Mïa xu©n nho nhá
I. Nh à th ơ Thanh Hải ( 1930 – 1980)
- Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn quê ở Phong Điền, Thừa Thiên – Huế.
- Hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp.
-Tham gia hai cuộc kháng chiến, bám trụ quê hương trong những năm kháng
chiến ác liệt nhất của cách mạng.
- Là nhà thơ có công xây dựng nền văn nghệ cách mạng miền Nam từ những
ngày đầu.
- Thơ Thanh Hải nhỏ nhẹ, chân thành, đằm thắm, giàu nhạc điệu, hình ảnh
ngôn ngữ chọn lọc, bình dị.
- Bị bệnh hiểm nghèo, ông vẫn sống lạc quan.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ được sáng tác vào tháng 11 – 1980, trong
hoàn cảnh đất nước thống nhất, đang xây dựng c/s mới với vô vàn khó khăn,
thử thách. Khi đó nhà thơ đang ốm nặng trên giường bệnh. Ngày 15/12/1980,
ông qua đời.
2. Giá trị nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ, gần với âm hưởng thơ ca, tạo âm hưởng nhẹ nhàng tha
thiết
- Cách gieo vần liền, tạo sự liền mạch về cảm xúc.
- Kết hợp các hình ảnh giản dị của tự nhiên với các hình ảnh mang ý nghĩa
biểu trưng tạo nên sự phát triển, nâng cao và đổi mới ( Hình tượng mùa
xuân )
- Cấu từ thơ chặt chẽ, từ hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên đất trời đến
mùa xuân của đất nước, của cách mạng và mùa xuân do con người tạo ra.
- Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say
sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế
lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết
tha bộc bạch, tâm niệm.
3. Giá trị nội dung :
Bài thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên, đất trời xứ Huế thơ mộng ngập tràn
sức sống. Đồng thời là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với
1
cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành được hoà nhập, được cống hiến cho
đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.
4. Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc: được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa
xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc
lắng đọng dần vào suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ
đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa
xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm
xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
* Bố cục: Gồm 4 phần:
- Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
- Khổ 2+3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước
- Khổ 4+5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
- Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
III. Phân tích bài thơ.
* Đề 1. Phân tích khổ thơ thứ nhất của bài
1. Mở bài :- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Giới thiệu khái quát bài thơ, đoạn thơ : “ Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ tiêu
biểu cho phong cách sáng
tác của ông. Với giọng thơ trầm lắng và những nét chấm phá đặc sắc, bài thơ
đã dựng lên bức tranh mùa
xuân tươi đẹp, thơ mộng và ngập tràn sức sống: ( Chép lại khổ thơ)
1. Thân bài :
*Phân tích : Bức tranh mùa xuân ấy mở đầu bằng hình ảnh:
Mọc giữa dòng sông xanh
- Tác giả đã khéo léo khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu. Nó không chỉ tạo
người đọc ấn tượng đột ngột, bất ngờ mà còn làm cho sự vật sống động như
đang diễn ra trước mắt. Tưởng như bông hoa kia đang từ từ, lồ lộ mọc, vươn
lên, xoè nở trên mặt nước xanh biếc của dòng sông xuân.
- Ba tiếng “dòng sông xanh” đưa người đọc liên tưởng đến dòng sông Hương
Giang – con sông huyền thoại của xứ Huế, con sông với màu nước quanh năm
xanh biếc. Con sông ấy như biểu tưởng của sức sống mùa xuân tươi trẻ. Dòng
2
sông chảy đến đâu, sức xuân lan toả đến đó. Hình ảnh bông “hoa tím biếc”
“mọc giữa dòng sông xanh” gợi liên tưởng đến sức sống mãnh liệt của mùa
xuân đang từ từ trỗi dậy.
- Hai câu thơ đã bộc lộ cảm nhận tinh tế và sự phối hợp màu khéo léo của tác
giả. Dòng sông xanh – hoa tím biếc, hai gam màu vừa tương phản lại vừa hài
hoà khiến cho bức tranh xuân hiện với sắc màu tươi tắn. Ánh sáng mùa xuân
chiếu qua sắc hoa tím nhẹ nhàng, màu tím của hoa phản chiếu trên mặt nước
xanh biếc qua tạo nên bảy sắc cầu vồng rực rỡ. Đó là vẻ đẹp dịu dàng, thanh
mát và đằm thắm của thiên nhiên đất trời xứ Huế mộng mơ.
- Cách lựa chọn gam màu của tác giả cũng rất tinh tế. Nói đến mùa xuân là
người ta thường nói đến sắc vàng của hoa mai và sắc hồng của hoa đào, còn
mùa xuân trong thơ Thanh Hải lại là sắc tím nhẹ nhàng, thanh nhã. Đây là một
sự lựa chọn tinh tế mang dụng ý nghệ thuật. Bởi màu tím là màu đặc trưng của
người dân xứ Huế. Chỉ có màu tím mới diễn tả hết được vẻ đẹp kín đáo, đằm
thắm của con người mà đặc biệt là các cô gái Huế.
- Bức trah mùa xuân không chỉ có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang lừng
- Chim chiện là loài chim nhỏ bé đến thân thương của đồng quê Việt Nam.
Tiếng chim vang lên báo hiệu mùa xuân về. Hai tiếng “ơi” và “hót chi” cất lên
vừa ngọt ngào, vừa mang giọng điệu thân thương của người dân xứ Huế.
Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời, đem đến bao niềm vui, làm cho trái
tim nhà thơ rung động. Ngắm dòng sông xanh, hoa tím biếc, lắng nghe chim
hót, nhà thơ bồi hồi cảm giác bâng khuâng, xao xuyến:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
- Hình ảnh thơ đẹp, giàu chất tạo hình góp phần bộc lộ cảm xúc vui tươi, hồn
nhiên, trong trẻo của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời. Trong sự
cảm nhận của nhà thơ, tiếng chim vô hình được cảm nhận bằng thính giác trở
nên có hình khối có ánh sáng và màu sắc mà nhà thơ có thể cảm nhận bằng thị
giác rồi xúc giác qua bàn tay đưa hứng của mình. Hình ảnh “giọt long lanh” là
hình ảnh liên tưởng đầy chất thơ. Những “giọt long lanh” ấy có thể là giọt tiếng
3
chim, giọt sương, giọt mưa xuân, giọt nắng, giọt hạnh phúc mà thiên nhiên ban
tặng cho con người. Hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa. Thơ vừa là nhạc,
vừa lạ họa. Tiếng chim ấy hay là những nốt nhạc, trong trẻo vang ngân của bàn
hòa ca đất trời, c/s vào xuân. Và nhà thơ đã đón nhận tất cả vẻ đẹp của mùa
xuân ấy bằng thái độ trân trọng, nâng niu qua bàn tay “ đưa hứng” của mình.
Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác góp phần diễn tả tâm trạng say sưa, ngây ngất
của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời.
c. Đánh giá, nâng cao: Chỉ vài ba nét chấm phá đơn sơ, giản dị, Thanh Hải
đã vẻ lên bức tranh xứ Huế với không gian cao rộng, màu sắc tươi tắn, âm
thanh rộn rã, tươi vui. Đó là bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trang nhã, thơ mộng
và ngập tràn sức sống. Bức tranh ấy có dòng sông, có hoa cỏ, có tiếng chim
hót, có bầu trời, có sương mai và con người ngập tràn niềm vui. Một niềm vui
ấm áp dạt dào.
Điều đáng nói khi tác giả viết bài thơ mùa xuân còn chưa đến nhưng lời thơ
đã tràn đầy xuân sắc. Trước bức tranh thơ này, người đọc khó hình dung nổi,
tác giả những vần thơ vui tươi, rộn rã ấy lại nằm trên giường bệnh, sống những
ngày cuối cùng của cuộc đời. Phải yêu đời thiết tha và lạc quan lắm mới mở
lòng viết được những vần thơ dạt dào cảm hứng xuân như vậy. Có thế thấy
Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân bằng chính trái tim yêu đời thiết tha của
mình.
3. Kết bài : Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết và yêu mến,
gắn bó với con người và cuộc đời. “Mùa xuân nho nhỏ” mà không nhỏ chút
nào. Nó đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi của thiên nhiên,
đất trời để từ đó bồi đắp thêm cho chúng ta t/y thiên nhiên, yêu mùa xuân và
mở rộng ra là t/y quê hương, đát nước.
…………………………………………………………….
Đề 2 : Phân tích đoạn thơ:
“Mùa xuân người cầm súng
Cứ đi lên phía trước”
4
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác:
-Thơ Thanh Hải nhỏ nhẹ, chân thành, đằm thắm.
- Bài thơ được sáng tác năm 1980, những năm đất nước vừa thống nhất và bắt
tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Bài thơ không chỉ là lời tâm niệm thiết tha chân thành, là ước nguyện được
cống hiến cho đời mà còn là bản hoà ca về không khí rộn rã, vui tươi của đất
nước và dân tộc trong công cuộc đổi mới. Không khí náo nước ấy được tác giả
ghi lại trong khổ thơ. ( Chép lại khổ thơ)
2. Thân bài:
* Khái quát: Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ của Thanh
Hải chuyển sang cảm hứng của mùa xuân đất nước, của cách mạng một cách tự
nhiên.
*Phân tích:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
- Trong số hàng nghìn, hàng vạn những con người tác giả chọn hai đối tượng
“Người cầm súng và người ra đồng” . Bởi họ chính là những con người đại
diện cho hai nhiệm vụ quan trọng, cơ bản của đất nước: chiến đấu - bảo vệ tổ
quốc và lao động xây dựng đất nước. Cấu trúc thơ song hành đã góp phần thể
hiện rõ tính chất quan trọng cuả hai nhiệm vụ cơ bản đó.
+ “Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy trên lưng”: Câu thơ gợi liên
tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ là cành lá
nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân
của thiên nhiên, cây cỏ.
+ “Mùa xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ”: Sau những vần thơ
viết về các chiến sĩ, lời thơ nói về những người lao động, ươm những hạt mầm
non trên những cánh đồng quê hương, những người ươm mầm cho sự sống. Từ
“lộc” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non
mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa xuân.
5
- Có thể nói, h/ả “lộc” mang nhiều tầng ý nghĩa. “Lộc” là chồi non, cành biếc.
“ Lộc” còn là h/ả ẩn dụ cho sức sống tươi trẻ của mùa xuân, cho sự phát triển,
cho các giá trị và thành quả tốt đẹp, cho những điều may mắn, hạnh phúc. Các
từ “ giắt đầy”, “ trải dài” gợi một màu xanh bất tận, một sức xuân tràn ngập
trên khắp mọi miền đất nước và rạo rực lòng người. Người lính khoác trên lưng
màu lá nguỵ trang xanh biếc mang theo sức sống màu xuân, sức mạnh của dân
tộc để ra trận. Người nông dân đem mồ hôi và sự cần cù của mình để làm nên
màu xanh cho ruộng đồng. Có thể nói, con người đi đến đâu thì mùa xuân, sức
xuân trải dài đến đó. Ý thơ vô cùng sâu sắc: Máu và mồ hôi của con người đã
tô điểm cho mùa xuân, để giữ lấy mùa xuân mãi mãi. Những con người lao
động và chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra mặt trận của mình để gặt hái
mùa xuân cho đất nước. Chính họa đã tạo nên những giai điệu chính của bản
hợp xướng mùa xuân đất nước, cách mạng, tạo nên nhịp điệu hối hả, hào hùng.
