Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.55 MB, 163 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ TƯ PHÁP
<small>Hà Nội, 22/11/2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO CÁP KHOA ¬
<small>“HỒN THIỆN PHAP LUAT THUONG MẠI TRONG BOI CANH CHUYEN DOI SOO VIET NAM ”</small>
<small>Ha Nội, ngày 22 thang 11 nam 2022</small>
<small>Chủ trì: PGS.TS Nguyễn Thi Nga và TS Trần Thi Bảo Anh</small>
<small>Thu ky: ThS. Vũ Thi Hoa Nhu</small>
<small>Thoi gian Noi dung Thực hiện</small>
8.15—8.30 | Đăng ký đại biểu Ban Tổ chức 8.30—8.35 | Giới thiệu đại biểu Ban Tổ chức
<small>PGS.TS Nguyễn Thị Nga</small>
<small>8.35 — 8.45 Phát biêu khai mac Hội thao Phó Trưởng khoa Pháp luật Kinhtê</small>
<small>Phiên I</small>
<small>TU CÁ AC CÁ sa SỬ Truong Đại học Luật Hà Nội</small>
<small>đôi sô và một sô giải pháp</small>
9.00 9.15 Báo cáo 2: Hoàn thiện pháp luật về thương | Bà Lê Thị Hà
<small>nh mại điện tử xuyên biên giới trong bôi cảnh | Cuc TMĐT va KTS, Bộ Công Thươngchuyên đôi sô</small>
<small>9.15 — 10.0 Thao luan10.00 — 10.15 Nghi giai lao</small>
<small>Phiên H</small>
<small>Báo cáo 4: Hoàn thiện pháp luật thương TS Nguyễn Ngọc Anh</small>
<small>10.15 — 10.30 | mại trong việc điêu chỉnh hoạt động cua : : mm...</small>
<small>» ly k : Truong Đại học Luật Hà Nội</small>
<small>các nen tang so trung gian</small>
<small>Bao cao 5: Tac dong cua Cach mang cong ThS Phan Vũ</small>
<small>10.30 -— 10.45 | nghiệp lân thứ tư đên hoạt động giải quyêt | Vu pháp luật dân sự- kinh tế, Bộ Tưtranh châp thương mại pháp</small>
<small>Báo cáo 6: Hoàn thiện pháp luật vê hoạt. ThS. Lê Ngọc Anh</small>
<small>10.45 — II.00_ | động thương mại điện tử trên mạng xã hội ` là aL LTS ATA</small>
<small>aa Truong Dai hoc Luật Ha Nội</small>
<small>tại Việt Nam</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>MỤC LỤC</small>
1. THUC TRẠNG PHAP LUAT DOANH NGHIỆP VIỆTNAM_ TRONG BOI CANH CHUYEN DOI SỐ VÀ MOT SỐ GIẢI PHÁP...---c<<<5- 5 TS. Nguyễn Như Chính
2. HỒN THIỆN PHAP LUAT THƯƠNG MẠI TRONG VIỆC DIEU CHINH
HOẠT DONG CUA CÁC NEN TANG SỐ TRUNG GIAN...---2- 555255: l6 TS. Nguyên Ngoc Anh
3. HOAN THIEN PHAP LUAT VE GIAO KET VA THUC HIEN HOP DONG MUA BAN HANG HOA TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIEN NAY...-.--- 30 ThS. Cao Thanh Huyén
4. HOAN THIEN PHAP LUAT VE LOGISTICS TRONG BOI CANH CHUYEN ThS. Nguyên Đức Anh
5. HOÀN THIEN PHÁP LUAT HƯỚNG TỚI THƯƠNG MAI KHONG GIẦY TO TRONG BOI CẢNH CHUYEN ĐÔI SO TẠI VIỆT NAM...--- 5 25cz5ccce¿ 71
<small>ThS Vii Thi Hoà Như</small>
6. TÁC DONG CUA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LÀN THỨ TƯ DEN HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYÉT TRANH CHAP THƯƠNG MẠẠI...-- 5-5 + 5s+c+c+x+£vzxei 85
<small>ThS. Phan Vũ</small>
7. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VE HOẠT DONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TREN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIET NAM...-- ¿2 ++©k+EE+E++EzEtrEerkerxrrerrerxee 102
<small>Ths. Lê Ngọc Anh : :</small>
<small>8. HOÀN THIEN PHAP LUAT VE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TƯ XUYEN BIEN GIỚI</small>
TRONG BOI CANH CHUYEN ĐÔI SO...cssscssessessesssssessesessessesscssesecsessessesseseseeaes 124
<small>Lé Thi Ha</small>
9. GIẢI QUYET TRANH CHAP THUONG MAI BANG PHƯƠNG THỨC TRONG TAI TRUC TUYEN - NHUNG YEU CAU MOI DAT RA TRONG BOI CANH CHUYEN DOI SO TẠI VIỆT NAM..vecceccscsscsscssessessesssssessssessessesssssssesessessssnesseaeeees 137 ThS. Nguyén Khanh Linh
ThS. Duong Hiéu Phong
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">10. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VE XÚC TIEN THUONG MẠI TRONG BOI CANH CHUYEN DOI SO
ThS. Pham Thi Huyén
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG BOI CANH CHUYEN DOI SO VA MOT SO GIẢI PHÁP TS. Nguyén Như Chính!
Tom tat: Chuyén đôi số là cụm từ được nhắc đến bên cạnh các khái niệm <small>như điện toán dam mây, big data, blockchain, ... và được coi như một xu hướng</small>
tất yếu trong thời kỳ cách mạng số 4.0. Theo Microsoft, chuyên đổi số (Digital transformation) được hiểu là ứng dụng những tiễn bộ về công nghệ số như điện toán đám mây (cloud), dữ liệu lớn (Big data), ... vào mọi hoạt động cua tô chức, doanh nghiệp nhằm đưa lại hiệu suất cao, thúc day phát triển doanh thu và thương
dẫn thi hành được ban hành, đáp ứng phần nào đòi hỏi của quá trình chun đơi số. Trong khn khổ của chun đề hội thảo, chúng tôi đề cập tới các thành công đã có pháp luật doanh nghiệp trong q trình chuyền đổi số, một số hạn chế và từ đó đề xuất một vài ý tưởng.
Từ khóa: Pháp luật doanh nghiệp, chuyển đôi số, cơ hội, thách thức.
1. Những thành công của pháp luật doanh nghiệp trong bối cảnh
chuyển đổi số hiện nay
Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm
2015, pho biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyền đôi số bắt đầu được nhắc đến
nhiều vào khoảng năm 2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyên đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” vào ngày
03/6/2020. Chương trình dé ra mục tiêu đến năm 2025 phát triển Chính phủ số,
nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động với 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di
<small>: Giang viên Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">động; 90% hồ sơ công viéc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công viéc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ cơng
việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nên tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở đữ liệu quốc gia về dân cư, đất
đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính, bảo hiểm được hồn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở dit liệu của các co quan nhà nước dé cung cấp
dịch vụ cơng kip thời, một lần khai báo, trọn vịng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội...
Trong bối cảnh đó, Luật doanh nghiệp năm 2020 được ban hành ngày 17/06/2020 và có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2021, ngoài những quy định sửa đồi
được đánh giá cao, mang nhiều tích cực, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp như bỏ quy định về thông báo mẫu dấu của doanh nghiệp trước khi
sử dụng, thêm đối tượng không được thành lập doanh nghiệp, rút ngăn thời gian thông báo trước khi tạm ngừng kinh doanh, bổ sung hồ sơ đăng ký..., phải ké đến một số thay đổi quan trọng, được đánh giá đáp ứng được một phần nhu cầu của quá trình chuyền đổi số như sau:
Thứ nhất, xây dựng được hệ thơng đữ liệu lớn về doanh nghiệp tồn quốc thông qua cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp
Dé có được thành cơng của cơng thơng tin nay, cần phải thay được thay đổi tư duy trong quy định của Luật Doanh nghiệp, nỗ lực không ngừng của Bộ Kế
đổi số trong quá trình cải cách thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Điều 14 Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định Doanh nghiệp không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhằm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký
trong phạm vi đoàn quốc được áp dụng ké từ ngày 01 thang 01 năm 201 1Ý. Trước
đó, sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố tự xây dựng các phương án rà soát
<small>* Sau khi hợp nhất Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hịa Bình) vào tháng</small>
<small>11/2008, Hà Nội mở rộng có khoảng trên 600 doanh nghiệp bị trùng tên đang đồng thời hoạt động. Nguồn:</small>
<small> truy cập 01/11/2022</small>
<small>6</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">về tên doanh nghiệp, trước khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Năm 2010, chỉ có cơng thông tin doanh nghiệp và đầu tư được hỗ trợ bởi Chương trình Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa GTZ kết nối được đữ liệu doanh nghiệp của
9 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (trong đó khơng có Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh)”. Sau khi có quy định của Nghị định 43/2010/NĐ-CP, dé thực hiện
được quy định đơn giản về tên doanh nghiệp, công thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp được xây dựng, kết nối tất cả các tỉnh thành trong toàn quốc tại tên
miền chỉ kiêm sốt về tên doanh nghiệp, cơng thơng tin cịn cung cấp đầy đủ thơng tin về đăng ký doanh nghiệp, chuẩn hóa dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp và từ đó có các báo cáo chính xác về số lượng doanh nghiệp mới đăng ký, loại hình doanh nghiệp, vơn đầu tư... Qua các số liệu như vậy, ứng dụng Big data có thể phân tích, chỉ ra được từ mức vốn khởi nghiệp khi đăng ký của các nhà đầu tư, loại hình doanh nghiệp “u thích” được lựa chọn... qua đó cung cấp các thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý nhà nước dự báo nhu cầu, trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về doanh nghiệp.
Thir hai, quy định cu thể trình tự, thủ tục đăng kí doanh nghiệp qua mạng thơng tin điện tử”
Đây là kết quả rõ ràng nhất cho quá trình chuyên đổi số từ việc nộp hồ sơ bản giấy, trực tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh tới số hóa các giấy tờ cũng như thủ tục thực hiện trực tuyến trên mạng internet thông qua công thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn sử dụng chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh dé đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử; các tài khoản đăng ký kinh doanh là tài khoản được tạo bởi Hệ thông thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cấp cho cá nhân để thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử. Cá nhân được cấp tài khoản đăng ký kinh doanh chịu trách
<small>° Nguyễn Như Chính (2010), Cải cách thủ tục gia nhập thị trường góp phần đảm bảo mơi trường kinh doanh ở</small>
<small>Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 11/2010.</small>
<small>° Điều 26 Luật Doanh nghiệp 2020</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nhiệm trước pháp luật về việc đăng ký dé được cấp và việc sử dụng tài khoản đăng
ký kinh doanh để đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử.
Việc đăng ký kinh doanh qua mạng đã được triển khai thực hiện khi nghị
định 78/2015/NĐ-CP có hiệu lực, theo quy định tại Điều 38 Nghị định
78/2015/NĐ-CP hướng dẫn trình tự thực hiện đăng ký doanh nghiệp sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh, sau khi nhận được thông báo về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, người đại điện theo pháp luật nộp một bộ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bằng bản giấy kèm theo Giấy biên nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đến Phòng Đăng ký kinh doanh.
