Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tình hình lạm phát 2011-2017-thông tin đầy đủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.02 KB, 30 trang )

Lời mở đầu
Vấn đề lạm phát, chống lạm phát, kiềm chế và kiểm soát lạm phát là một trong
những vấn đề đầu tiên trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước và
cũng là vấn đề mà các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các nhà quản lý đã dày
công nghiên cứu và có nhiều tranh cãi. Lạm phát, nó luôn là con dao hai lưỡi. Một
mặt nó kích thích tăng trưởng kinh tế. Mặt khác khi lạm phát cao và không kiểm
soát được thì nó lại là hậu quả nghiệm trọng đối với nền kinh tế cũng như xã hội.
Vấn đề đặt ra là lạm phát phải giữ lạm phát ở mức nào là phù hợp để đạt mục tiêu
tăng trưởng kinh tế cao. Và khi lạm phát bùng nổ thì những biện pháp nào là hữu
hiệu để khống chế và kiểm soát nó.
Gần đây, lạm phát cao đã xảy ra đối với nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là
trong những năm trở lại đây. Hiện tượng đã gây nên sự chú ý quan tâm của mọi
tầng dân cư của Chính phủ và các nhà nghiên cứu. Người dân có những phản ứng
đa dạng, rất nhiều người đã có những quan điểm khác nhau về vấn đề lạm phát.
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều
đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra
những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng
lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.
Cụ thể, diễn biến lạm phát Việt Nam có thể được chia theo các thời kỳ chính như
sau:
- Giai đoạn từ 2012 đến 2015: Lạm phát giảm mạnh sau khi Chính phủ thực
hiện quyết liệt chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điển
hình như: Khởi đầu là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011, tiếp sau đó
các Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 3/1/2012), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày
7/1/2013), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 2/1/2014) lần lượt ra đời.Cùng với
các chính sách kiềm chế lạm phát, Chính phủ còn đưa ra nhiều biện pháp
đồng bộ và mạnh mẽ nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, trong
đó chủ chốt là chính sách tiền tệ thắt chặt và tài khóa chặt chẽ. Nhờ đó, chỉ số
CPI đã giảm mạnh từ 18,1% năm 2011 xuống 6,8% năm 2012; 6% năm 2013;
1,8% năm 2014 và 0,6% năm 2015.


1


- Giai đoạn từ năm 2016 đến nay: Với việc kinh tế Việt Nam dần phục hồi, lạm
phát đã có xu hướng tăng trở lại
Bởi vai trò quan trọng của lạm phát đối với nền kinh tế nước nhà cũng như thế
giới nói chung. Đây cũng là một vấn đề kinh tế phức tạp và có nhiều quan điểm
khác nhau.
Vì vậy, với đề tài mà chúng em nghiên cứu “ Diễn biến lạm phát ở Việt Nam
trong những năm qua”, chúng em hy vọng nhận được sự góp ý chân thành từ cô và
các bạn để bài nghiên cứu của chúng em được hoàn thiện hơn.

2


Nội Dung
1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
1.1. Khái niệm về lạm phát.
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi
các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy
luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá , còn tồn tại những quan hệ
hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện
khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Lạm phát đã trở thành mối quan
tâm của rất nhiều người .Do đó lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công
trình nghiêm cứu của các nhà kinh tế.
- Lạm phát giá cả: Là sự tăng giá nói chung của hàng hóa. Khi đó, giá cả của
hàng hóa không phản ánh đúng giá trị của chúng (giá cae cao hơn giá trị thực
của hàng hóa), điều đó có nghĩa sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả
của việc gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại

lạm phát cao kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao.
- Lạm phát nhu cầu: là lạm phát do cầu quá mức – gọi là lạm phát cầu kéo.
Lạm phát này xảy ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm tăng tổng cầu
tiền, dẫn đến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không
tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm phát nhu cầu có thể bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách hay tăng
cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa.
- Lạm phát chi phí: Là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng sản xuất
không tăng hoặc tăng ít – gọi là lạm phát chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng
lên khiến cho mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến lạm phát phí đẩy, như là: Tăng lương vượt quá mức
tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử dụng vốn từ NSNN và vốn
tín dụng kém hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số sản phẩm thiết yếu
tăng lên; sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội; nghiệp vụ chiết khấu và
tái chiết khấu các chứng từ có giá trị lạm dụng;...
3


Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm
phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hoá cấu thành
tổng sản phẩm quốc dân: nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế
thường được thay thế bằng một trong hai loại chỉ số giá thông dụng khác: chỉ số giá
tiêu dùng(CPI) hay chỉ số giá bán buôn (còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất-PPI).
Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá lớn,
vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của đồng tiền
giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện.
 Biểu hiện của lạm phát là tiền giấy bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng.Lúc đầu
giá vàng tăng, sau đó lan rộng ra đối với giá cả các hàng hóa khác, nhưng giá
cả các loại hàng hóa tăng không giống nhau. Đối với hàng tư liệu tiêu dùng
thiết yếu (lương thực, thực phẩm, hàng may mặc), giá cả tăng cao so với các

hàng tiêu dùng khác. Đối với tư liệu sản xuất thì giá cả tăng nhanh nhất là
những vật tư nguyên liệu quan trọng (sắt, thép, kim loại…)Giá cả hàng hóa
tăng lên làm cho đời sống người lao động ngày càng khó khăn, vì vậy cơ cấu
tiêu dùng của người lao động sẽ bị thay đổi theo chiều hướng giảm tiêu dùng
xa xỉ, lâu dài, tập trung cho tiêu dùng trước mắt. Điều đó khiến cho chỉ số lạm
phát của từng nhóm mặt hàng có thể không giống nhau, thậm chí có những
mặt hàng giảm giá, nhưng chỉ số giá chung thì vẫn tăng. Ngoài những biểu
hiện nói trên, lạm phát còn biểu hiện là tỷ giá ngoại tệ tăng liên tục, tức là tiền
trong nước bị giảm giá còn ngoại tệ thì tăng giá.Thông thường trong nước có
lạm phát, tiền giấy bị mất giá so với vàng, giá vàng trong nước tăng thì nó
cũng sẽ làm tỷ giá ngoại tệ tăng. Điều này đối với nước có lạm phát cũng có
lợi thế là có thể đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hóa.
 Cần chý ý là vì biểu hiện trực tiếp của lạm phát là sự tăng liên tục của giá cả
hàng hóa, nên người ta thường đồng nhất lạm phát và tăng giá, và vì vậy
người ta lấy chỉ số tăng của giá cả hàng hóa (nói chung) làm chỉ số lạm phát.
 Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CPI (Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và
dịch vụ trên thị trường. Để tính CPI, ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho
từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát.
4


+ Tỷ lệ lạm phát = [ Ip/Ip-1 – 1] x 100%
Ip = Ʃip.d
ip : chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d : tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
Trong đó, Ip là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của kỳ đang tính và Ip-1 là CPI
của kỳ trước.Chỉ số giá tiêu dùng CPI là mức giá chung, hay nói chính xác
hơn là số trung bình của giá nhiều loại hàng hóa và dịch vụ.

+ Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI:
Producer Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI dùng để tính giá cả
trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định
Lạm phát: được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường
dựa trên dữliệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên
đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụđược tổ hợp với nhau để đưa ra một mức
giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản
phẩm. Chỉ số giá cả là tỷlệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với
mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm
phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung
bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có
thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là
độtăng kích thước của nó.Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ
số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán
cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực
kinh tế mà nó được thực hiện.
1.2. Các mức độ lạm phát.
Có 3 mức độ lạm phát
 Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối.
Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người
lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi
suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ
hàng hoá với số lượng lớn... Khi giá tương đối ổn định, mọi người tin
tưởng vào đồng tiền, họ sẵn sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ nguyên giá trị
5



trong vòng một tháng hay một năm. Mọi người sẳn sàng làm những hợp
đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền vì họ tin rằng giá trị và chi phí của
họ mua và bán sẽ không chệch đi quá xa.Tác hại của lạm phát vừa phải là
không đáng kể, thậm chí lạm phát loại này còn có tác dụng tích cực đối với
sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm
lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian
này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng
đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
 Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ
lệ 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung
tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được
chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và
không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.Đồng tiền mất giá
nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ tiền mặt mọi người
chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho việc thanh toán hằng ngày.
Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ. Thị trường tài chính
không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài). Loại này khi đã trở nên vững
chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng, nền sản xuất sẽ
không phát triển và hệ thống tài chính quốc gia đó bị phá hoại.Các quốc gia
Mỹ La tinh đã hứng chịu mức lạm phát từ 20% đến 200% trong suốt thời kì
từ 1980 đến 1999. Việt Nam những năm 1976 đến 1994 cũng trải qua thời
kì lạm phát cao, hầu hết chỉ số lạm phát các năm đều là 2 con số.
 Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt
xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền
tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị
giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác,
các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng
rối loạn. Đồng tiền gần như mất giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên
cơ sở hàng đổi hàng tiền không còn làm được chức năng trao đổi.Siêu lạm
phát phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm với hiện tượng suy thoái