- Cả dân tộc tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương, rộn ràng náo nức:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
- “Tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao". Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận
mùa xuân đất nước bằng hai từ láy gợi cảm “hối hả” là vội vã, khẩn trương,
liên tục không dừng lại. “Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp
vọng về, hoà lẫn với nhau xao động. Cặp từ láy “hối hả”, “ xôn xao” cùng với
điệp từ “Tất cả” làm cho câu thơ vang lên nhịp điệu gấp gáp, rộn rã, vui tươi.
Đó là hành khúc của đất nước khi bước vào xuân, bước vào cuộc sống mới. Có
hiểu hoàn cảnh khó khăn của đất nước ta thời điểm bài thơ ra đời, mới hiểu và
trân trọng tình cảm, niềm tin, sự hăng say nhiệt tình của những con người xã
hội chủ nghĩa đó.
- Đây chính là tâm trạng, là cái náo nức trong tâm hồn tác giả. Tiếng lòng của
tác giả như reo vui trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa
xuân đất nước, sức sống của dân tộc được làm nên từ cái « hối hả » và « xôn
xao » ấy.
- Từ sự cảm nhận về không khí chiến đấu, lao động của đất nước, giọng thơ
như lắng sâu hơn khi nhà thơ suy tư về đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
6
Vất vả và gian lao
- Đất nước được nhân hóa, mang sự sống như con người. Đất nước Việt Nam
thân yêu của chúng ta đã qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong
suốt chiều dài lịch sự ấy, đất nước đã phải trải qua bao vất vả, gian lao. Vất vả,
gian lao vì chống giặc ngoại xâm, vất vả gian lao vì phải đương đầu với thiên
tai dịch hoạ. Nhưng dù có vất vả, gian lao đến đâu thì người dân VN vẫn
nguyện đem mồ hôi. xương máu, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm của mình
để bảo vệ và xây dựng đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa, suốt bốn ngàn
năm dựng nước và giữ nước đã toả sáng nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định
sức mạnh Việt Nam:
Đất nước như vì sao
Vẫn đi lên phía trước.
- Câu thơ “ Đất nước như vì sao” là hình ảnh so sánh đẹp, đầy ý nghĩa. “Sao”
nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời vĩnh hằng trong không gian và thời
gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ Việt Nam, trở thành
biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. So sánh
đất nước với vì sao là bộc lộ niềm tự hào vào đất nước Việt Nam giàu đẹp, kiên
cường. Đất nước Việt Nam của chúng ta có nguy cơ xoá tên khỏi bản đồ thế
giới đang vượt đêm đen và từng bước toả sáng, khẳng định mình.
- Hành trình đi tới tương lai của đất nước không một thế lực nào ngăn cản
được. Động từ “cứ” được đặt lên đầu câu thể hiện ý chí quyết tâm và niềm vui
sắt đá của dân tộc để xây dựng Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh”.
* Đánh giá nâng cao: Trong khổ thơ này, nhà thơ đã nói lên mùa xuân
của đất nước của cách mạng. Một mùa xuân ấm áp, đầy sinh lực, mới mẻ, tinh
khôi. Mùa xuân trên trận địa và mùa xuân trên cánh đồng, mùa xuân được làm
nên bởi con người Việt Nam bình dị mà vĩ đại. Hối hả và xôn xao, khí thế và
quyết tâm, ào ạt và mãnh liệt… Tất cả đã góp phần dệt nên một màu toàn thắng
cho mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.
3.Kết bài : Khẳng định sức sống mãnh liệt của đất nước. Cảm nghĩ của
bản thân.
………………………………………
7
* Đề 3: Phân tích đoạn thơ:
Ta làm con chim hót
… … …. …. … . ….
Dù là khi tóc bạc
1. Mở bài
"Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình."
(Tố Hữu)
Nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải - đã viết trong bài "Một
khúc ca xuân" những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Còn
Thanh Hải khi viết bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" trước lúc ra đi, không những
đã giải bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân
nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam. Thanh Hải đã
thể hiện tâm nguyện thật thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất
nước, với cuộc đời rõ nhất trong hai khổ thơ 4,5:
(Chép lại khổ
thơ)
2. Thân bài :
* Khái quát : Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi người
niềm khao khát và hi vọng. Với Thanh Hải, đây là thời điểm nhà thơ nhìn lại
cuộc đời mình và bộc bạch những điều tâm niệm tha thiết của người chiến sĩ
cách mạng, một nhà thơ gắn bó trọn đời mình cho đất nước, cho nhân dân.
* Phân tích : Trong sức xuân mạnh mẽ của đất trời, trong khi thế bừng bừng
của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận mùa xuân dâng lên từ đáy tâm hồn
mình. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tuổi trẻ, mùa
xuân của cống hiến và hi sinh.
- Thật đáng yêu, bởi ước nguyện của nhà thơ nhỏ bé khiêm nhường quá:
Ta làm … xao xuyến
- Nhà thơ chỉ mong mình làm một cành hoa trong muôn ngàn cành cành hoa,
làm tiếng chim trong muôn ngàn tiếng chim để tô điểm cho mùa xuân tươi đẹp.
8
Không chỉ vậy, nhà thơ chỉ mong mình là một nốt nhạc trầm trong bản đàn
mùa xuân rộn rã, vui tươi, tuy không cao nhưng làm xao xuyến lòng người.
- Nếu ở khổ thơ đầu, mùa xuân của thiên nhiên đất trời được tạo nên bởi một
cành hoa, một tiếng chim thì trong khổ thơ này, hình ảnh thơ được lặp lại. Nhà
thơ đã mượn các h/ả đó để nói lên ước nguyện của mình: Đem cuộc đời mình
hoà nhập, cống hiến để làm lên mùa xuân lớn cho đất nước. Hình ảnh thơ giản
dị kết hợp với một số từ “một” diễn tả ước nguyện khiêm nhường của nhà thơ.