Người đại diện theo pháp luật có thé nộp trực tiếp hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp bằng bản giấy và Giấy biên nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng <small>điện tử tại Phòng Đăng ký kinh doanh hoặc nộp qua đường bưu điện. Sau khi nhận</small>
được hồ sơ bằng bản giấy, Phòng Đăng ký kinh doanh đối chiếu đầu mục hồ sơ với đầu mục hồ sơ doanh nghiệp đã gửi qua mạng điện tử và trao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp nếu nội dung đối chiếu thống nhất. Nếu quá thời hạn 30 ngày, ké từ ngày gửi thông báo về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà Phịng Đăng ký kinh doanh khơng nhận được hồ sơ băng bản giấy thì hỗ sơ đăng ký điện tử của doanh nghiệp khơng cịn hiệu lực.
Tuy nhiên, từ ngày 11/01/2021, theo Điều 45 Nghị định 01/2021/NĐ-CP, sau khi hoàn thành việc gửi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử, doanh nghiệp sẽ nhận được Giấy biên nhận hỗ sơ đăng ky. Phòng Đăng ký kinh doanh cấp đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp trong trường hợp hồ sơ đăng ký đủ điều kiện. Doanh nghiệp không phải thực hiện nộp thêm 01 bộ hỗ sơ bằng bản giấy đến Phòng Đăng ký kinh doanh nữa. Quy định này đã làm đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện cho việc đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử bằng tài khoản đăng ký kinh doanh được thuận tiện và nhanh chóng hơn, mang tính chuyền đổi số rõ ràng hon.
Tint ba, số hóa các thủ tục hành chính liên quan tới doanh nghiệp hoạt động
<small>trên thi trường</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Khơng những cụ thể hóa thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua mạng Internet mà pháp luật doanh nghiệp còn đổi mới các thủ tục có liên quan theo hướng chuyên đổi số. Những thủ tục như thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, thay
đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hoạt động chỉ
nhánh, văn phịng đại diện, thơng báo địa điểm kinh doanh, thơng báo cham dứt chi nhánh, văn phịng đại diện, địa điểm kinh doanh, thông báo tài khoản ngân hang, cập nhật ngành nghé, thơng tin kế tốn, tạm ngừng kinh doanh, giải thé doanh nghiệp, thay đổi vốn điều lệ và ty lệ vốn góp, thay đổi nội dung đăng ky thuế qua mạng điện tử, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, tra cứu thông tin doanh nghiệp, công bố đăng ký doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp ma không cần phải đến trực tiếp phòng đăng ký kinh doanh của Sở kế hoạch và đầu tư của mỗi tỉnh thành.
Thứ tư, bước đầu thực hiện liên thông thủ tục hành chính của các cơ quan có
<small>liên quan trong q trình thực hiện thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp.Mục đích của việc liên thơng thủ tục giữa các cơ quan quản lý Nhà nước</small>
nhằm giúp các doanh nghiệp có thể giảm bớt thủ tục hành chính cần thực hiện, giảm khối lượng thông tin phải kê khai, giảm số lượng cơ quan nhà nước cần tiếp xúc. Doanh nghiệp sẽ chỉ can nộp hồ sơ kê khai các thông tin tại cơ quan đăng ký kinh doanh, thay vì nộp hồ sơ tại nhiều cơ quan như hiện nay như cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý nhà nước về lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội, cơ quan thuế. Khi thực hiện liên thông giữa các cơ quan vẫn đảm bảo được mục tiêu quản lý của từng ngành. Việc áp dụng chuyền đổi số sẽ lược bỏ những thông tin bị trùng lặp và tập trung tích hợp các thủ tục có sự tương đồng với nhau giữa các ngành, vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Giảm bớt chi phí về thời gian, nhân lực tiếp nhận, xử lý hồ sơ thơng qua việc tích hợp, liên thơng hoặc cơ chế một cửa, chia sẻ thông tin qua mạng
<small>điện tử giữa các cơ quan.</small>
Với yêu cầu, mục tiêu đó, Nghị định 122/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2020 của Chính Phủ quy định về phối hợp, liên thông thủ tục đăng ký thành
<small>9</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>lập doanh nghiệp, chi nhánh, văn phịng đại diện, khai trình việc sử dụng lao động,</small> cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, đăng ký sử dụng hóa đơn của doanh <small>nghiệp đã được ban hành.</small>
<small>Khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, khai</small> trình sử dụng lao động, cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, đăng ký sử dụng hóa đơn doanh nghiệp... Cơ sở dữ liệu đăng ký kinh doanh sẽ liên kết với trang thông tin điện tử của Tổng cục thuế để thơng báo về tình trạng thuế của
doanh nghiệp; liên kết với cơ quan Bảo hiểm xã hội về thủ tục đăng ký bảo hiểm xã hội đồng thời với Sở Lao động, Thương binh và xã hội về đăng ký lao động... Như vậy, có thê thay hệ thong pháp luật doanh nghiệp đã có những quy định
phù hợp, đáp ứng đối với yêu cầu của chuyền đối số trong các vấn đề liên quan đến
doanh nghiệp. Việc chuyển đổi số giúp quá trình gia nhập thị trường của doanh nghiệp được đơn giản, rút ngắn thời gian, hướng đến một mục tiêu cao nhất là tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Từ khi có cơng thơng tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, với tập hop dir liệu toàn quốc về doanh nghiệp, đã phục vụ tốt hơn cho các cơ quan quản lý có liên quan cũng như nhà đầu tư tìm hiểu về thị trường.
2. Một số hạn chế của pháp luật doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Bên cạnh những mặt thành công, đạt được trong quá trình chuyển đổi số, pháp luật doanh nghiệp vẫn cịn một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, công thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp hoạt động chưa ôn định, cơ sở dữ liệu còn hạn chế, chưa cập nhật.
Q trình xây dựng, vận hành Cổng thơng tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là thành công phải ghi nhận, tuy nhiên thực tế Công thông tin thường xuyên gặp sự cố, không truy cập được, thậm chí là thơng báo tạm dừng hoạt động dé nâng cấp hệ thống. Việc gặp sự cô, tạm dừng hoạt động thường xuyên gây ảnh hưởng lớn đến tô chức, cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện các thủ tục
<small>có liên quan qua mạng.</small>
Thêm vào đó, việc số hóa dữ liệu, đặc biệt là thơng tin của các doanh nghiệp cũ trước khi Công thông tin đi vào hoạt động cịn chậm thực hiện. Việc khơng SỐ
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>hóa các thơng tin của doanh nghiệp cũ, đang hoạt động đã gây khó khăn cho cá</small> nhân, tơ chức có nhu cau tìm kiếm thơng tin về các doanh nghiệp này. Các tiện <small>ích như tra cứu, mua thông tin doanh nghiệp, các phương thức thanh tốn trực</small> tuyến ... tại Cổng thơng tin chưa được hồn thiện, cịn xảy ra lỗi gây khó khăn
cho tơ chức và cá nhân trong quá trình sử dụng.
Tứ hai, việc chuyển đôi số, cơ chế liên thông giữa các cơ quan trong quá <small>trình gia nhập thị trường của doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả.</small>
Mặc dù đã có quy định của Nghị định 122/2020/NĐ-CP của Chính Phủ về phối hợp, liên thông thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, chi nhánh, văn phịng đại diện, khai trình việc sử dụng lao động, cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã
<small>hội, đăng ký sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc</small> chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, nơi tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả. Hiện tại ngoài
Hiện nay, nhiều địa phương chưa có cơ chế phối hợp dé tích hợp tất cả các
<small>công đoạn vào một bước, do vậy việc khai sinh doanh nghiệp không phải chỉ trong</small>
“03 ngày làm việc” như quy định tại Điều 26 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Các
thủ tục này được đánh giá là khá đơn giản, tuy nhiên các nhà đầu tư vẫn e ngại vì
phải liên hệ với nhiều cơ quan, thực hiện nhiều thủ tục. Với tâm lý muốn nhanh gọn, tránh rườm rà, họ thường lựa chọn th dịch vụ thơng qua hình thức ủy quyền cho bên thứ ba là cá nhân hay tổ chức đảm bảo làm tat cả các bước này với chi phí từ 2 triệu đến 5 triệu đồng một bộ hồ sơ (khơng kê các chi phí phải chi trả theo quy định về đăng ký doanh nghiệp). Như vậy mục đích chuyên đổi số, cải cách thủ tục hành chính để đem đến sự nhanh gọn và tiết kiệm cho doanh nghiệp chưa
<small>thực sự đạt được.</small>
<small>Thứ ba, trình độ ứng dụng cơng nghệ thơng tin và khả năng xử lý thơng tin</small>
của người dân cịn hạn chế, thói quen sử dụng dịch vụ hành chính điện tử chưa phổ biến gây khó khăn cho q trình chun đổi số.
Cá nhân, tơ chức trong q trình nhập dữ liệu vào hệ thống cịn sai sót mặc dù hỗ sơ bản giấy đã chính xác, làm cho thủ tục đăng ký tưởng nhanh gọn nhưng
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">thực tế lại kéo dài. Khi hoàn thành việc nộp hồ sơ qua mạng, người thành lập
doanh nghiệp đợi 03 ngày làm việc dé có thơng báo hồ sơ hợp lệ hay phải chỉnh sửa, bố sung. Nếu phải chỉnh sửa, b6 sung hồ sơ, người thành lập doanh nghiệp
phải làm theo yêu cầu chỉnh sửa của chuyên viên phụ trách. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, yêu cầu của chuyên viên không đầy đủ, làm cho người thành lập
doanh nghiệp phải bơ sung nhiều lần mới có thé hồn thiện hồ sơ thành lập doanh nghiệp và được chấp thuận.
3. Một số giải pháp thực hiện chuyển đổi số đối với pháp luật doanh nghiệp
Đề có thể đạt được những mục tiêu đã đề ra trong Chương trình Chuyển đôi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, chúng tôi đề xuất một vai giải pháp đối với pháp luật doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, phát trién hệ thơng trực tuyến hiện dai hơn, tích hợp nhiều thủ
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp của nước ta chưa tích hợp được nhiều thủ tục hành chính khác nhau. Hiện nay, đã triển khai chuyển đơi SỐ trong từng cơ quan, đơn vị, các thủ tục về thuế, bảo hiểm cũng đã bước đầu thực hiện qua hệ thống điện tử. Tuy nhiên nếu khơng có sự tích hợp, vẫn thực hiện
<small>các bước trong thủ tục hành chính một cách độc lập thì sẽ khơng đảm bảo được</small>
mục đích và tính hữu ích vốn có của việc đăng ký kinh doanh qua mạng. Ở một số quốc gia như Singapore, Hàn Quốc, ... các nhà đầu tư chỉ cần truy cập một trang thông tin duy nhất đề thực hiện mọi thao tác cho việc khai sinh doanh nghiệp, kế cả thủ tục cấp giấy phép kinh doanh. Chúng ta có thé học tập kinh nghiệm đó để hướng tới tích hợp các chức năng nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, đăng ký bảo hiểm xã hội, tài khoản ngân hang, lao động... ngay trên cong thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, việc làm này khơng phải là q khó, quan trọng là đảm bảo được việc phân cấp, chia sẻ thông tin cho các cơ quan, đơn vị liên quan và sự thông suốt của hệ thống,
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Thứ hai, đây mạnh số hóa, cập nhật dữ liệu, điều tra thống kê trên cơ sở dtr liệu trọn vẹn của hệ thống dé có được những thơng tin chính xác về nhu cầu của tổ chức, cá nhân đối với pháp luật doanh nghiệp.