nền kinh tế nghiêm trọng. Điển hình ví dụ về hiện tượng lạm phát này là
lạm phát ở Đức những năm 1922 đến 1924 với tỷ lệ 10.000.000.000% và
xảy ra ở Bolivia 1985 với 50.000% một năm; lạm phát ở Nga sau cách
mạng tháng 10; lạm phát ở Mỹ thời kì nội chiến hay ở Zinbabwe với tốc độ
6


lạm phát tại thời điểm tháng 7/2008 là 2.200.000%. Việt Nam cũng đã trải
qua siêu lạm phát trong những năm 1986-1987-1988 với mức độ lạm phát
đỉnh điểm vào năm 12987 là 776%. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy
ra.Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn.
1.3.

Ảnh hưởng của lạm phát tới nền kinh tế -xã hội

Tùy vào mức độ của lạm phát mà có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển của nền kinh tế -xã hội
 Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì lạm phát sẽ có tác động kích thích nền
kinh tế -xã hội phát triển .
 Nếu lạm phát ở mức cao hoặc quá cao thì lạm phát lại có ảnh hưởng xấu
đến nền kinh tế xã hội:
 Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến
động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của
đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế.
Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ
phá sản rất lớn.
 Đối với lĩnh vực lưu thông

Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá.
Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí
khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp
phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực
này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại
nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều
này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do
7


lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không
làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người
đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh
chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn
nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
 Đối với lĩnh vực tài chính nhà nước
Lạm phát làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng bị thu hẹp.,giảm
sút cả về số lượng lẫn giá trị thực tế,trong khi chi tiêu chính phủ ngày càng gia tăng
về mặt giá trị thực tế.Điều này dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước ngày
càng tăng
 Đối với lĩnh vực tền tệ tín dụng
Lạm phát phá vỡ các chức năng của tiền tệ ,làm cho sức mua của đồng tiền
giảm sutd một cách nhanh chóng,dân chúng mất lòng tin vào đồng tiền mất giá
,không muốn nắm giữ đồng tiền đó nữa. Chính vì thế việc dân chúng từ chối việc
gửi nội tệ vào ngân hàng thương mại là điều tất yếu .Điều này làm hoạt động của
các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng ,làm ảnh hưởng lớn đến vai trò

điều hòa lưu thông tiền tệ của ngân hàng.
 Đối vơi tiêu dùng và đời sống của người lao động
Lạm phát làm cho tiêu dùng thực tế giảm ,đời sống dân cư trở nên khó khan do
tiền lương danh nghĩa không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết ,đồng thời
tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng
Tóm lại hậu quả của lạm phát cao là rất nặng nề và nghiêm trọng ,ảnh hưởng
đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
 Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do
tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.Việc
tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng cầu về hàng hoá và
dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm
8


phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản
xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn
hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ
được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất
hiện. Chẳng hạn như ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản
ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới
lạm phát tăng

Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1 .Khi các nhà hoạch định
chính sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên , họ
sẽ đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản
lượng tiềm năng (Yt > Yn).Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và đường tổng cầu sẽ dịch
chuyển đến AD2 nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ .Lúc này sản lượng đã đạt tới mức
Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã

thực hiện được .
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền
lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2 ,đưa nền kinh tế từ điểm 1’
sang 2’ .Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 > P1 .Lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục
tiêu ban đầu .Do đó các nhà hoạch định chính sách lại tìm cách làm tăng tổng
cầu .Quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn .
 Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung ,do chi phí sản
xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có thể đạt trong
9


giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn .Ví
dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và
nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng xuất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng
lên .Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì
giá bán sẽ tăng lên ,công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn
trước đẻ phù hợp với chi phí sinh hoạt taưng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá .
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng
hợac khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên nhiên
vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5
lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên qoàn thế giới .Ngoài
ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng
thấy .
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội
địa cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng
nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác.
 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung tiền tệ

tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát .Có thể thấy
ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng .Khi nền kinh tế
chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều ,chưa khai thác nhiều
.Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động .Do đó nhân viên
nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này ,khi tăng cung tiền
thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ nào đó ,các nhà đầu tư thấy rằng có thể
có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất ,kinh
doanh .Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác ,người lao động có
việc làm và sản lượng tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết công
suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa .Khi đó lực lượng lao động
được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều.Tuy nhiên tình
hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông .Chẳng hạn khi các nhà
máy ,xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động
,nguyên vật liệu dần bị han hiếm …Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải
xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu
10


không sẽ gây ra lạm phát.Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm
phát tất yếu sẽ xảy ra. Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn
giảm sút việc cung tiền .Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :


Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện
kinh doanh tốt ) hợac các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng .Trong cả hai
trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí .Về mặt trung và dài
hạn ,điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng .Nếu cung không tăng tương
ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ
không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm .In tiền để trợ cấp cho chi tiêu

công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng .Ví dụ năm 1966-1967 ,chính phủ Mỹ
đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh
taị Việt Nam ,lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970).



Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức
cân bằng ,nghĩa là (i) và (Y) ổn định .Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng
không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với
tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây cũng chính là lý do tại
sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
 Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên nhân khác
cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư .Khi người dân
không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu
thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào
đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu
trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát
sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy
ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến
tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần
thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm
tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát .Tuy nhiên khi sự thâm hụt
11


trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành
tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên

cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển
,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị
trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi
thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây
lạm phát càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu
có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất
tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại
phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm
phát.
Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm
tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ giá tăng
đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy
giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khac khi tỷ giá hối đoái
tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu ,hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả
của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước ,chính
sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng xảy ra lạm
phát.
2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây (2012-2016)
2.1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam năm 2012
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2012
tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân
năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011.

12


Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI. Nguồn: Tổng cục Thống kê


Tháng 12 so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh nhất, tới
1,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao hơn mức tăng chung nhưng
cũng đều dưới 1% là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%, văn hóa, giải trí và du
lịch tăng 0,34%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%.
Nhóm có tỷ trọng lớn nhất trong “rổ” hàng hóa tính CPI là hàng ăn và dịch vụ
ăn uống chỉ tăng khiêm tốn là 0,28% (Lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng
0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%).
Những nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều tháng
trước thì ở tháng này, lại tăng thấp hơn cả mức tăng chung. Đó là nhà ở và vật liệu
xây dựng chỉ tăng 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09% trong đó, dịch vụ giáo dục
tăng 0,05%, nhóm giao thông giảm 0,43%...
Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước; tăng 0,4% so với
tháng 12/2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng trước;
giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
Sau 2 tháng liên tiếp tăng kỷ lục tới 10-20%, Chính phủ yêu cầu giãn thời gian
tăng giá viện phí thì các thuốc và dịch vụ y tế chỉ còn tăng 0,14%, trong đó, dịch vụ
y tế tăng 0,03%.
13


Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ “nhỉnh”
hơn mức tăng 6,52% của năm 2009 – năm suy giảm kinh tế mạnh và thấp hơn
nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011.
*Nguyên nhân:
- Lạm phát về tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu, mức tăng tiền quá cao so với mức
tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được
sử dụng hiệu quả do:
+ Đầu tư công quá mức, nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế
và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân.

+ Phân bố nguồn lực không đồng đều giữa các doanh nghiệp. Có sự thiên vị về đầu
tư cho các doanh nghiệp nhà nước và chèn ép các doanh nghiệp tư nhân vừa và
nhỏ.
+ Theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng
cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
- "Đầu tư nhiều hơn tiết kiệm". Trong thời gian dài, tăng trưởng tín dụng của
Việt Nam trung bình khoảng 30%/năm, tổng phương tiện thanh toán cũng tăng
mạnh. Một nguyên nhân khác là hiệu quả đầu tư chưa cao, một phần do quản lý
vốn đầu tư kém hiệu quả.
- Nền kinh tế quá mở: kim ngạch nhập khẩu có lúc chiếm tới 80% GDP, gây ra
nhập siêu là một căn nguyên dẫn tới lạm phát.
- Quyền số của lương thực, thực phẩm quá cao trong rổ hàng hóa tính CPI cũng
khiến con số lạm phát tăng lên.

2.2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam năm 2013
Thống kê cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2013 tăng 0,51% so với
tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012. Đây là năm có chỉ số giá tiêu
14


dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm
2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012.

Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI. Nguồn: Tổng cục Thông kê
Trong các nhòm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số
giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%; may mặc,
mũ nón, giày dép tăng 0,57%, hàng ăn dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 0,17%;
đồ uống và thuốc lá tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; văn hóa,
giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; giáo dục tăng
0,02%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại chỉ số giá giảm: Gồm giao thông vận

tải 0,23%, bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
Về tăng trưởng GDP, số liệu chính thức từ Tổng cục Thống kê cho biết, Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012.
Trong đó, quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5,00%, quý III tăng 5,54%, quý IV tăng
6,04%.
Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% nhưng cao hơn mức
tăng 5,25% của năm 2012 và có tín hiệu phục hồi.