- Trong bức tranh xuân ấy lại xuất hiện một nhân vật trữ tình. Đến khổ thơ này,
đại từ “Tôi” chuyển sang đại từ “Ta” một cách tự nhiên. Đại từ “ ta “ mang
đến cho lời ước nguyện sự trang trọng, thiêng liêng. Đồng thời, “Ta” vừa chỉ
số ít, vừa chỉ số nhiều, vừa chỉ nhà thơ, và cũng là tất cả mọi người. Có thể nói
Thanh Hải đã nói lên ước nguyện cống hiến của biết bao người dân Việt Nam.
- Điệp ngữ “ Ta làm, ta nhập” được đặt ở đầu câu góp phần khẳng định khát
vọng được hoà nhập cái “tôi” nhỏ bé vào cái “ ta” chung rộng lớn, để cống
hiến cho đời. Với lời thơ này, ta thấy Thanh Hải đã ý thức rất rõ, vai trò và
trách nhiệm của cá nhân trong xã hội.
- Ước nguyện cống hiến của nhà thơ không chỉ nhỏ bé khiêm nhường mà nhà
thơ còn mong cống hiến âm thầm, lặng lẽ.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.
- Đến đây, nhà thơ lại ước mình làm “ Một mùa xuân nho nhỏ” hoà chung vào
mùa xuân lớn của đất nước của dân tộc. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ
sáng tạo, độc đáo. Nó được tạo nên bởi sự cống hiến và hi sinh Nhưng sự cống
hiến đó không ồn ào, phô trương mà lặng lẽ, âm thầm. Từ “Lặng lẽ” được đặt
lên đầu câu góp phần diễn tả được ý nguyện đó. Nhà thơ còn “dâng” “mùa
xuân nho nhỏ” của mình cho đất nước bằmg thái độ thành kính, thiêng liêng.
“Mùa xuân nho nhỏ” nhưng ý nghĩa không hề nhỏ, bởi tấm lòng nhà thơ luôn
hướng tới sự cống hiến cao đẹp.
Nét đẹp nữa trong sự cống hiến là nhà thơ nguyện cống hiến bền bỉ, suốt cả
cuộc đời:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
9
- Lời có ý nghĩa khái quát cao: Tuổi trẻ cống hiến hi sinh, tuổi già cũng âm
thầm cống hiến. Cụm từ “Tuổi hai mươi- khi tóc bạc” mang ý nghĩa khái quát
suốt chiều dài của đời người. Thanh Hải quan niệm rằng: Hãy cống hiến những
gì nhỏ bé nhất nhưng có ích. cống hiến âm thầm và suốt cả cuộc đời. Ý thức
trách nhiệm với quê hương đất nước, khát vọng cống hiến đã trở thành ý thức
bất diệt trong tâm hồn tác giả. Còn sống là còn cống hiến. Tuổi hai mươi căng
tràn nhựa sống hay tuổi già khi tóc bạc thì ý thức trách nhiệm với đất nước vẫn
không hề thay đổi.
- Điệp từ “dù là” như một lời hứa, một lời tự nhủ với lương tâm sẽ mãi làm
“Một mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân rộng lớn của quê hương, đất nước.
- Quan niệm sống của Thanh Hải chính là quan niệm sống cao đẹp của một
người chiến sĩ cách mạng. Quan niệm này có sự kế thừa, phát huy quan niệm
sống của cha ông và thay đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
- Người xưa từng quan niệm: - Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen.
( Nguyễn Trãi)
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Và - Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu. ( Nguyễn Công Trứ)
Còn với người chiến sĩ cách mạng thì cống hiến tất cả những gì nhỏ bé nhất,
cống hiến trong lặng lẽ, âm thầm và bền bỉ suốt cả cuộc đời. Lời thơ không chỉ
là lời tự dặn mình, lời tâm niệm chân thành mà còn như một sự tổng kết, đánh
giá của tác giả về c/đ mình - một cuộc đời đã hiến dâng trọn vẹn cho đất nước.
Trong năm chiến tranh ác liệt, Thanh Hải bám trụ ở quê hương, cầm bút, cầm
súng trọn đời cống hiến cho cách mạng và văn học dân tộc. Đến khi kề bên cái
chết, ông vẫn khát khao cống hiến. Vượt lên trên bệnh tật, Thanh Hải vẫn sáng
lên một bản lĩnh, một t/y c/s, một khát vọng đẹp đẽ được cống hiến cả cuộc đời
mình, được hóa thân vào mùa xuân của đất nước.
Đánh giá nâng cao: Hai khổ thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng một triết lí,
một nhân sinh quan sâu sắc: Vấn đề sống đẹp và sống ý nghĩa. Triết lí sống ấy
được gửi gắm trong lời thơ nhỏ nhẹ như lời tâm niệm chân thành, qua hình ảnh
10
thơ đơn sơ mà mang nhiều cảm xúc. Chính vì vậy hình ảnh “ Mùa xuân nho
nhỏ” cuối bài thơ như ánh lên, toả sáng. Đó là ánh sáng của một tâm hồn muốn
sống một cuộc đời đẹp như một mùa. xuân.
3. Kết bài : Mùa xuân nho nhỏ nhưng ý nghĩa không nhỏ. Bài thơ nói lên được
nhiều ý nghĩa. Vì đó là lời tâm niệm thiết tha chân thành, sâu lắng nhất của một
tâm hồn trước lúc đi xa. Bài thơ đã góp vào bản hợp xướng một nột trầm làm
xao xuyến lòng người để gần ba mươi năm qua đi mà dư âm của nó vẫn còn
sâu lắng…
* Đề 4: Phân tích ngắn gọn khổ thơ cuối.
- Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối)
Như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu
hiện của các khổ thơ trên đem lại thi vị Huế trìu mến tha thiết.