Cơ sở dit liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là nơi lưu giữ thơng tin’
<small>có giá trị pháp lý của các doanh nghiệp đã đăng ký thành lập, đây là một trong 6</small>
cơ sở đữ liệu quốc gia cần được ưu tiên triển khai trong xây dựng Chính phủ điện
tử. Tuy nhiên dữ liệu sẽ chỉ là những con số nếu như các cơ quan có liên quan
khơng tìm cách khai thác tối đa những thông tin này. Một cách đơn giản, việc phân tích dữ liệu lớn về loại hình doanh nghiệp sẽ giúp các nhà làm luật thấy được loại hình doanh nghiệp khơng được các nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn, từ đó có thê có những giải pháp để hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó. Hoặc với quy mơ của doanh nghiệp dân doanh của Việt Nam, chúng ta cần có những quy định đặc thù đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ...
Thứ ba, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị ở địa phương
<small>với nhau và giữa cơ quan địa phương với các cơ quan trung ương trong việc thực</small>
hiện pháp luật về bảo đảm thống nhất, phục vu cho quá trình chuyền đổi số. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị đã trở thành yêu cầu cơ bản dé tạo nên một hệ thống quản lý thống nhất, hiệu quả. Khi có cơ chế phối hợp, các cơ quan sẽ cùng nhau giải quyết nhanh chóng các thủ tục, giúp doanh nghiệp rút ngắn được thời gian thực hiện thủ tục hành chính, tiết kiệm được chỉ phí. Vì đặc thù mỗi một địa phương có những đặc thù riêng trong văn hóa quản lý, do đó, cần phải có quy chế phối hợp riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
<small>của các cơ quan, đơn vi có liên quan.</small>
Nội dung quy chế phải xác định rõ cách thức phối hợp, trách nhiệm phối
hợp của các cơ quan, đơn vị liên quan. Đối với nội dung xin ý kiến, tham van của
cơ quan địa phương đối với cơ quan Trung ương cần quy định rõ thời gian trả lời, hướng dẫn dé địa phương cũng như nha dau tư chủ động thực hiện các bước tiếp theo. Có thể thấy, trong việc phối hợp, quan trọng nhất là nhận thức, quan điểm
<small>’ Theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục Cơ sở dữ liệu quốc</small>
<small>gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử.</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">của các cơ quan có liên quan phải đồng nhất, do đó trách nhiệm của người đứng đầu trong điều hành, chi đạo, quán triệt tinh thần phối hợp cần phải được nêu cao.
Hiện nay, với xu hướng chuyên đổi số, xây dựng Chính Phủ điện tử, chính quyền
điện tử, việc phối hợp giữa các cơ quan cũng cần dựa trên ứng dụng cơng nghệ
thơng tin dé tối ưu hóa về mặt thời gian.
Thi tu, tang cường công tác tuyên truyền, phố biến, tích cực dao tạo, tập huấn
nâng cao hiểu biết về chuyền đổi số cho cán bộ hành chính cũng như người dân. Hiện nay, với sức mạnh truyền tải thơng tin nhanh chóng qua các phương tiện truyền thông, công tác phô biến, tuyên truyền pháp luật không cịn q khó khăn như các giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, đôi với hoạt động chuyển đôi số, dé có thé đạt được hiệu quả, người dân cũng cần phải phối hợp với cơ quan nhà nước, nâng cao trình độ hiểu biết về ứng dụng cơng nghệ thơng tin. Quá trình người dân sử dụng các ứng dụng, áp dụng thực tế những ứng dụng của chuyền đổi số, chỉ ra
những bat cập, chưa hiệu quả của hệ thống sẽ giúp cho q trình chun đổi số
nói chung, liên quan tới pháp luật doanh nghiệp nói riêng được dan hồn thiện và
<small>đi vào cuộc sơng./.</small>
<small>Danh mục tài liệu tham khảo</small>
<small>1. Nghị định 122/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2020 của Chính Phu</small> quy định về phối hợp, liên thông thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, chỉ
nhánh, văn phịng đại diện, khai trình việc sử dụng lao động, cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, đăng ký sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp;
2. Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục Cơ sở dữ liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển
<small>Chính phủ điện tử.</small>
3. Nguyễn Như Chính (2010), Cải cách thủ tục gia nhập thị trường góp phần đảm bảo mơi trường kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 11/2010.
4. Chương trình Chuyên đổi số quốc gia đến năm 2030.
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>Nguôn: truy cap 16/11/2022</small>
<small>5. truy cap01/11/2022 truy cap 16/11/2022</small>
<small>6. https:/(www.microsoft.com/en-us/industry/digital-transformation truycập 10/11/2022 truy cập 16/11/2022</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI TRONG VIỆC
DIEU CHỈNH HOẠT DONG CUA CAC NEN TANG SO TRUNG GIAN TS. Nguyén Ngoc Anh Khoa Pháp luật Kinh tế, Ti rường Đại học Luật Hà Nội
<small>Email: </small> Tóm tat: Bài viết nêu những đặc điểm nhận diện nên tảng số trung gian trong lĩnh vực hoạt động thương mại. Đơng thời bài viét cũng phân tích thực trạng thực thi
pháp luật thương mại trong việc điều chỉnh hoạt động của các nên tảng số trung
gian đó. Tác giả kiến nghị một số dé xuất nhằm hoàn thiện pháp luật thương mai,
góp phân điều chỉnh hoạt động của các nên tảng số trung gian hiệu quả hơn. Từ khoá: nên tảng số trung gian, pháp luật thương mại.
1. Đặt vẫn đề
Thực tế, hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội, nền tảng thiết bị di
động ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, pháp luật thương mại và pháp luật giao dịch điện tử còn thiếu quy định về quản lý và chế tài đối với các hành vi vi phạm trong
hoạt động này”. Nền tang số là phương tiện, là môi trường dé thực hiện các giao
Sự xuất hiện nền tảng số đã làm bùng nỗ các giao dịch thương mại điện tử trên
Báo cáo số 442/BC-CP ngày 1/10/2020, tại mục II.9.2.1 phần B ghi nhận:
mơ hình hoạt động thương mại điện tử đã quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP (một số mơ hình chỉ là nơi trung gian dẫn người mua tim kiếm hàng hoá, dịch vụ sau khi truy cập từ một website khác và nhận hoa hong với mỗi giao dịch thành cơng)... Cần có các quy định pháp lý điêu chỉnh các mơ hình trên để dam bảo điêu chỉnh mơ hình thương mại điện tử lành mạnh, đảm bảo quyên lợi người tiêu dùng và tránh thất thu thuế với khoản lợi nhuận phát sinh”. Điều đó cho thay pháp luật
<small>Š Báo cáo số 142/BC-BTTTT ngày 30/9/2022 Báo cáo Tổng kết việc thi hành Luật Giao dịch điện tử, trang 23.</small>
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">về thương mại điều tử vẫn cịn những khoảng trơng pháp lý trong việc điều chỉnh
nên tảng số trung gian kết nối các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Đã có ý kiến cho răng nên tảng số được nhận định là mơ hình giao tiếp mới.
Khi chun đổi số, các nền tảng số (digital platform) đóng vai trị quan trong, hỗ trợ tương tác với người dùng ở nhiều cấp độ khác nhau. Khi đó, khái niệm “người
trung gian” trong Luật Giao dịch điện tử đã thay đơi. Đó không chi là co quan, tổ chức mà là các nền tảng số như Grab, Airbnb, LinkedIn v.v... Vi vậy, Luật Giao dịch điện tử cần đặt ra nội dung sửa đôi liên quan đến việc xem xét về trách nhiệm
của các bên tham gia giao dich theo mơ hình mới”.
Tóm lại, nền tảng số là khái niệm pháp lý mới, hiện tượng pháp lý mới cần
được nghiên cứu dé hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh.
2. Nhận diện nền tảng số trung gian 2.1. Quan niệm về nên tảng số
Mặc dù chưa có quan điểm thống nhất về nội hàm khái niệm nền tảng số
trung gian, tuy nhiên, thuật ngữ nên tảng số đã được sử dụng trong một số văn bản pháp luật của nước ta. Quyết định số 942/QĐ-TTg “Phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 — 2025, định hướng đến năm 2030” hay Quyết định số 186/QD-BTTTT “Phê duyệt chương trình thúc day phát triển và sử dụng nên tảng số quốc gia phục vụ chuyên đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số” đều có nhắc đến thuật ngữ “nên tảng số”.
Một số quốc gia sử dụng thuật ngữ “nên tang số - digital platform” nhưng cũng có một số quốc gia sử dụng thuật ngữ “nền tảng trực tuyến — online platform”. Cụ thê:
- Trong khung khổ pháp lý có hiệu lực hiện nay của Châu Âu, chưa có một định nghĩa rõ rang và có hiệu lực pháp lý dé làm rõ thé nào là "Nền tảng số" hay "Nền tảng trực tuyến". Tuy nhiên, các nên tảng trực tuyến mang tính chất trung gian, tạo môi trường dé các bên tương tác, giao dịch hàng hóa, dịch vụ đang được
<small>? Báo cáo số 142/BC-BTTTT ngày 30/9/2022 Báo cáo Tổng kết việc thi hành Luật Giao dịch điện tử, trang 44.17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">điều chỉnh bởi Quy định (EU)2019/1150 về thúc đây công bằng, minh bạch dành
cho người sử dụng doanh nghiệp của các dịch vụ trung gian trực tuyên. Quy định (EU) 2019/1150 ban hành bởi Nghị viện và Hội đồng Châu Âu ngày 20/6/2019'9. - Tại Dự thảo Nghị định Hoàng gia về quản lý nền tảng số (sắp được thơng qua), Chính phủ Thái Lan quy định: "Dich vụ nên tảng kỹ thuật số" có nghĩa là
sự cung cấp các dich vụ nên tảng số dé phục vụ như một trung gian có khơng gian dé kết noi người dùng doanh nghiệp với người tiêu dùng trên nên tảng kỹ thuật số sử dụng mạng máy tỉnh."""