15


Trong mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng của năm trước, đóng góp 0,48%%, khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước, đóng
góp 2,09%, khu vực dịch vụ tăng 6,56% cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012,
đóng góp 2,85%.
Tổng Cục Thống kê đánh giá, sản xuất công nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi,
nhát là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã có chuyển biến rõ nét. Chỉ số tồn
kho, tiêu thụ đã diễn biến tích cực. Trong đó, chỉ số sản xuất ở một số ngành tăng
cao như dệt may, sản xuất da, sản xuất thiết bị điện..
Đáng chú ý, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chỉ còn tăng 9,2% so với
cùng kỳ năm trước.
Về cơ cấu trong quy mô nền kinh tế cả năm, khu vực nông lâm nghiệp và thủy
sản chiếm tỷ trọng 18,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,3% và khu
vực dịch vụ chiếm 43,3% (năm 2012 các tỷ trọng tương ứng là 38,6% và 41,7%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,36% so với
năm 2012, đóng góp 3,72% vào mức tăng chung; tích lũy tài sản tăng 5,45%, đóng
góp 1,62%, chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,08% cho
xuất siêu.
*Nguyên nhân:

- Cung tiền trong những năm qua có sự nới lỏng quá mức là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao ở nước ta.
- Chi phí sản xuất, cùng giá cả hàng hóa tăng cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tăng giá thành và giá bán sản phẩm.
- Lãi suất vốn vay ở mức cao làm tăng giá thành sản phẩm và gây khó khăn cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
- Việc thực hiện chính sách kích cầu để ngăn chặn suy giảm kinh tế đã gây áp
lực đến mặt bằng giá đồng thời bội chi ngân sách nhà nước.
- Nguyên nhân về cơ cấu kinh tế, cơ cấu và hiệu quả đầu tư: Theo các chuyên
gia kinh tế, đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mất ổn định các cân đối
vĩ mô và đẩy lạm phát tăng cao trong thời gian vừa qua.
16


2.3. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam năm 2014
Trong nước, do ưu tiên hàng đầu của Chính phủ là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, kết hợp với các điều kiện tích cực của kinh tế vĩ mô trong năm 2013, lạm phát
năm 2014 của Việt Nam tiếp tục duy trì ở mức thấp, phù hợp với diễn biến chung
của xu thế lạm phát trong khu vực. Tính chung cả năm 2014, CPI 2014 chỉ tăng
khoảng 1,9% so với cùng kỳ năm 2013; CPI bình quân tăng 4,09% so với năm
2013. Dù xét theo chỉ tiêu nào thì đây vẫn là điều đáng mừng bởi lần đầu tiên trong
10 năm qua, lạm phát tăng thấp hơn tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao chất
lượng đời sống của người dân và giá trị đồng nội tệ, tạo điều kiện cho Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua giảm lãi suất cho vay
trong thời gian tới.
Năm 2014 là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam đạt được mục tiêu kép – tăng
trưởng kinh tế cao hơn (5,93%) đi kèm với lạm phát ở mức thấp hơn (chỉ tăng
1,9%).


20
18.58
18
16
14
12
10

9.21

8

6.6

6
4.09

4
2
0
2011

2012

2013

2014

Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 2011 đến 2014 (Đơn vị: %) Nguồn: Tổng
cục Thống kê


17


*Nguyên nhân:
- Thứ nhất, tiêu dùng thấp và mức cải thiện chậm trong khi nguồn cung hàng
hoá ổn định và có xu thế tăng trưởng tích cực hơn . Mặc dù tăng trưởng tín
dụng và cung tiền năm 2014 cao hơn năm 2013 nhưng tình hình sản xuất gặp
nhiều khó khăn nên khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế , phần lớn các luồng
tiền đều luân chuyển trong hệ thống ngân hàng , do đó không gây ra tác động
tiêu cực đáng kể nào đối với laṃ phát.
- Thứ hai, sự ổn định của thị trường ngoại hối cùng với mức điều chỉnh tăng tỷ
giá thấp 1% trong năm 2013 - 2014, việc điều chỉnh giảm liên tục các mức lãi
suất cho vay cũng góp phần kiềm chế đáng kể tốc độ tăng lạm phát.
- Thứ ba, quán triệt Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2011 vớ i nhiêṃ vụ
quan trọng là ổn điṇh vĩ mô, kiểm soát lạm phát nên trong năm 2014, lạm phát
chủ yếu chịu sự tác động của việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản như giá
dịch vụ y tế , giáo dục, giá xăng dầu. Tuy giá các mặt hàng cơ bản này có sự
điều chỉnh nhưng nhìn chung, mức ảnh hưởng không lớn và không gây ảnh
hưởng kéo dài.
- Thứ tư, giá cả hàng hoá thế giới có mức tăng thấp và vẫn tiếp tục xu hướng
giảm.