“Mùa xuân - ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phác tiền đất Huế".
- Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết
thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn
hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa
xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hoà vào vĩnh viễn. Nhưng đây không
phải là lời ca buồn thủa trước “nhịp phác tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa.
- “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi.
Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ
lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát
và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa
xuân. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm
một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn
tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sỹ
11
Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc,
xúc động, còn mãi với đời.
IV. Một số câu hỏi nhỏ:
Câu 1: Nêu ý nghĩa nhan đề bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”.
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của
nhà thơ.
- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp
đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.
- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá
nhân và cộng đồng.
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống
đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một
mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời
chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là
chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Câu 2: Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi” sang phần sau lại
dùng đại từ “ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng
ấy của chủ thể trữ tình.
- Tôi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất.
- Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể
trữ tình từ “tôi” sang “ta”. Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã
được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến
của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “Tôi đưa tay tôi
hứng” ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ,
vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa
xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm
xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương.
- Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng
được dâng hiến giá trị tinh tuý của đời mình cho đời chung thì đại từ “ta” lại
tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước.
- Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bao
thế hệ người Việt Nam đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái “tôi”
12
của tác giả đã thay cho nhiều cái “tôi” khác, nó đã hoá thân thành cái “ta”.
Nhưng “ta” mà không hề chung chung vô hình, mà vẫn nhận ra được một
giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” Thanh Hải.
Câu 3: Trong hai câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”,
có người hiểu “giọt long lanh” là giọt mưa xuân, có người lại cho là giọt
âm thanh tiếng chim ở câu thơ trước đó. Nêu cách hiểu của em và phân
tích hai câu thơ đó?
- Nếu hiểu là “giọt mưa xuân” cũng có chỗ hợp lý: nét quen thuộc của khung
cảnh mùa xuân và dễ gợi cảm xúc xôn xao trong lòng người. Nhưng có chỗ
chưa thật hợp lý: mưa xuân thường nhẹ và ấm… (Bữa ấy mưa xuân phơi phới
bay – Nguyễn Bính) chứ không thể tạo thành giọt.
- Cách hiểu thứ hai hợp lý hơn:
+ Liền mạch với câu thơ trước.
+ NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh
tiếng chim (chuyển đổi cảm giác). Tiếng chim từ chỗ là âm thanh, chuyển
thành từng giọt, từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm
nhận bằng xúc giác. -> Diễn tả niềm say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ
đẹp của thiên nhiên, trời đất lúc vào xuân.
Hiểu từ “giọt” trong hai câu thơ trên là giọt mưa (hay giọt sương) cũng có
chỗ hợp lý. Mưa xuân cũng là một nét quen thuộc của khung cảnh mùa xuân và
dễ gợi cảm xúc xôn xao trong lòng người. Nguyễn Bính viết “Bữa ấy mưa
xuân phơi phới bay” (Mưa xuân), vì mưa xuân thường nhẹ và ấm không giá
lạnh như trong tiết đông. Nhưng cũng có chỗ chưa thật hợp lý, vì mưa xuân
thường là mưa bụi, mưa nhỏ, khó có thể tạo thành từng giọt long lanh rơi. Cách
hiểu “giọt” là giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện xuất phát từ chỗ cho rằng
giữa câu thơ này với hai dòng thơ trước nó là liền mạch. Hiểu như vậy thì câu
thơ, không dừng lại ở tả thực mà là biểu hiện một sự chuyển đổi cảm giác:
Tiếng hót lánh lót, vang vọng, trong trẻo của con chim chiền chiện được cảm
nhận như một dòng âm thanh tuôn chảy. Trong ánh sáng tươi rạng rỡ của trời
xuân, giọt âm thanh cũng long lanh và nhà thơ nâng niu, trân trọng đưa tay đón
lấy từng giọt âm thanh đó. (Tuy nhiên cách hiểu sau không quen thuộc với bút
pháp vốn bình dị của thơ Thanh Hải).
13
Câu 5: Viết đoạn văn quy nạp từ 9 -> 15 câu với chủ đề: “ Bài thơ “Mùa
xuân nho nhỏ” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn đầy
sức sống.”
Gợi ý:
- Viết đoạn văn quy nạp tức là câu chủ đề phải đưa xuống cuối đoạn văn
(chú ý có từ liên kết: Quả thật, có thể nói…).
- Để làm rõ câu chủ đề trên, cần phân tích khổ thơ đầu tiên của bài thơ: Mùa
xuân của thiên nhiên, đất trời.
+ Vài nét phác hoạ của tác giả về mùa xuân: dòng sông xanh, bông hoa tím
biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời.
+ Không gian cao rộng (với dòng sông, với mặt đất, bầu trời bao la), cả sắc
màu tươi thắm của mùa xuân (sông xanh, hoa tím biếc – màu tím đặc trưng của
xứ Huế), cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện hót vang trời.
+ Cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ: được diễn tả ở chi tiết rất tạo
hình: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”.
Gợi ý: Bức tranh thiên nhiên mở đầu bằng không gian tháng đãng, yên ả, thơ
mộng. Đó là không gian của một dòng sông xanh. Dòng sông ấy gợi nhắc đến
sông Hương thơ mộng của Xứ Huế và không gian của mùa xuân không ngừng
được mở rộng với tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện. Chiền chiện
vốn là loài chim báo tin xuân, hình ảnh của nó xuất hiện trong khổ thơ khiến
người đọc có cảm giác không gian như được trải đầy một sắc xuân. Thanh Hải
lựa chọn màu sắc trẻ trung, tươi tắn và căng tràn sức sống cho bức tranh mùa
xuân của mình. Đó là màu xanh của dòng sông hoà lẫn màu xanh của bầu trời.