- Indonesia khơng có định nghĩa hay sử dụng thuật ngữ "nền tảng số" hay "nền tảng trực tuyến" trong văn bản pháp luật của mình. Tuy nhiên, các nền tảng số được hiểu là đang được điều chỉnh bởi Nghị định số 71 của Chính phủ
Indonesia (được thông qua năm 2019) và Quy định số 05 của Bộ Thơng tin truyền
thơng Indonesia. Theo đó, tơ chức, doanh nghiệp vận hành nên tảng trực tuyên có
thê được coi là "Người vận hành Hệ thống Điện tử" trong phạm vi tư nhân |”. <small>Dự thảo Luật Giao dịch điện tử (Dự thảo 3) có quy định tại khoản 19, khoản</small> 20 Điều 3: “Nền tảng số trung gian là hệ thong thông tin tao môi trường mang
cho phép các bên thực hiện giao dịch hoặc cung cấp, sử dụng sản phẩm, dịch vụ.
Chủ quản nên tảng số trung gian độc lập với các bên thực hiện giao dịch”.
Như vậy, có thê hiểu nền tảng số trung gian là mơi trường mà tại đó các quan hệ pháp luật được xác lập. Chủ thể sở hữu nên tảng số trung gian độc lập
<small>với các bên thực hiện giao dịch.</small>
Phạm vi nghiên cứu của bài viết chỉ trong lĩnh vực thương mại, liên quan đến nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại. Nén tang số trung gian trong lĩnh vực thương mại là môi trường để các bên xác lập quan hệ pháp luật thương mại với chủ sở hữu nên tảng số trung gian nhằm tìm kiếm đổi tác, trao đổi giao dịch trên nên tảng số trung gian đó.
<small>'° Báo cáo số 146/BC-BTTTT ngày 30/9/2022, Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về Luật Giao dịch điện</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">2.2. Một số đặc điểm pháp lý của nên tảng số trung gian trong lĩnh vực
<small>thương mại</small>
Thứ nhất, chủ thé sở hữu nên tang số trung gian xác lập quan hệ môi giới
<small>với từng bên (bên mua và bên bán). Quan hệ môi giới thương mại được xác lập</small> giữa bên mua với chủ sở hữu nền tảng số trung gian, giữa bên bán với chủ sở hữu nên tảng số trung gian. Giữa bên mua và bên bán xác lập quan hệ mua bán hàng hoá, tài sản, cung ứng dịch vụ. Cách môi giới của nền tảng số trung gian không
theo phương thức truyền thống ma mang tính hiện đại — sử dụng việc vận hành không gian ảo là nơi người mua và người bán tìm tiếm đối tác phù hợp với nhu cầu mong muốn của mình. Chủ sở hữu nên tảng số trung gian chỉ hỗ trợ cho bên
bán và bên mua trong việc gặp gỡ, trao đôi với nhau. Chủ sở hữu nén tang số trung <small>gian khơng nhân danh chính mình hay nhân danh cho một trong hai bên (bên mua</small>
hoặc bên bán) dé xác lập, thực hiện giao dịch. Trong quan hệ môi giới thương mại nay, chủ sở hữu nén tang trung gian nhân danh chính minh va vì lợi ích cau mình. Chủ sở hữu nên tang số trung gian có tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với bên bán và bên mua. Họ đang thực hiện công việc dé hưởng thù lao chứ không phải là người làm công ăn lương. Chủ sở hữu nên tảng số trung gian có mục đích lợi nhuận rất rõ ràng, mang tính nghề nghiệp. Thường thì bên bán sẽ là chủ thé có nghĩa vụ trả thù lao cho chủ sở hữu nén tang số trung gian. Phương thức thanh
<small>toán do các bên thoả thuận</small>
Thứ hai, nên tảng số trung gian hoạt động với phạm vi xuyên biên giới. Trong các hoạt động môi giới thương mại tryén thống, mua bán truyền thống, sự tồn tại ranh giới giữa các quốc gia tương đối rõ ràng, cịn trong hoạt động mơi giới của nền tảng số trung gian, khái niệm biên giới dần được xoá mờ. Bên bán, bên mua, chủ sở hữu nền tang số có thé ở bat kỳ quốc gia hay vùng lãnh thé nao. Họ không gặp gỡ trực tiếp mà gặp nhau trong thị trường ảo, ở đó không tôn tại ranh giới lãnh thô.
Thứ ba, nên tảng số trung gian là yếu tô thuộc mặt khách quan của hành vi thương mại điện tử, chỉ phối tới nội dung của quan hệ pháp luật thương mại điện
<small>tứ, cụ thê là quyên và nghĩa vụ cua các bên liên quan. Hoạt động mua ban, cung19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">ứng dịch vụ giữa bên bán và bên mua được xác lập trong môi trường nên tảng số
trung gian. Nền tảng số trung gian là không gian ảo, nơi người mua và người bán
tìm kiếm đối tác phù hợp với nhu cầu mong muốn của mình. Tiện ích mà nên tảng
số trung gian mang lại đóng vai trị hỗ trợ cho bên mua, bên bán gặp gỡ, trao đôi <small>với nhau.</small>
Dé nhận diện một hành vi có vi phạm pháp luật không, cần dựa vào bốn mặt cau thành: mặt chủ thé, mặt khách thé, mặt chủ quan, mặt khách quan. Như vậy, nền tảng số trung gian là một trong các yếu tố cần thiết phải được suy xét đến trong việc đánh giá tính hợp pháp của hành vi mà các chủ thể liên quan thực hiện. Nền tảng số trung gian là yếu t6 đặc trưng tạo ra sự khác biệt giữa quan hệ pháp
luật được xác lập trên nền tảng số trung gian với quan hệ pháp luật truyền thống. Cụ thể, quan hệ môi giới trên nền tảng số trung gian khác với quan hệ môi giới
truyền thống, quan hệ mua bán trên nền tảng số trung gian khác với quan hệ mua bán truyền thống. Sự khác biệt đó dẫn đến yếu tơ nội dung (bao gồm quyên va nghĩa vụ của các chủ thé) trong quan hệ pháp luật có sự khác nhau.
Thứ tư, chủ sở hữu nên tang số trung gian luôn độc lập trong các quan hệ pháp luật giữa họ với bên mua, bên bán. Các chủ sở hữu nền tảng trung gian muốn nên tảng trung gian đóng vai trị khơng thể thiếu trong hoạt động mua bán hang hoá, tài sản, cung ứng dịch vụ giữa các bên. Hay nói cách khác, họ muốn việc sử dụng nền tảng của mình trở thành thói quen tiêu dùng và sự lựa chọn hàng đầu
<small>của bên mua, bên bán. Tuy nhiên, trên khía cạnh pháp lý, một trong những đặc</small>
điểm của hoạt động môi giới là bên môi giới không đóng vai trị quyết định chi phối với việc xác lập, thực hiện, thay đôi, chấm dứt quan hệ mua bán hàng hoá, tài sản, cung ứng dịch vụ giữa các bên được mơi giới. Theo đó, nên tảng sé trung gian chỉ nhằm thúc đây nhanh và hiệu quả hon cơ hội gặp gỡ giữa bên mua và bên bán, không ảnh hưởng quyết định đến điều kiện mua bán hàng hoá, tài sản, dịch vụ. Giá trị thanh toán tại hợp đồng mua bán hàng hoá, tài sản, dịch vụ do các bên quyết định và thanh toán trực tiếp cho nhau. Chủ sở hữu nền tảng số trung gian khơng kiểm sốt chất lượng hàng hố, tài sản, dịch vụ, không loại trừ bên mua và
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">bên bán tham gia vào nên tảng số trung gian (trừ những trường hợp không đủ tư
<small>cách pháp lý).</small>
Tính độc lập giữa chủ sở hữu nền tảng số trung gian với bên mua, bên ban phải thé hiện rõ ràng, khác với quan hệ lao động. Môi quan hệ giữa chủ sở hữu
nên tảng số trung gian với bên mua, bên bán không phải là quan hệ lao động hay
không thể tiềm an nội dung của quan hệ lao động cá nhân. Dé khang định mỗi quan hệ giữa các bên không phải là quan hệ lao động, cần đảm bảo một số dau
<small>hiệu sau:</small>
() Bên bán, bên mua (bên được mơi giới) có thể tự mình hoặc khơng tự minh thực hiện việc mua bán hàng hố, tài sản, dịch vụ (tức là có thé uy quyền
<small>cho người khác nhân danh bên được môi giới thực hiện việc mua bán hàng hoá,</small> tài sản, dịch vụ). Điều này thé hiện sự chủ động, bình đăng trong quan hệ trung
gian, không giống quan hệ giữa người sử dụng lao động với người lao động. Ví
<small>dụ trong hình thức vận tải Grab, Uber hoặc các hình thức tương tự, người lái xe</small>
không được phép uỷ quyền hay chuyển giao quyền và nghĩa vụ của mình cho
<small>người khác khi đã xác lập quan hệ với Uber, Grap. Theo đó, đây là hình thức pháp</small> lý để xác lập quan hệ giữa người có sức lao động với bên muốn thuê lao động”.
Đó là điểm mà Toa cơng ly Châu Âu đã xét tới dé đi đến kết luận rang dịch vụ ma Uber cung cấp là một dịch vụ liên quan đến vận tải chứ không phải là dịch vụ môi giới trên nền tang số.
(ii) Chủ sở hữu nên tang số trung gian chỉ chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của bên bán, bên mua, không kiểm tra, giám sát, quản lý điều hành đối với bên
<small>bán, bên mua. Ví dụ trong quan hệ với Grab, những người lái xe phải bật ứng</small>
dụng Grab để kết nối với khách hàng. Thông qua ứng dụng Grab sẽ hỗ trợ lái xe gần nhất và khách hàng kết nối với nhau. Khi chạy xe, Grab giám sát gián tiếp
<small>thông qua việc xác định vi trí và cung đường di của người lái xe theo định vi được</small>
thiết lập trên điện thoại di động. Bên cạnh đó, lái xe phải tuân thủ bộ quy tắc ứng
<small>xử do Grab đưa ra, nêu có hành vi vi phạm, tai xê có thê bi tạm khoá tài khoản</small>
<small>'3 Nguyễn Thanh Quý, Định Ngọc Ánh, Hoàng Quỳnh Trang (2018), Quan hệ lao động trong thời kỳ cách mạng</small>
<small>công nghiệp 4.0 từ thực tiên Grab, Dé tài nghiên cứu khoa học, Đại học Luật Hà Nội, trang 42.</small>
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">hoặc khoá vĩnh viễn tài khoản. Ngồi ra, tài xế cịn mặc đồng phục khi tham gia
cung ứng dịch vụ 4 Điều này đã thê hiện vị thế lệ thuộc của người lãi xe với
Grab. Đó là một trong những dấu hiệu cho thấy sự tiềm ân nội dung của quan hệ
<small>lao động cá nhân.</small>
(ii) Chủ sở hữu nền tảng số trung gian không đóng vai trị quyết định đến điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ hoàn toàn do bên bán và bên mua tự đặt ra. Chủ sở hữu nền tảng số trung gian không
tác động đến các yếu tô như giá, chất lượng về hàng hoá, dịch vụ.
