có khả năng gây ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của nhiều quốc gia khác. Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực CATBD nên quốc gia hình chữ S cũng mang trong mình một tiềm năng phát triển vô cùng lớn. Việt Nam nằm ở khu vực địa lý tiếp giáp nhiều đại dương, là cửa ngõ nối liền nhiều quốc gia lớn với thế giới; đồng thời với lợi thế đông dân và nằm trong khu vực có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn, Việt Nam càng khẳng định được sự quan trọng của mình đối với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Xét dưới góc độ địa - kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 21 nước thành viên khu vực CATBD chiếm 54% tổng GDP thế giới và dịch vụ thương mại chiếm 44% thế giới. Cùng với lợi thế tổng số dân chiếm khoảng ½ dân số thế giới, bước vào thế kỷ XXI, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực đã tăng lên vô cùng nhanh chóng và trở thành một khu vực có nhiều tiềm năng phát triển, có vai trị và vị trí quan trọng khơng chỉ với lợi ích của các nước lớn như Mỹ, Nga và Trung Quốc.
Việt Nam nằm giữa Đông Bắc Á và Đơng Nam Á, đồng thời có đường lãnh hải dài và chung đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Điều ấy cho thấy quốc gia với hơn 4000 năm lịch sử này nằm ở vị trí trung tâm của các hoạt động kinh tế diễn ra trong khu vực CATBD. Nhờ điều này, Việt Nam sẽ nhận được những lợi ích từ sự phát triển của các nước lớn trong khu vực nhờ vai trị cầu nối giữa khu vực Đơng Bắc Á và Đông Nam Á. Trong những năm lịch sử Việt Nam, quốc gia của chúng ta cũng đã nỗ lực và tham gia, đóng góp vào sự phát triển chung của khu vực nói riêng và thế giới nói chung. Năm 1996, chỉ một năm sau sự gia nhập chính thức của Việt Nam vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã tổ chức thành cơng Hội nghị cấp cao ASEAN; sau đó là rất nhiều các Hội nghị quốc tế lớn khác như Hội nghị cấp cao Cộng đồng Pháp ngữ 1997, Chủ tịch ASEAN năm 1998, Hội nghị cấp cao APEC-16 năm 2006, Hội nghị cấp cao ASEM năm 2007 và đặc biệt là gánh vác vai trị Uỷ viên khơng thường trực Hội đồng Bảo An Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 bao gồm cả trọng trách 2 lần Chủ tịch luân phiên của Hội đồng và Chủ tịch Hội nghị Giải trừ quân bị của Liên hợp quốc khóa 2009. Vai trị và tiếng nói của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế được tiến lên một tầm cao mới khi Việt Nam tổ chức thành công APEC-16, là thành viên của WTO năm 2007 và vai trò chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào năm 2008,...
Trong bối cảnh thế kỷ 21 có nhiều cơ hội và đan xen cả những thách thức, khu vực CATBD sẽ ln là khu vực có sự phát triển năng động và thu hút nhiều sự quan tâm của
18
</div>