Là một màu tím biếc đến nao lòng của xứ Huế. Nhưng bức tranh này không chỉ
có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Chỉ có điều ở đây tiếng chim hót
như trở nên cụ thể, hữu hình, thành hình khối long lanh náo nức để có thể đưa
tay ra mà hứng, mà nâng niu. Quả thật, Thanh Hải với lòng yêu thiên nhiên say
đắm đã thể hiện mọi bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
Câu 6: Em hiểu tên bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” gắn bó như thế nào với
quan niệm sống của tác giả?
Gợi ý: Tiêu đề bài thơ gắn bó chặt chẽ với quan niệm sống của tác giả. Bài
thơ có tên “Mùa xuân nho nhỏ”, đó là mùa xuân khiêm tốn, nhỏ bé, hữu hạn
14
của mỗi con người trước mùa xuân lớn lao hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.
Thanh Hải ước ao mình là “Một mùa xuân nho nhỏ”, một tiếng chim, một cành
hoa, một nốt nhạc trầm xao xuyến để nhập vào bản hoà ca chung của dân tộc.
Tác giả quan niệm rằng mỗi con người dù trẻ hay già, suốt cả cuộc đời đều
phải cống hiến, dù đó chỉ là sự cống hiến nhỏ bé, bình dị nhưng xuất phát từ
tình cảm tự nguyện và chân thành.
ViÕng l¨ng B¸c
I. Nhà thơ Viễn Phương.
- Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang.
- Trong k/c chống Pháp, ông hoạt động ở Nam Bộ.
- Là một trong những cây bút có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải
phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
- Thơ Viễn Phương nhỏ nhẹ, chân thành, tình cảm.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết
thúc, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành,
tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ "Viếng lăng Bác"
được sáng tác trong dịp đó, và in trong tập "Như mây mùa xuân” (1978).
2. Giá trị nghệ thuật:
15
- Giọng thơ trầm lắng, tha thiết, trang nghiêm
- Sáng tác nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, vừa sâu sắc, vừa mang ý nghĩa khái quát
và giá trị biểu đạt cao.
- Cảm xúc chân thành, sâu lắng.
- Ngôn ngữ bình dị, cô đúc.
- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: Kết cấu đầu cuối tương ứng, điệp từ,
nhân hoá.
3. Giá trị nội dung: Bài thơ là tấm lòng thành kính, lòng biết ơn vô hạn của
nhà thơ nói riêng và nhân dân VN nói chung với Bác.
* Cảm xúc chủ đạo: Niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự
hào pha lẫn nỗi đau xót khi nhà thơ từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Đó cũng là
thứ tình cảm chùng của đồng bào miền Nam.
III. Phân tích bài thơ:
*Đề 1: Phân tích khổ 1 bài thơ
1. Mở bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam
– đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi
năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà
thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là
một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Với giọng thơ trầm lắng, tha thiết, cách
sáng tạo nhiều hình ảnh ẩn dụ mới mẻ, độc đáo, Viễn Phương đã diễn tả thành
công lòng biết ơn vô hạn và sự xúc động sâu sắc khi nhà thơ ra thăm lăng Bác.
Tình cảm chân thành ấy được nhà thơ ghi lại ngay trong khổ thơ đầu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
2. Thân bài
a. Khái quát: Bài thơ là tiếng lòng của đứa con xa về thăm người cha già đã
mất. Trong tình cảm thương nhớ của VP và cũng là của tất cả mọi người dân
VN đều có 2 thứ tình cảm đan xen, xuyên thấm vào nhau. Đó là tình cha – con
ruột thịt và tình quần chúng – lãnh tụ thiêng liêng. Tuy hai mà một. Đó chính là
phẩm chất cao đẹp của tình cảm nhân dân với Bác.
16
b. Phân tích: Trong giây phút đầu tiên thăm làng, thì tình cha - con trào dâng,
xúc động nghẹn ngào.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
- Tiếng “Con” cất lên ngọt ngào tha thiết. Đó là đại từ xưng hô vừa chỉ những
người có mối quan hệ ruột thịt, vừa mang đậm tính địa phương Nam Bộ. Nhà
thơ tự coi mình là một đứa con của bác. Bởi từ trong sâu thăm đáy lòng ông,
Bác luôn là người cha nhân hậu, hiền từ. Đúng như nhà thơ Tố Hữu nói:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha.
- Đứa con ấy từ miền Nam xa xôi ra thăm Bác. Hai tiếng “miền Nam” gợi lên
một địa danh vừa phải trải qua bao khói lửa chiến tranh. Đó là nơi đi trước về
sau, là mảnh đất “Thành đồng Tổ quốc”, là nơi Bác vẫn đau đáu một khát vọng
đến thăm và người dân cũng khao khát mong ngày độc lập để đón Bác, để giờ
đây, khát vọng ấy mãi mãi không thực hiện được.
- Đến đây, vào viếng lăng Bác, nhà thơ đã nói tránh đi là “thăm”. Cách điễn đạt
này không chỉ làm giảm bớt đi sự đau buồn mà còn khẳng định tình cảm của
nhà thơ với Bác. Đối với nhà thơ, Bác không hề đi xa mà Người vẫn như còn
sống, còn hiển hiện trong ngôi nhà sàn giản dị. Và VP - đứa con vượt ngàn
trùng xa cách về thăm người cha già kính yêu đang ngày đêm theo dõi bước
chân của những đứa con xa.
- Nhưng dù có nói tránh đi như vậy, dù VP có cố gắng không nghĩ đến sự ra đi
của Bác thì giữa “Con” với “Bác” vẫn là khoảng cách xa vời vợi. Đó không
phải là khoảng cách của không gian, thời gian đơn thuần mà là khoảng cách
của âm dương cách trở. Hai đại từ “Con – Bác” được đặt ở đầu câu như kéo dài
thêm khoảng cách đó.