<small>(iv) Hoạt động mua bán hang hoá, tài sản, cung ứng dịch vụ giữa bên bán</small>
và bên mua khơng liên quan gì đến ngành nghề đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu nền tảng trung gian hoặc khơng có mối liên hệ phục thuộc chặt chẽ với các hoạt động mang tính nghé nghiệp, thường xuyên của chủ sở hữu nền tảng số trung
3. Các quy định pháp luật thương mại điều chỉnh hoạt động của nền
tảng số trung gian
3.1. Cấu trúc hình thức và cầu trúc nội dung của pháp luật điều chỉnh hoạt động của nên tang số trung gian
Về cau trúc hình thức, pháp luật điều chỉnh hoạt động của nên tảng SỐ trung
gian gồm các nguôn sau: tập quán, tiền lệ, hợp đồng và văn bản quy phạm pháp luật. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được thừa nhận rộng rãi, được nha nước thừa nhận thành quy tắc bắt buộc chung đối với xã hội. Tiền lệ là phán quyết hay lời giải thích của các chủ thé có thâm qun khi giải quyết các vụ việc cụ thé được nhà nước thừa nhận làm khuôn mẫu dé trở thành căn cứ pháp ly cho việc xem xét, giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Hợp đồng giữa các chủ thể được xác lập trên tinh thần tự nguyện, bình đăng cũng được coi là một loại nguồn của pháp luật về nền tảng số trung gian. Trong đó, nhóm các quy định về hoạt động môi giới thương mại gồm: Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, các văn bản pháp luật chuyên ngành nếu hoạt động môi giới liên quan đến
<small>a Nguyễn Thanh Quy, Dinh Ngọc Anh, Hoang Quynh Trang (2018), Quan hệ lao động trong thời kỳ cách mang</small>
<small>công nghiệp 4.0 từ thực tiên Grab, Dé tài nghiên cứu khoa hoc, Dai học Luật Ha Nội, trang 44.</small>
<small>2D</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">lĩnh vực cu thé. Nhóm các quy định về hoạt động thương mại điện tử tập trung
chủ yếu ở Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về thương mại điện tử và các văn bản <small>liên quan khác.</small>
Về cau trúc nội dung, pháp luật về hoạt động của nền tang số trung gian gồm các nhóm quy định cơ bản sau đây: (1) Chủ thê tham gia trên nền tảng số trung gian; (2) Quyền và nghĩa vụ của bên mua, bên bán khi tham gia vào nền tảng số trung gian; (3) Quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp nền tang số; (4)
Quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp nên tảng số lớn; (5) Quan lý nhà nước đối với nền tang số.
3.2. Thực trạng thực thi pháp luật thương mại điều chỉnh hoạt động của nên tảng số trung gian
Thứ nhất, chưa có sự thống nhất giữa Luật Thương mại năm 2005 với văn bản pháp luật về giao dịch điện tử, pháp luật thương mại điện tử răng chủ sở hữu
nên tảng trung gian trong hoạt động thương mại bắt buộc phải có mục đích sinh <small>lợi không.</small>
<small>Trường hợp một thương nhân thực hiện hoạt động môi giới cho các bên</small>
tiễn hành giao dịch trên nền tảng số trung gian của mình nhưng khơng thu thù lao mơi giới trực tiếp thì có được nhận diện là hoạt động mơi giới Ví dụ facebook là mạng xã hội pho biến ở Việt Nam, hiện nay, trên giao diện facebook có mục
<small>marketplace (tạm dịch là chợ mua bán, là chợ ảo). Khi những chủ sở hữu tài khoản</small>
đăng thông tin về việc bán hàng trên tài khoản facebook cá nhân, có một số từ
<small>khố sẽ được máy chủ lập trình tự động nhận diện (ví dụ như: bán, mua, giá,</small>
sale...). Vì vậy, thơng tin về mặt hàng muốn bán của các chủ tài khoản facebook
<small>sẽ hiện trong nhóm marketplace (khơng gian chợ ảo). Nguoi dùng facbook có nhu</small>
cầu tìm kiếm mua hang hố có thé vào mục marketplace và dé dang so sánh, lựa chọn mặt hàng phù hợp với nhu cầu của mình, gần với địa điểm của mình. Điều đáng lưu ý, người bán khơng phải trả bất kỳ một khoản thù lao môi giới nào cho chủ sở hữu ứng dụng facebook. Theo khoản 15 Điều 1 của Nghị định số 85/2021/NĐ-CP, đây là hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại điện tử (cụ thê là sàn giao dịch thương mại điện tử), đồng thời cũng là nền tảng số trung gian.
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Tuy nhiên, theo Điều 150 Luật Thương mại năm 2005, đây không phải là hoạt
<small>động môi giới thương mại. Vậy trong thực hiện pháp luật, hoạt động trên chỉ chịu</small>
sự điều chỉnh của pháp luật về giao dịch điện tử, pháp luật thương mại điện tử mà
không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 về mơi giới thương
mại. Điều này có thé giảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền tang số trung
Thứ hai, cần xem xét lại quy định về diéu kiện giao dịch giữa bên bán được
môi giới với bên mua được môi giới trong nên tảng số trung gian, hiện nay theo
<small>quy định của pháp luật, đó phải là giao dịch thương mại.</small>
Căn cứ theo quy định tại Điều 150 Luật Thương mại năm 2005 '' khoản 2 Điều 25 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP'” thì các bên được mơi giới trên nền tang số trung gian cần xác lập quan hệ pháp luật thương mại. Nếu một thương nhân
thông qua nên tảng số trung gian của mình, kết nối cho tổ chức, cá nhân xác lập
<small>giao dịch dân sự thì đây không phải là hoạt động môi giới thương mại, cũng khôngphải là hoạt động sàn giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật hiện hành. Lý</small>
do: các bên được môi giới tiến hành hoạt động dân sự chứ khơng phải hoạt động thương mại. Theo đó, đây là hoạt động môi giới dân sự trong khi chủ thê sở hữu nên tảng SỐ trung gian thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận, mang tính nghề nghiệp thường xuyên. Những quy định trong dự thảo Luật Giao dịch điện tử sắp tới về nên tảng số cũng chưa đủ dé điều chỉnh van dé này.
Thứ ba, với những nên tảng số trung gian thực hiện hoạt động môi giới thương mại, Luật Thương mại năm 2005 còn bat cập trong quy định diéu kiện chủ thể đối với bên bán, bên mua tham gia nên tảng số trung gian.
Từ Điều 150 đến Điều 154 Luật Thương mại năm 2005 không quy định bắt
<small>buộc bên được môi giới là thương nhân. Theo đó, có thê hiêu, bên được mơi giới</small>
<small>'S Điều 150 Luật Thương mai năm 2005: “Môi giới thương mai là hoạt động thương mai, theo đó một thương nhân</small>
<small>làm trung gian (goi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới)</small>
<small>trong việc Hinh phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợpđồng môi giới”.</small>
<small>'* Khoản 2 Điều 25 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP: “Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là websife</small>
<small>thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiù lập để cung cấp môi trường cho các thương nhân, tô chức, cá</small>
<small>nhân khác tiễn hành hoạt động thương mại...</small>
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">trong nên tảng số trung gian có thê là thương nhân, có thể khơng phải là thương
nhân. Nhưng nếu căn cứ khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, định nghĩa
về các hoạt động trung gian thương mại (bao gồm mơi giới thương mại) thì bên
được mơi giới cũng phải là thương nhân'”. Tuy nhiên, nếu áp dụng khoản 11 Điều
3 Luật Thương mại năm 2005, có những bat hợp ly sau: (1) Mét ld, bên được môi
giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ mơi giới chứ khơng thực hiện dịch vụ này, do đó không bắt buộc ho là thương nhân; (2) Hai !à, nêu quan hệ môi giới
thương mại bắt buộc hai bên chủ thé là thương nhân thì quan hệ mơi giới giữa bên
<small>môi giới (thương nhân) với bên được môi giới (không phải là thương nhân) sẽ</small>
không phải là hoạt động môi giới thương mại. Trong trường hop này, kế cả khi bên được môi giới (không phải là thương nhân) thực hiện quyên lựa chọn luật áp
dụng theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 Ÿthì xảy ra tình trạng khơng
tìm ra quy phạm pháp luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp luật trên. Lý do: quy phạm pháp luật về môi giới thương mại điện tử chỉ áp dụng với đối tượng là các thương nhân với nhau, không áp dụng với cặp đối tượng là thương nhân — chủ thé không phải là thương nhân. (3) Ba /d, tại điều 157 Luật Thương mại 2005 quy định bên uỷ thác mua bán hàng hố khơng bắt buộc phải là thương nhân (mà hoạt
<small>động uỷ thác mua bán hàng hoá là một trong các hoạt động trung gian thương</small> mại). Điều đó cho thấy, tính khái quát chung luôn đúng trong khoản 11 Điều 3
Luật Thương mại năm 2005 cần được xem xét lại. PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh cũng đã có lý giải thuyết phục cho quan điểm bên được môi giới không bắt buộc là thương nhân tại cuốn sách “Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương
mại ở Việt Nam’. Trong khi đó, nếu căn cứ Điều 24 Nghị định số
52/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị dinh số 85/2021/NĐ-52/2013/NĐ-CP), bên được môi giới trên nền tảng số trung gian không bắt buộc phải là thương nhân. Luật Giao dịch điện tử cũng không quy định về vấn đề này.
<small>° Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân dé thực hiện các giao dịch thương mại cho</small>
<small>một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, mơi giới thương mại,uỷ thác mua bán hàng hố và đại lý thương mại (khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).</small>
<small>'Š Điều 1 Phạm vi điều chỉnh: “3. Hoạt động khơng nhằm mục đích sinh lợi của bên bên trong giao địch với thương</small>
<small>nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt độngkhông nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.”</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Thứ tư, nghĩa vụ của chủ sở hữu nên tảng số trung gian với hàng hoá, dich
<small>vụ được mơi giới.</small>
Đây có thê được coi là nghĩa vụ đặc trưng của chủ sở hữu nền tang số trung
gian vì bốn ly do sau: (1) Một là, các nền tảng số trung gian tập trung phan lớn vào giao dịch B2C (viết tắt của Business to Consumer tức là giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng) và C2C (viết tắt của Consumer to Consumer tức là <small>giao dịch giữa các cá nhân với nhau chứ không phải là doanh nghiệp). Người bán</small>
và người mua thường không gặp gỡ nhau trực tiếp mà mọi thao tác thực hiện thông qua các lệnh, chức năng đã được cài đặt sẵn. Bên mua khơng có nhiều cơ hội để tiếp cận, xem xét, đánh giá hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn cho thấy, việc xét duyệt thông tin người bán cũng như sản phâm phục thuộc rất lớn vào chủ sở hữu nên tảng trung gian; (2) Hai là, trong môi trường kỹ thuật số, rất khó dé xác nhận tính xác thực của thông tin giao dịch giữa người bán và người mua, do đó, chất lượng hàng hố sẽ khó được đảm bảo. Đồng thời, trong giao dịch thương mại điện tử trên nên tảng số trung gian, các thơng tin về danh tính của người mua và người bán chỉ được đưa ra ở một giới hạn nhất định khi đăng ký. Chúng ta thừa nhận sự bat cân xứng thông tin sản phâm trong môi trường nên tảng số trung gian; (3) Ba là, khía cạnh xuyên biên giới của nền tảng số trung gian đã tạo thuận lợi cho chủ thể nước ngoài dễ dàng bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng Việt Nam, hàng hố lưu thơng theo kênh này khơng chịu sự kiểm sốt về chất lượng cũng
như khó quản lý về thuế; (4) Nhà đầu tư nước ngồi, thơng quan việc tham gia
quan lý nền tang số trung gian, có thé tác động đến chính sách chung của nền tảng số trung gian trong việc hỗ trợ kỹ thuật và tạo thuận lợi cho người bán nước ngoài tham gia bán hàng trên nền tảng số trung gian, từ đó tăng tỷ trọng hàng nhập khâu trong các kênh phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng).