2.4. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam năm 2015
Theo các số liệu do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố, mức lạm phát ở Việt
Nam trong năm 2015 đã xuống thấp ở mức kỷ lục, tức là 0,63%. Tỷ lệ 0,63% là
mức thấp nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu tính toán mức lạm phát. CPI tháng
12/2015 tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2014, bình quân mỗi tháng CPI tăng 0,05%.
CPI bình quân năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014, cũng đã tạo điều
kiện để Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ tích cực, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Lạm phát thấp thì người tiêu dùng được hưởng lợi và được

hưởng trọn vẹn thành quả của tăng trưởng.

18


10
9.21
9
8
7

6.6

6
5

4.09

4
3
2
1
0
2012

0.63
2013

2014


2015

Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 2012 đến 2015 (Đơn vị: %) Nguồn: Tổng
cục Thống kê

*Nguyên nhân:
- Thứ nhất, do nguồn cung về lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào; sản
lượng lương thực thế giới tăng với sự cạnh tranh từ các nước như Thái Lan, Ấn
Độ nên việc xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp khó khăn hơn. Do đó, giá lương
thực của Việt Nam luôn ở mức thấp hơn các nước khác.
- Thứ hai, giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnh, giá dầu
Brent xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. Do đó, giá xăng dầu trong
nước được điều chỉnh giảm, kéo theo chỉ số giá nhóm hàng liên quan khác đều
giảm theo.
- Thứ ba, mức độ điều chỉnh giá của các nhóm hàng do Nhà nước quản lý như
dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế thấp hơn so với năm trước.
- Thứ tư, trên cơ sở Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2015 về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2015 của Chính phủ, năm 2015 là năm có ý nghĩa quan
trọng, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 20112015, là năm tiến hành đại hội Đảng các cấp nên các ngành các cấp đã tích cực
19


triển khai thực hiện các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát
lạm phát.
Ngành Công thương phối hợp với các ngành liên quan chỉ đạo các doanh
nghiệp thương mại dự trữ hàng hóa, tham gia bình ổn thị trường phục vụ Tết
Nguyên Đán nên không xảy ra hiện tượng tăng giá đột biến vào dịp Tết.
Bộ Tài chính tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các
đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện công tác quản
lý bình ổn giá tại một số địa phương.Về quản lý giá xăng dầu, Bộ Tài chính

phối hợp với Bộ Công thương điều hành kinh doanh xăng dầu phù hợp tình
hình thị trường thế giới và trong nước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt phù
hợp với tình hình kinh tế vĩ mô. Năm 2015 vừa qua tỷ giá được điều chỉnh 3%
vào ngày 7/1/2015, ngày 7/5/2015 và ngày 19/8/2015, biên độ giao dịch tỷ giá
cũng được tăng lên (+/-)3% nhằm ổn định thị trường ngoại hối, ứng phó kịp
thời với tình hình biến động của thị trường tài chính của các nước có quan hệ
thương mại lớn với Việt Nam và hỗ trợ xuất khẩu.
- Thứ năm, trong hai năm gần đây, CPI tăng thấp còn do yếu tố tâm lý, chi tiêu
của người dân được tính toán kỹ hơn, cân nhắc hơn. Do đó, người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ cũng không tăng giá cao vào dịp trước, trong và sau Tết
Nguyên đán hay các ngày lễ hội như những năm trước đây.
2.5. Diễn biến lạm phát ở Việt Nanm năm 2016
Tổng cục Thống kê vừa chính thức công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12/2016 tăng 0,23% so với tháng trước và tăng 4,74% so với tháng 12 năm
trước.Như vậy, kết quả cuối cùng đã có. Lạm phát năm 2016, theo cách tính hiện tại
(so với tháng 12 năm trước) chỉ là 4,74%, thấp hơn mục tiêu đề ra cho năm nay là
5%.
Tháng
trước, sau khi CPI bất ngờ tăng 0,48% so với tháng trước, khiến lạm phát tính tới
thời điểm đó lên tới 4,5%, nhiều ý kiến lo ngại về việc lạm phát cả năm có thể vượt
ngưỡng 5%. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại phiên họp thường kỳ
Chính phủ tháng 11/2016 đã chỉ đạo việc không được để lạm phát tăng cao quá 5%.