- Tình cảm cha – con trào dâng để rồi lại lắng xuống khi nhà thơ nhìn thấy:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
- Từ miền Nam, sau bao năm khỏi lửa chiến tranh, đây là lần đầu tiên nhà thơ
đặt chân lên mảnh đất Ba Đình lịch sử. Hai từ “ trong sương” gợi liên tưởng
nhà thơ ra thăm lăng Bác từ rất sớm. Điều đó cho thấy VP khao khát được ra
17
thăm Bác biết nhừng nào. Theo dòng người vào viếng lăng Bác, nhà thơ bắt
gặp một hình ảnh quen thuộc mà bao năm đã in hằn vào tiềm thức: Hàng tre
xanh bát ngát. Sự xúc động khiến nhà thơ bật lên câu cảm thán “Ôi, hàng tre
xanh xanh Việt Nam’. Thán từ “¤i!” ThÓ hiÖn sù xóc ®éng cña nhµ th¬ tríc
h×nh ¶nh hàng tre quen thuộc. Tre vốn là biểu tượng của con người và dân tộc
VN. Hàng tre xanh màu dân tộc, xanh màu xứ sở tượng trưng cho cốt cách,
phẩm chất, dáng đứng của người VN, của dt VN: kiên cường, bất khuất, ngay
thẳng, thanh cao, mộc mạc. Có thể nói, hàng tre là nhân chứng suốt chiều dài
lịch sử, chứng kiến bao thăng trầm của đất nước VN.
- “Báo táp mưa sa” là thành ngữ chỉ khó khăn gian khổ, những cam go ác liệt
mà dân tộc ta đang phải đương đầu. Câu thơ lại một lần nữa khẳng định tấm
lòng thuỷ chung son sắt của người dân VN với Bác. Dù có phải trải qua bao
nhiêu khó khăn ác liệt của cuộc trường trinh thì tấm lòng người dân VN với
Bác vẫn không hề thay đổi. Từ hình ảnh hàng tre bên lăng, nhà thơ liên tưởng
đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của con người và dân tộc VN, Trong
cái nhìn xúc động của nhà thơ, hàng tre vừa thực, vừa ảo, lung linh trong tâm
tưởng. Hàng tre ấy cũng chính là h/ả cây cối mang màu đất nước tụ hội về đây
canh giữ giấc ngủ cho Người. Hàng tre ấy cùng như những chiến sĩ canh giấc
cho Bác. Đó cũng chính là h/ả dân tộc trung thành, thủy chung, gắn bó bên
Người.
c. Đánh giá nâng cao: Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã diễn tả được
niềm xúc động nghẹn ngào khi vừa đặt chân đến lăng Bác. Đồng thời còn nói
lên được một cách sâu sắc tấm lòng thuỷ chung, sự gắn bó, bền chặt của người
dân VN với Bác.
3. Kết bài. Bài thơ là tiếng lòng của đứa con xa dành cho người cha già kính
yêu. Đó không chỉ là t/c của riêng nhà thơ mà là t/c của hàng triệu người dân
Việt Nam đối với Bác. Và chúng ta tin rằng, nơi cõi vĩnh hằng xa xôi, Bác đã
nghe được tiếng trái tim ấy của muôn triệu người dân dành cho Bác.!
Đề 2: Phân tích khổ 2 và khổ 3 bài thơ.
1. Mở bài:
18
- “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ hay viết về
Bác sau ngày Bác Hồ “đi xa”.
- Bài thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình
lăng Bác được hoàn thành sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước được
thống nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước được viếng lăng
Bác.
- Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà
thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Đọc khổ
hai và ba của bài, ta sẽ cảm nhận được tình cảm đó.
2. Thân bài:
a. Khái quát: Bước vào lăng, tình cha - con ruột thịt hoà quyện trong tình cảm
lãnh tụ – quần chúng thiêng liêng. Và trong cái giây phút nhiệm màu khi đứng
trước di hài của Bác, cảm hứng của nhà thơ đã thăng hoa để tạo nên những
hình ảnh tuyệt đẹp về Người.
b. Phân tích:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
- Hình tượng Bác được cảm nhận từ tầm vóc vĩ đại của một vĩ nhân. Câu thơ
có cấu trúc sóng đôi với sự sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. Cả hai câu thơ đều sử
dụng hình ảnh “Mặt trời”. Ở câu thơ thứ nhất là hình ảnh mặt trời thực. Mặt
trời của thiên nhiên vũ trụ đem ánh sáng, sự sống đến cho vạn vật trên trái đất.
Nếu không có mặt trời, Trái đất sẽ tối tăm, không có sự sống. Hình ảnh “mặt
trời” trong câu thơ thứ hai là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. Với người dân
VN, Bác chính là mặt trời. Bác đã soi sáng cho cách mạng và sưởi ấm trái tim
mỗi chúng ta. Bác đã đưa dân tộc ta từ màn đêm của nô lệ tối tăm đến ánh sáng
của một cuộc đời từ do và hạnh phúc. Công đức, tên tuổi , sự nghiệp của Bác
chói sáng và trường tồn vĩnh hằng như mặt trời.
- Có nhiều lời thơ so sánh Bác với mặt trời như “ Người rực rỡ như mặt trời
cách mạng”, “ Bác như ánh mặt trời xua màn đêm giá lạnh” nhưng so sánh
Bác nằm trong lăng như mặt trời rất đỏ trong cái nhìn chiêm ngưỡng hàng ngày
của mặt trời tự nhiên là một sáng tạo độc đáo, mới mẻ, là hình ảnh xuất thần
của VP. Bởi nhà thơ nhận ra rằng: Ngay cả khi nằm trong lăng, Người vẫn là
mặt trời đỏ sóng đôi, trường tồn cùng với mặt trời tự nhiên. Chi tiết đặc tả “ rất
19
đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì tổ quốc, vì nhân dân, trái tim yêu thương vô
hạn của Bác.