Nhìn chung nghĩa vụ của chủ sở hữu nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại được pháp luật thương mại điện tử điều chỉnh tương đối thống nhất.
<small>Tuy nhiên, vân cịn tơn tại một sô bât cập sau:</small>
<small>' Bộ Công thương (7/2022), Báo cáo Tổng kết 06 năm thi hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013</small>
<small>của Chính phủ vê thương mại điện tử, trang 25</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Một là, bản thân ý thức của doanh nghiệp cá nhân chưa cao. Nhiều trường
hợp người bán cơ tình bán hàng gian đối, hàng kém chất lượng, không rõ nguồn
gốc xuất xứ.
Hai là, nhiều nền tảng số trung gian do có soanh thu từ việc thu phí giao dịch, đã thả lỏng việc xét duyệt hồ sơ của đối tượng tham gia nên tảng sỐ trung gian (bên được môi giới), dẫn đến hàng hố khơng rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng
gia, hàng nhái tran lan mà khơng có biện pháp kiểm sốt, nhiều mặt hàng cịn đăng bằng ngơn ngữ bản địa như tiếng Trung, tiếng Hàn...khiến người tiêu dùng lúng túng khi tiếp cận thơng tin.
Ba là, chưa có ranh giới rõ ràng, thông nhất giữa pháp luật thương mại điện tử và pháp luật quảng cáo về thơng tin hàng hố, dịch vụ cần cung cấp với khách hàng cũng tạo ra sự lúng túng cho cả bên bán hàng và chủ sở hữu nên tảng số trung gian. Ví dụ như rượu có độ cơn từ 15 độ trở lên (là mặt hàng bị cam quang cáo nhưng không bị cắm lưu thông), người bán cần cung cấp những thông tin, hình ảnh như thé nao trên nên tảng số trung gian dé không vi phạm pháp luật
<small>quảng cáo và cũng không vi phạm nghĩa vụ quy định trong pháp luật thương mạiđiện tử.</small>
Thứ năm, có những sự thay đổi trong việc xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp luật cho thấy chủ sở hữu nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại đang có những nghĩa vụ nhiều hơn so với bên môi giới. Cụ thể, chủ sở hữu nên tảng số trung gian có nghĩa vụ thay mặt cho các bên bán, bên mua trong một số trường hợp. Bên môi giới thương mại truyền thơng khơng có nghĩa vụ này trong
<small>phạm vi mơi giới cua mình.</small>
Theo Luật Thương mại năm 2005, chủ thể mơi giới khơng tham gia vào
<small>quan hệ pháp luật hình thành giữa bên mua và bên ban. Tuy nhiên, theo khoản 16</small>
Điều 1 Nghị định số 85/2021/NĐ-CP, bên chủ sở hữu nên tang số trung gian có thể tham gia vào quan hệ pháp luật giữa bên mua và bên bán trong một số khâu như: đại diện thương nhân nước ngồi giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng,
<small>có thê liên đới chịu trách nhiệm về chat lượng hàng hoá, dịch vụ được môi giới.</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật thương mại trong việc điều chỉnh hoạt động của các nền tảng số trung gian
Thứ nhất, có sự thơng nhất về điêu kiện của chủ thể sở hữu nên tảng số
<small>trung gian trong lĩnh vực thương mại.</small>
Webite, ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử là nên tảng sé trung gian
<small>trong lĩnh vực thương mại, thực hiện hành vi môi giới. Theo quy định tai nghị</small> định số 52/2013/NĐ-CP và nghị định số 85/2021/NĐ-CP thì chủ sở hữu nền tảng
số trung gian khơng bắt buộc phải là thương nhân nhân, không bắt buộc phải mục
<small>đích sinh lợi. Tuy nhiên theo Luật Thương mại năm 2005, họ phải là thương nhân</small> có mục đích sinh lợi. Theo nguyên tắc áp dụng luật, Luật Thương mại năm 2005
được ưu tiên áp dụng so với Nghị định về thương mại điện tử. Vì vậy, nên có những hướng dẫn hoặc b6 sung văn bản pháp luật dé thống nhất về điều kiện chủ thé sở hữu nền tang số trung gian.
Thứ hai, kiến nghị cân xem xét lại quy định giao dịch giữa bên bản và bên mua được môi giới trên nên tảng số trung gian, theo đó giao dich này khơng bắt
<small>buộc phải là hoạt động thương mại.</small>
Bài viết kiến nghị không nên đặt ra điều kiện giao dịch giữa bên bán, bên mua trên nên tảng số trung gian phải là giao dịch thương mại (mua bán hàng hoá cung ứng dich vụ). Nó có thé là giao dich mua bán nói chung (hang hố, tai sản),
<small>cung ứng dịch vụ nói chung.</small>
Thứ ba, kiến nghị thong nhất tại Luật T. hương mại năm 2005 về diéu kiện của bên ban, bên mua trên nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại theo hướng họ không bắt buộc phải là thương nhân.
Bài viết đã chỉ ra những điểm bat hợp lý nếu xác định bên sử dụng nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại phải là thương nhân tại mục 3.2. Bai viết đề xuất cụ thé, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Thương mại năm 2005 nên xem xét cân nhắc việc sửa đồi nội dung quy định tại khoản 11 Điều 3. Có như vậy, mới tạo ra sự phù hợp về đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về nên tảng số trung gian thực hiện
<small>hoạt động môi giới trong lĩnh vực thương mại.28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Thứ tư, việc quy định chủ sở hữu nên tảng số trung gian trong lĩnh vực
thương mại có nghĩa vụ thay mặt cho bên được mơi giới là cân thiết, tuy nhiên
cân xác định rõ phạm vi những trường hop nay.
Như đã phân tích, nền tảng số trung gian là yếu tố thuộc mặt khách quan của hành vi, là yếu tối chi phối đến sự khác biệt của nội dung quan hệ pháp luật
môi giới trên nền tảng số trung gian. Điều này cũng sẽ giải thích hợp lý cho việc bên mơi giới thương mại truyền thống khơng có nghĩa vụ thay mặt cho bên được môi giới, nhưng, chủ sở hữu nên tảng số trung gian có nghĩa vụ thay mặt cho bên được môi giới trên nền tảng số trung gian trong một số trường hợp. Cần có nguyên tac thuyết phục và thống nhất dé xác định phạm vi của nhóm nghĩa vụ đặc trưng
Tủ năm, tăng cường công tác tuyên truyền pho biến pháp luật nhằm nâng cao y thức pháp luật, đồng thời tăng trách nhiệm của chủ sở hữu nên tảng số
<small>trung gian trong lĩnh vực thương mại.</small>
Bài nghiên cứu cũng thừa nhận ý thức pháp luật của nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp khơng có bộ phận pháp chế riêng, năng lực pháp chế yêu kém, dẫn đến việc không nắm hết quy định của pháp luật về nền tảng số trung gian. Nhiều đối tượng cé tình vi phạm pháp luật do mong muốn kiếm lợi bất chính từ việc bán hàng giải, hàng nhái các thương hiệu nội tiếng. Thậm chí có nhiều trường hợp mặc dù đã bị xử phạt hành chính vẫn tiếp
tục tái phạm do số tiền thu lợi bất chính cịn nhiều hơn số tiền phạt”. Đánh giá từ
một số chuyên gia cho rằng, chế tài xử phạt vi phạm hành chính hiện nay là chưa đủ sức răn đe đối với chủ thê vi phạm. Bài viết đề xuất nghị định về thương mại điện tử cần bổ sung những quy định tăng trách nhiệm của chủ sở hữu nên tảng số trung gian trong lĩnh vực thương mại bên cạnh việc tuyên truyền phé biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của chủ thé liên quan.
<small>'” Bộ Công thương (2/2020), Báo cáo Tổng kết 06 năm thi hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013</small>
<small>của Chính phủ vê thương mại điện tử, trang 28</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">HOÀN THIEN PHÁP LUAT VE GIAO KET VÀ THỰC HIỆN HỢP
DONG MUA BAN HÀNG HÓA TRỰC TUYẾN Ở VIET NAM HIỆN NAY ThS. Cao Thanh Huyền"
Tóm tắt : Trong bồi cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, với sự phát triển
bùng nồ của Internet và các công nghệ truyền thông di động, xu hướng mua bán
hàng hóa theo hình thức trực tuyến, thông qua các phương tiện điện tử như máy tinh hay điện thoại thông minh ngày càng phát triển và mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể kinh doanh cũng như người tiêu dùng. Cũng giống như giao dịch thương mại truyền thong, các quan hệ mua bản hàng hóa trực tuyển được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp động. Tuy nhiên, các quy định pháp luật của Việt
Nam về hop đồng thương mại điện tử nói chung, hợp dong mua ban hàng hóa trực tuyến nói riêng vẫn cịn ton tại một số hạn chế, bat cập, ảnh hưởng không
nhỏ đến quyên và lợi ich hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch trực tuyến. Bài viết dưới đây tập trung phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật; trên cơ sở đó dé xuất một số giải pháp góp phan hồn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đơng mua bán hàng hóa trực tuyến ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005
<small>(LTM năm 2005): “Mua ban hàng hóa là hoạt động thương mai, theo đó bên ban</small>
có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyên sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyên sở hữu
<small>hàng hóa theo thỏa thuận”. Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập giữa bên bán</small>
và bên mua được xác định là quan hệ thương mại, chủ yếu được thê hiện dưới
hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Xuất phát từ định nghĩa về hợp
đồng tại Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015), có thê hiểu: Hợp
<small>' Thạc sĩ Luật, Khoa pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội;</small>
<small>Email: </small>
<small>Số điện thoại liên hệ: 0947122888</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng
<small>hóa theo thỏa thuận.</small>
Về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa, Khoản 1 Điều 24 LTM năm 2005 quy định: “Hop đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bang lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cu thé”. Ư đây, ngồi dang văn bản
truyền thống (văn bản giấy), các hình thức có giá trị tương đương văn bản cịn bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật”'. Trong trường hop hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập dưới <small>dạng thông điệp dữ liệu (được tạo ra, được gửi đi, được nhận hoặc được lưu trữ</small>
bằng phương tiện điện tử), nó sẽ trở thành hợp đồng điện tử theo quy định tại Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 (Luật GDĐT năm 2005) và chịu sự điều chỉnh của Luật này”.