20


Và nay, tháng 12/2016, dù là tháng cận Tết Dương lịch, nhưng CPI chỉ tăng nhẹ,
góp phần quan trọng khiến lạm phát cả năm chỉ dừng ở con số 4,74%. Chính phủ
đã có thể thở phào, vì một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng đã hoàn

thành kế hoạch đề ra.
Thậm chí, nếu tính bình quân - tức là cách tính lạm phát mới, đang được Tổng
cục Thống kê đề xuất thực hiện từ năm tới, thì lạm phát năm nay chỉ dừng ở 2,66%.
Quay trở lại với diễn biến giá cả thị trường tháng 12/2016, Tổng cục Thống kê
cho biết, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm tăng giá. Cụ thể,
thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,3%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,25%; đồ uống
và thuốc lá tăng 0,21%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,19%; hàng hóa và dịch
vụ khác tăng 0,1%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%.
Bên cạnh đó, có 4 nhóm giảm giá, là giao thông - giảm 0,89%; bưu chính - viễn
thông, giảm 0,03%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống - giảm 0,03%; văn hóa, giải trí và
du lịch - giảm 0,02%.
Riêng nhóm Giáo dục không thay đổi so với tháng trước.
Trong khi đó, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản (CPI sau khi
loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước
quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 12/2016 tăng 0,11% so với
tháng trước, tăng 1,87% so với cùng kỳ. Cả năm, lạm phát cơ bản tăng 1,83% so
với năm 2015.
Như vậy, bình quân năm 2016 so với năm 2015, lạm phát chung có mức tăng cao
hơn lạm phát cơ bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có mức
tăng cao, đó là giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả
qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục.
Mức tăng của lạm phát cơ bản từ tháng 1 đến tháng 12 năm nay so cùng kỳ có
biên độ dao động trong khoảng khá hẹp từ 1,64% đến 1,88%, điều này thể hiện
chính sách tiền tệ đang được điều hành ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm
soát lạm phát.
*Nguyên nhân:
21


- Thứ nhất, giá xăng dầu thế giới và giá xăng dầu trong nước đã có những điều

chỉnh tăng liên tục. Có một số lần điều chỉnh giảm nhưng tính tổng thể, giá
xăng dầu trong 6 tháng đầu năm 2016 tăng. Giá xăng dầu tăng tác động đến
các mặt hàng liên quan đến xăng dầu như dịch vụ vận tải. Giá xăng thế giới
tăng là kết quả kết hợp của nhiều yếu tố như quyết định ra đi hay ở lại EU của
Anh, triển vọng của tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, Fed tăng hay giảm lãi
suất cho vay qua đêm,… Vì vậy, giá xăng dầu trong nước điều chỉnh theo là
hợp lý. Đây là cú sốc ngoại sinh nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ, các
chuyên gia này đánh giá.
- Thứ hai, nguyên nhân là do điều chỉnh tăng giá các nhóm hàng thuộc diện
quản lý của Nhà nước như nhóm giáo dục, y tế.
- Thứ ba, thời tiết diễn biến bất thường tác động đến giá lương – thực phẩm.
Theo số liệu công bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 6
tháng đầu năm 2016, do hạn hán, lũ lụt, sản lượng nông nghiệp giảm. Sự kiện
ô nhiễm môi trường tại 4 tỉnh miền Trung cùng ô nhiễm sông tại Thanh Hóa,...
cũng tác động tiêu cực đến sản lượng lương thực - thực phẩm, mà theo nhận
định của các chuyên gia là do yếu tố chủ quan, do công tác quản lý và giám sát
môi trường lỏng lẻo.
Nhìn chung, dù tình hình thời tiết gặp nhiều khó khăn nhưng năm 2016, các Bộ,
ban ngành và doanh nghiệp đều nỗ lực đảm bảo nguồn cung hàng hóa cho thị
trường. Với giá cả hầu hết các mặt hàng đều được điều hành linh hoạt, đặc biệt là
những mặt hàng tác động mạnh đến đời sống như giá dịch vụ y tế, giáo dục, xăng
dầu, lương thực thực phẩm… các mặt hàng vẫn đảm bảo tăng theo đúng quy định
nhưng không tác động lớn đến Chỉ số CPI.
2.6. Xu hướng lạm phát ở Việt Nam năm 2017
Trong tương lai gần có thể nhận định rằng, chưa có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho
việc lạm phát cao quay trở lại.