Không chỉ thé, theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định của Chính phủ số 52/2013/NĐ-CP ban hành ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử (Nghị định 52/2013/NĐ-CP): “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiễn hành một phần
hoặc tồn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có
kết noi với mạng Internet, mạng viên thông di động hoặc các mạng mở khác”.
có thể thay khái niệm hoạt động thương mai điện tử được quy định tai Nghị định 52/2013/NĐ-CP đã đề cập đến toàn bộ các hoạt động được thực hiện nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm cả mua bán hàng hóa. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng
hóa được xác lập bằng phương tiện điện tử có có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác là một loại hợp đồng thương mại điện tử. Tứ hai, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “trực tuyến” (online) là thuật ngữ được sử dụng dé chỉ trạng thái kết nối một hoạt động với hệ thống mạng toàn cầu Internet hoặc hệ thống mạng cục bộ - hệ thống mạng dùng dé kết nối các
<small>?* Xem: Khoản 15 Điều 3 LTM năm 2005.?ˆ Xem: Điều 33 Luật GDĐT năm 2005.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">máy tính trong phạm vi nhỏ (Ethernet). Nếu một thiết bị không thực hiện kết nối,
được gọi là ngoại tuyến”. Việc kết nối mạng cần được tiến hành thông qua các
phương tiện điện tử, bao gom các phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện,
viễn thông di động và công nghệ truyền thông không dây (1G, 2G, 3G, 4G, 5G) ra đời và phát triển, phạm vi khái niệm “trực tuyến” đã được mở rộng dé chỉ cả trạng thái kết nỗi một hoạt động với hệ thống mạng viễn thông di động, bên cạnh Internet. Ở Việt Nam hiện nay, Khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP khi
định nghĩa về hoạt động thương mại điện tử cũng xác định các hình thức kết nối
của phương tiện điện tử bao gồm: mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc
<small>các mạng mở khác.</small>
Xuất phát từ những phân tích nêu trên, có thê rút ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến như sau: Hop đồng mua ban hàng hóa trực tuyến là một loại hợp đồng trong thương mại điện tử, chứa đựng những thông tin về thỏa
<small>thuận cua các bên dưới dang thơng điệp đữ liệu, trong đó bên ban có nghĩa vu</small>
giao hàng, chuyển quyên sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bản, nhận hàng và qun sở hữu hàng hóa
<small>theo thỏa thuận. Những thơng tin này được tạo ra, được gửi di, được nhận và</small>
được lưu trữ bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Với định nghĩa này, hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến bao gồm cả các hợp đồng được giao kết và thực hiện thông
<small>qua website thương mại điện tử bán hàng, ứng dụng di động có chức năng đặt</small>
hàng trực tuyến hay mạng xã hội. Đồng thời, hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến có những sự khác biệt nhất định so với hợp đồng mua bán hang hóa truyền thống, thé hiện ở chủ thể tham gia, hình thức hợp đồng, phạm vi giao dịch va
<small>3 Trực tuyến và ngoại tuyến, nguồn truy cập:</small>
<small> tuy%E1%BA%BFn#, thời gian truy cập: 25/10/2022</small>
<small>** Xem: Khoản 10 Điều 4 Luật GDĐT năm 2005.</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">phương thức giao dịch. Trên thực tế hiện nay, với sự phát triển của các ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện điện tử, hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó nơi bật là các loại
hợp đồng sau đây: hop đồng truyền thong được đưa lên web; hợp đồng được hình
thành qua giao dịch tự động: hợp đồng được hình thành qua thư điện tử; và hợp
đồng có sử dụng chữ ký số”.
Sự phát triển của hoạt động TMDT ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT nói chung, pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến nói riêng. Qua đó, tạo ra hành lanh pháp lý cần thiết phục vụ hoạt động quản lý nhà nước trên không gian mạng, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch. Thêm vào đó, xuất phát từ những tính chất đặc trưng của hoạt động mua bán hàng hóa trực tuyến (tính phi biên giới, tính vơ hình, tính hiện đại và tính rủi ro liên quan đến kỹ thuật, công nghệ), việc sử dụng những quy định pháp luật về mua bán hàng hóa truyền thông để điều chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch trực tuyến sẽ không thực sự day đủ và phù hợp. Vi vậy, ngay từ năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật GDĐT để quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà
<small>nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp</small>
luật quy định. Đây là cơ sở pháp lý chính thức đầu tiên ở nước ta điều chỉnh những van đề đặc thù về giao dịch điện tử và hợp đồng điện tử. Ngồi ra, có thé kế đến một số văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến điển
<small>hình như sau: Luật TM năm 2005; BLDS năm 2015; Luật An tồn thơng tin mang</small>
năm 2015; Nghị định 52/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bố sung bởi Nghị định 85/2021/NĐ-CP); Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh tốn khơng dùng tiền mặt (được sửa đôi, bố sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP); Nghị định 09/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 quy định chi tiết LTM và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp
<small>+ Trường Đại học Ngoại thương, Giáo trình Thương mai điện tử căn bản, NXB. Back khoa-Hà Nội, Hà Nội, năm</small>
<small>2013, tr.56-57.</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngồi, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư
<small>nước ngồi tại Việt Nam; Nghị định 130/2018/NĐ-CP ngày 27/09/2018 quy định</small>
chỉ tiết thi hành Luật GDĐT về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (Nghị
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất phi biên giới của hoạt động TMĐT nên các giao dịch mua bán hàng hóa trực tuyến có thể được xác lập giữa các bên tham
gia đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thơ khác nhau. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh
quan hệ mua bán hàng hóa trực tuyến cịn có thể bao gồm: pháp luật nước ngoai và các điều ước quốc tế về thương mại điện tử như Luật mẫu về TMĐT hay Luật mẫu về chữ ký điện tử của Uncitral,...
2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến ở Việt nam
Hợp đồng mua bán hàng hóa trực tuyến là hợp đồng thương mại, cụ thể hơn, là một loại hợp đồng trong TMĐT. Theo Điều 35 Luật GDDT năm 2005 về nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử: (i) Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết và thực hiện hợp dong. (ii) Việc giao kết va thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về hợp đồng. (iii) Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thỏa thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính tồn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó. Như vậy, trong trường hợp các bên thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử để giao kết và thực hiện hợp đồng mua ban hàng hóa, Luật GDDT năm 2005 và Nghị định 52/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bố sung bởi Nghị định 85/2021/NĐ-CP) được xác định là những văn bản quy phạm pháp luật chủ yêu điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các bên, bên cạnh những văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa truyền thống như LTM năm 2005 và BLDS năm 2015.
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">(i) Về đề nghị giao kết hợp dong va chấp nhận đề nghị giao kết hợp dong: tương tự như đối với hợp đồng dân sự thông thường, quy trình giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa trực tuyên cũng được bắt đầu bằng những lời đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tại Khoản 2 Điều 36 và Điều 37 Luật GDĐT năm 2005 quy định: Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thê được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. Việc nhận, gửi, thời
điểm, địa điểm nhận, gửi thông điệp dữ liệu trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử được thực hiện theo quy định tại các Điều 17,18,19 và 20 của Luật này. Tuy nhiên, Điều 17, 18, 19 và 20 Luật GDĐT năm 2005 chỉ quy định chung chung
về việc gửi và nhận thông điệp dir liệu mà không có những quy định điều chỉnh
các van dé đặc thù phát sinh trong quá trình đề nghị và chấp nhận dé nghị giao kết hợp đồng điện tử. Ví dụ: thé nào được coi là một lời dé nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận dé nghị giao kết hợp đồng điện tử; thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng điện tử; sửa đổi, hủy bỏ hay cham dứt đề nghị giao kết hợp đông: rút lại
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng:...Mặc dù tại Khoản 3 Điều 4 BLDS năm <small>2015 đã quy định: “7zưởng hợp luật khác có liên quan khơng quy định hoặc co</small> quy định những vi phạm khoản 2 Diéu này thì quy định của Bộ luật này được áp dung”, nhưng việc giao kết hợp đồng điện tử nói chung, hợp đồng mua bán hang
hóa trực tuyến nói riêng có những điểm đặc trưng riêng mà BLDS chưa thể bao quát hết được.
Khắc phục hạn chế của Luật GDĐT năm 2005, Nghị định 52/2013/NĐ-CP đã có những quy định cụ thể hơn về việc giao kết hợp đồng trong TMĐT. Tuy nhiên, Nghị định 52/2013/NĐ-CP lại quy định về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thơng qua chứng từ điện tử, thay vì thơng điệp đữ liệu như quy định của Luật GDĐT năm 2005. Theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định 52/2013/ND-CP: Chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại là hợp đồng, đề nghị, thông báo,
<small>xác nhận hoặc các tài liệu khác ở dạng thông điệp dữ liệu do các bên đưa ra liên</small>
quan tới việc giao kết hay thực hiện hợp đồng. Định nghĩa nay thực sự chưa làm
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">rõ được mối liên hệ giữa chứng từ điện tử và thơng điệp dữ liệu, vơ tình tạo ra sự
thiếu thống nhất giữa văn bản Luật và Nghị định hướng dẫn.
Bên cạnh đó, Nghị định 52/2013/NĐ-CP mới chỉ quy định cụ thể về thông
báo mời đề nghị giao kết hợp đồng: đề nghị giao kết hợp đồng: rà soát và xác nhận
nội dung hợp đồng; trả lời đề nghị giao kết hợp đồng; cham dứt đề nghị giao kết
hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên webiste TMĐT từ Điều 15 đến Điều 20. Như vậy, cơ sở pháp ly cho việc đề nghị va chấp nhận dé nghị
giao kết hợp đồng khi các bên có nhu cầu mua bán hàng hóa thơng qua sàn giao dịch TMĐT hoặc thông qua các nên tảng trực tuyến khác như thư điện tử, mạng xã hội hay ứng dụng di động vẫn còn bị bỏ ngỏ. Mặc dù hiện nay, tại Điều 8 Văn
bản hợp nhất số 05/VBHN-BCT có quy định về việc giao kết hợp đồng sử dụng
chức năng đặt hàng trực tuyến qua ứng dụng di động. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 8 chỉ quy định: Việc giao kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến qua
<small>ứng dụng di động thực hiện theo các quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định</small>
52/2013/NĐ-CP, trừ trường hợp đối tượng của hợp đồng là sản phẩm có nội dung
Không chỉ thế, Điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ-CP chưa quy định thế nào là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Liệu một xác nhận đơn hàng tự động được gửi vào hệ thống thông tin của khách hàng có ln được coi là một chấp nhận dé nghị giao kết hợp đồng hay khơng? Ngồi ra, một số van đề khác như thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng hoặc sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất cũng chưa được quy định rõ ràng trong Nghị định
(ii) Về thời điểm giao kết hợp dong và quy trình giao kết hợp dong: Luật GDĐT năm 2005 và Nghị định 52/2013/NĐ-CP không xác định rõ thời điểm hợp đồng trong TMĐT được coi là đã giao kết, ngoại trừ quy định về thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website TMĐT tại Điều 21 Nghị định 52/2013/NĐ-CP. Có thê nói, việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng rat quan trọng, bởi vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 401 BLDS 2015: Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
<small>36</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Khơng chỉ thế, cả
hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên cũng không đề cập đến vấn đề hiệu lực
của hợp đồng điện tử; các trường hợp hợp đồng điện tử bị coi là vơ hiệu; hay quy trình giao kết hợp đồng điện tử. Tại Điều 23 Nghị định 52/2013/NĐ-CP có quy
định: “Bộ Công thương quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp dong trực tuyến
trên website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức, cá nhân lập ra để mua
hàng hóa, dich vụ”, nhưng cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có bat cứ văn ban
pháp luật nào được Bộ Công thương ban hành dé quy định về van dé này.
(ii) Về giao kết hop đồng mua bán hàng hóa trên mạng xã hội và các <small>ứng dụng di động: trong giai đoạn hiện nay, ngoài các website và san giao dichTMDT thì hoạt động giao dịch, mua ban hàng hóa thơng qua mang xã hội hay các</small>
ứng dụng di động cũng đang thu hút số lượng rất lớn các thương nhân, tổ chức và cá nhân. Nghiên cứu cho thấy hoạt động mua bán hàng hóa trên mạng xã hội và các ứng dụng di động khá đặc thù và khơng hồn tồn giống với bất kỳ hình thức TMDT nao, bao gồm cả san giao dich TMĐT. Một trong những điểm khác biệt nôi bật giữa mạng xã hội và sàn giao dịch TMDT là cho đến nay các mạng xã hội chưa có chức năng đặt hàng trực tuyến. Theo đó, người mua và người bán vẫn phải liên hệ trực tiếp với nhau dé hoàn thành giao dịch thương mại. Trong khi đó,
các quy định pháp luật về TMĐT hiện hành ở Việt Nam vẫn chưa đề cập đến vấn đề
giao kết hợp đồng TMĐT nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa trên mạng xã hội
và các ứng dụng di động nói riêng, gây ra khó khăn trong q trình áp dụng luật”.
(iv) Về hợp đồng mua bán hàng hóa mẫu trên website TMĐT và sàn giao dịch TMĐT: theo Sách trắng TMĐT Việt Nam năm 2021, trong năm 2019 va 2020, tỷ lệ người tiêu dùng mua hàng trực tuyến của thương nhân, tổ chức, cá nhân qua website TMĐT và sàn giao dịch TMĐT chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so
<small>| ® A kệ Lẻ bì x ps ~ x lá , tes ^ 27</small>
<small>với kênh mua săm qua các diễn đàn, mang xã hội hay các ứng dung di động“.7° Bộ Công thương, Cục TMĐT và Kinh tế số, Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, nguồn truy cập:</small>
<small> thời gian truycập: 25/10/2022</small>
<small>7 Bộ Công thương, Cục TMĐT và Kinh tế số, Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, nguồn truy cập:</small>
<small> thời gian truycập: 25/10/2022</small>
<small>37</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Khác với phương thức giao dịch trực tuyến qua Email, trong đó các bên có thé
trao đối, đàm phan chi tiết về các điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hóa;
việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trên website và sản giao dịch TMĐT
được thực hiện thông qua chức năng đặt hàng trực tuyến hoặc thông qua những hợp đồng truyền thống được đưa lên web. Theo đó, người mua hàng trên website hoặc sàn giao dịch TMĐT có rất it hoặc khơng có cơ hội thỏa thuận với người ban về các điều khoản của hợp đồng mua bán. Điều này có thể tiềm an nhiều nguy cơ
quyền lợi của người mua hàng khơng thực sự được đảm bảo. Trong khi đó, các văn bản pháp luật về giao dịch điện tử hay TMĐT hiện hành ở Việt Nam vẫn chưa có những quy định cụ thể về hợp đồng theo mẫu trong TMĐT nói chung và trong lĩnh vực mua bán hàng hóa trực tuyến nói riêng.
(v) Về đối trợng của hợp đồng mua ban hàng hóa trực tuyến: Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số và Internet đã dẫn
đến sự ra đời của loại tài sản mới: tài sản ảo. Ví dụ: tên miền Internet, địa chỉ hộp
thư điện tử, các loại tài khoản trò chơi trực tuyến, các ứng dụng trên appstore, ch play hoặc các tài nguyên trên mạng máy tính được xác định giá trị bằng tiền và có
thé chuyền giao trong các giao dịch dân sự hay giao dịch thương mại”. Trên thé
giới, hoạt động mua bán tài sản ảo diễn ra rất sơi động và có giá trị cao. Vậy những loại tài sản đặc biệt này có thé được coi là tài sản theo quy định của BLDS hay hàng hóa theo quy định của LTM hay không? Rõ ràng, pháp luật về kinh doanh trực tuyên ở Việt Nam vẫn chưa có những quy định cụ thé trong việc xác định tai sản ảo có thé trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán hang hóa trực tuyến hay khơng?
(vi) Về chữ ký điện tử trong giao dịch mua bán hàng hóa trực tuyến:
trong giao dịch trực tuyến, dé xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dit liệu được ký, Luật GDDT năm 2005 đã có quy định về chữ ký điện tử. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, các bên tham gia giao dịch điện tử không bắt buộc phải sử dụng chữ ký điện
<small>tử. Trong trường hợp sử dụng, chữ ký điện tử có giá trị pháp lý như chữ ký thơng</small>
<small>Am 4</small>
<small>8 Có nên cơng nhận “tdi sản ảo” là một loại tài sản, nguồn truy cập: </small>
<small> thời gian truy cập: 26/10/2022</small>
<small>38</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">thường nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật GDĐT năm 2005. Tuy nhiên, trong Nghị định 52/2013/NĐ-CP khi quy định về giao kết hợp đồng trong TMĐT lại không quy định về giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
mà chỉ quy định về chữ ký số. Theo đó, việc ký chứng từ điện tử bằng chữ ký số do tô chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số hợp pháp cấp là một trong
những tiêu chí để đánh giá độ tin cậy của chứng từ điện tử trong giao dịch thương
mại. Nghị định 130/2018/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật GDĐT năm 2005 cũng
chỉ quy định các van dé pháp lý về chữ ký số và dich vụ chứng thực chữ ký số. Mặc dù theo Khoản 6 Điều 3 Nghị định 130/2018/NĐ-CP, chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử, nhưng quá trình tạo lập chữ ký số phức tạp hơn do phải sử dụng
<small>kỹ thuật đặc biệt là kỹ thuật mã hóa, trong đó địi hịi phải ứng dụng mã hóa cơng</small>
cộng với khóa dai tối thiêu tới 1024, 2048 bit dé “ký” trên tập tin điện tử. Bên cạnh đó, chi phí cho các giải pháp chữ ký số khá cao đối với nhu cầu sử dụng của khách hàng cá nhân và là một khoản đầu tư lớn đối với các thương nhân, tơ chức kinh doanh. Có thê thấy, sự thiếu thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ giữa Luật GDĐT năm 2005 với các văn bản hướng dẫn thi hành có thé gây nên sự hiểu lầm, coi chữ ký điện tử là chữ ký số, dẫn đến các văn bản quy định, hướng dẫn về áp dụng chữ ký điện tử, chữ ký số sử dụng không đúng khái niệm, dẫn đến khó
áp dụng trên thực tế.
Ngồi chữ ký số, hiện nay có một số hình thức của chữ ký điện tử như nhận
dạng chữ viết tay, nhận dạng sinh trắc học, nhận dạng giọng nói, token,
OTP,...Tuy nhiên cho đến hiện nay Chính phủ mới chỉ ban hành được văn bản hướng dẫn về một hình thức của chữ ký điện tử là chữ ký số mà chưa xây dựng
<small>được cơ sở pháp lý thừa nhận giá trị pháp lý của các hình thức chữ ký điện tử</small>
khác, gây nên khoảng trống pháp lý trong quy định về chữ ký điện tử, ảnh hưởng
<small>RK oA ^ ^ tA 3 x oA 3 ^ A29</small>
<small>đên việc công nhận hiệu lực cua hợp đông điện tử trên thực tế“.</small>
<small>? PGS.TS Trần Thăng Long, ThS. Trương Thị Nho, Hoàn thiện pháp luật về chữ ký số, nguồn truy cập:</small>
<small> thời gian truy cập:26/10/2022</small>
<small>39</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Không chi thé, Luật GDĐT năm 2005 và các văn bản hướng dan thi hành
chưa có quy định cụ thé về van dé giao kết hợp đồng TMĐT có yếu tố nước ngồi <small>mà mới chỉ thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài tại Khoản</small>
1 Điều 27 Luật GDDT năm 2005. Tuy nhiên, làm thé nào để xác định một chữ ký
<small>điện tử và chứng thư điện tử nước ngồi có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy</small>
của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử của Việt Nam thì đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể.
(vi) Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của bên mua: Cùng với sự phát triển của TMĐT, Internet và các ứng dụng công nghệ thơng tin, ngày càng nhiều hình thức thanh tốn mới ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán hàng hóa trực tuyến của các thương nhân, tơ chức và cá nhân trên thị trường. Theo Sách trăng TMĐT Việt Nam năm 2021, có hai hình thức thanh tốn các giao dịch thương mại trực tuyến bao gém: thanh toán dùng tiền mặt và thanh tốn khơng
dùng tiền mặt. Trong đó, các hình thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt chủ yếu
bao gồm: chuyển khoản Internet banking hoặc SMS banking; sử dụng thẻ thanh toán nội địa; thẻ thanh toán quốc té (visa, master,...); tai khoan mobile, SMS; vi
<small>điện tu và các hình thức khác. Tuy nhiên, trong các hình thức thanh tốn nêu trên,</small>
hình thức thanh tốn dùng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ đa số (51.5% năm 2020). Theo đó, doanh thu từ thanh tốn khơng dùng tiền mặt so với tổng doanh thu của doanh nghiệp chỉ chiếm ty lệ dưới 10%. Tương tự, khi tiễn hành khảo sát người mua hàng trực tuyến về việc lựa chọn hình thức thanh tốn, tỷ lệ người mua hàng trực tuyến lựa chọn hình thức thanh tốn bằng tiền mặt khi nhận hàng (COD) chiếm
tỷ lệ cao nhất (78% năm 2019 và tăng lên 86% năm 2020)°”.
sự mặn mà với hình thức thanh tốn hiện đại này. Có nhiều lý do dẫn đến thực tế trên, trong đó khơng thé khơng kể đến những lo ngại của người mua hàng về mức
<small>°° Bộ Công thương, Cục TMĐT và Kinh tế số, Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, nguồn truy cập:</small>
<small> thời gian truycập: 25/10/2022</small>
<small>40</small>
</div>