22



Hình 3: Dự báo lạm phát so với cùng kỳ năm trước của các tháng trong năm
2017(tổng cục thống kê)
Xét trên góc độ phân tích kỹ thuật, do lạm phát có tính ỳ rất cao nên nhiều khả
năng xu hướng lạm phát thấp trong năm 2016 (không tính điều chỉnh giá bằng biện
pháp hành chính) sẽ tiếp tục trong năm 2017, nhất là trong bối cảnh kinh tế chưa có
nhiều đột biến theo hướng thuận lợi.
Bởi vậy, nếu trong năm 2016 không có các cuộc điều chỉnh giá bằng biện pháp
hành chính, lạm phát so với cùng kỳ năm trước được dự báo sẽ giảm dần từ mức
5% trong tháng 1-2/2017 xuống còn 1% vào tháng 12/2017 (Hình 3). Lạm phát
trung bình trong năm 2017, theo định nghĩa là trung bình số học của lạm phát cùng
kỳ các tháng trong năm, được dự báo sẽ vào khoảng 2,6%.
Tuy nhiên, theo kế hoạch, trong năm 2017, Nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh giá
dịch vụ y tế và giá dịch vụ giáo dục, nên lạm phát sẽ cao hơn các con số nêu trên.
Mức cao hơn này không chỉ phụ thuộc vào mức độ điều chỉnh giá, mà còn phụ
thuộc vào thời điểm điều chỉnh giá. Các cơ quan quản lý giá càng điều chỉnh giá
dịch vụ muộn bao nhiêu, thì lạm phát trung bình sẽ càng tăng chậm bấy nhiêu.
Về tổng thể, có thể nhận định rằng, bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới hiện
nay không có nhiều thuận lợi cho triển vọng đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% trong
năm 2017. Khi tăng trưởng kinh tế gặp nhiều thách thức, lạm phát cao sẽ chưa thể
xảy ra. Mục tiêu mà Quốc hội đề ra là lạm phát trung bình 4%, do vậy, hoàn toàn có
thể đạt được trong năm 2017, nếu mức điều chỉnh giá dịch vụ y tế trong năm 2017
chỉ bằng 1/2 so với năm 2016 và được thực hiện chủ yếu trong nửa cuối năm.

23


3. Các biện phát của chính phủ để kiểm soát lạm phát
Trong giai đoạn 2011 – 2016, Việt Nam đã thành công trong nhiệm vụ kiểm soát
lạm phát nhờ vào việc phối hợp tốt các giải pháp kiểm soát lạm phát.
 Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ

Lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ, mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ
tín là nguyên nhân quan trọng dẫn đến lạ phát. Chính phủ đã linh hoạt sử dụng
hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiên quyết thắt
chặt tiền tệ, bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân
hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát
triển.
Chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng đặc biệt là điều tiết lãi suất phù hợp với
tình hình lạm phát trong từng quý và từng năm đã phát huy tác dụng tích cực trong
việc điều tiết lạm phát. Ngân hàng tăng cường kiểm soát các lãi suất, duy trì lãi
suất ở mức hợp lý để giảm mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường nhằm thúc
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh từ đó tăng cung hàng hóa, dịch vụ. Ngày
03/03/2011 Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành thông tư số 02/TT-NHNN
quy định trần lãi suất huy động VND của các tổ chức tín dụng là 14% nhàm thu
hút khối lượng tiền mặt trong lưu thông góp phần kiềm chế lạm phát. Từ tháng
9/2011 đến tháng 6/2013 NHNN đã 8 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động
tiền gửi VND từ đó làm cho lãi suất cho vay giảm đáng kể. Lãi suất cho vay giảm
nhanh từ 18,2%, năm 2011xuống 15,4% năm 2012 và 10,5% năm 2013, năm 2014
lãi suất là 7-8%, năm 2015 là 7,7 - 9%, năm 2016 8-9%.
Kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng, giới hạn tổng phương tiện thanh toán tăng
ở mức hợp lý nhằm điều tiết lượng cung tiền, ngăn chặn lạm phát gia tang.Kiểm
soát tỷ giá, hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhằm khuyến khích xuất khẩu, tăng dự
trữ ngoại hối.Kiểm soát hoạt động của thị trường vàng nhằm hạn chế tiến tới xóa
bỏ hiện tượng đầu cơ, huy động nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tăng cung
hàng hóa và hạn chế nhập khẩu vàng.
 Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố
gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách

24



Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp
lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính
phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và kiên quyết cắt bỏ chi phí các công trình
đầu tư kém hiệu quả.
Tăng cường kiểm tra giám sát thu thuế, chống thất thu thuế, giảm bội chi ngân
sách, giảm chi phí tối đa cho các hội nghị hội thảo,…
 Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực,
thực phẩm
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới,
đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở
rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng
nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát,
giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
 Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân
bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có
trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Áp dụng tỷ giá linh hoạt,đảm bảo đủ vốn mua ngoại tệ cho các DN làm hàng
xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu,…
 Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Trong khi tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở
các cơ quan, đơn vị, chính phủ đã yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi
tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá
thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm

tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm

25


×