- Đặc biệt, trong khổ thơ này nhà thơ đã sử dụng điệp từ “Ngày ngày” để diễn
tả một hiện tượng đã thành quy luật bình thường, đều đặn của cuộc sống. Đó là
vòng quay vô tận, khép kín của thòi gian. Điệp từ “ngày ngày” cùng với hình
ảnh “mặt trời” đã góp phần vĩnh viễn hoá, bất tử hoá hình tượng Bác Hồ trong
lòng mọi người, giữa thiên nhiên, vũ trụ. Mặt khác ca ngợi sự vĩ đại, công lao
trời biển của Bác với các thế hệ con người VN.
- Ở câu thơ thứ ba điệp từ “Ngày ngày” được lặp lại, nhưng lại mang một ý
nghĩa khác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân
- Nhìn dòng người nối nhau vào lăng viếng Bác, nhà thơ liên tưởng đến những
“ tràng hoa”. Đó là cách nhìn rất thơ. Tục ngữ có câu: “Người ta là hoa đất”.
Đó là những con người mà cuộc đời đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những
con người ấy, hàng ngày đi trong một không gian đặc biệt - không gian dâng
đầy tình thương nỗi nhớ để vào lăng viếng Bác. Với điệp từ “ ngày ngày”, tác
giả đã khẳng định tình cảm của nhân dân ta với Bác cũng tự nhiên, gần gũi như
đất trời, cũng vĩnh hằng như quy luật vận động của vũ trụ, của thời gian. Tất
cả những con người VN đang dâng lên cho con người “ bảy mươi chín mùa
xuân ấy” những gì tốt đẹp nhất. “ Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán
dụ đặc sắc cho cuộc đời Bác. Đó là cuộc đời của một con người đã sống đẹp
như những mùa xuân. Và Bác đã hi sinh mùa xuân của c/đ mình để làm ra
mùa xuân vĩnh hằng cho đất nước, cho dân tộc.
* Khổ 3: Theo dòng người vào viếng lăng Bác, nhà thơ đã xúc động nghẹn
ngào khi đứng trước di hài của người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
- Nếu ở khổ thơ trên, hình ảnh Bác được cảm nhận từ tầm vóc của một vĩ nhân
thì ở khổ thơ này nhà thơ lại cảm nhận Bác từ tình cảm, tâm hồn của một người
cha rất đỗi thân thương, gần gũi.
20
- Hai câu thơ mang ý nghĩa tả thực nhưng gợi sự liên tưởng: Nhìn Bác nằm
trong lăng, nhà thơ ngỡ Bác đang nằm ngủ – một giấc ngủ bình yên sau bao
năm sóng gió của cuộc đời. Cách nói giảm nói tránh này vừa làm giảm đi sự
đau buồn vừa khẳng định Bác còn sống. Người chỉ ngủ một giấc ngủ bình yên
sau bao năm sóng gió của cuộc đời.
Nhà thơ Hải Như cũng đã từng viết: Cả cuộc đời Người có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ, chúng con canh giấc ngủ.
- Nếu như Hải Như muốn được canh giấc ngủ cho Người thì giờ đây VP lại để
cho vầng trăng ôm ấp, toả sáng giấc ngủ của Bác. Từ ánh sáng màu xanh dịu
mát trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến “Vầng trăng sáng dịu hiền”. Vầng trăng
– biểu tượng của đất nước thanh bình, tươi đẹp. Hơn nữa, lúc sinh thời, trăng
vốn là người bạn tâm giao của Bác. Giờ đây, khi Người đã đi vào cõi vĩnh
hằng, thì trăng lại trở thành người bạn đồng hành, canh giữ giấc ngủ cho
Người.
- Câu thơ thể hiện vẻ đẹp của một tâm hồn trong sáng, thanh cao, một phong
thái ung dung tự tại của Bác. Bác vẫn sống và mãi sống cùng non nước thanh
bình. Bác đang ngủ một giấc bình yên, trong một không gian bình yên, khi đất
nước đã bình yên. Sau 30 năm kháng chiến trường kì của dân tộc thì đến nay
Bác mới có được giây phút yên bình.
- Với hình ảnh mặt trời, vầng trăng, trời xanh, nhà thơ đã tạo ra một hệ thống
hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, lúc dịu hiền
như ánh trăng rằm. Hình tượng “mặt trời, vầng trăng trời xannh đã cô đúc
được vẻ đẹp vừa vĩ đại vừa thanh cao của Bác. Đó chính là sự kết hợp hài hòa
giữa sự nghiệp phi thường và cái rất bình dị, đời thường trong người con đẹp
nhất VN ấy.
- Tất cả chỉ để nói lên nỗi đau to lớn và sự mất mát không gì bù đắp được:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
- Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp như một câu ghép chính phụ. Câu thơ trên
là lời của lí trí. Lí trí khẳng định Bác còn sống mãi. Bác đã hòa nhập vào trời
xanh, vào những gì cao cả, vĩnh hằng. Bác đã hoá thân vào sự nghiệp chung
của dân tộc, vào non sông đất nước Việt Nam. Bác còn mãi như “ trời xanh”
21
còn mãi ở trên đầu. Tên tuổi của Bác, công đức của Bác, sự nghiệp của Bác
mãi mãi trường tồn cùng với non sông đất nước, với con người Việt Nam.
Nhưng tình cảm lại nhói đau. Một nỗi đau có thể cảm nhận được cụ thể, rõ
ràng. Đó là cảm xúc thực của nhà thơ khi đối diện với sự thật phũ phàng: Bác
đã mất. Bởi sinh – lão – bệnh – tử là quy luật của tạo hoá. Và không ai có thể
đi ngược lại quy luật ấy. Đến đây, nhà thơ cảm thấy “nhói trong tim”. Với
động từ “nhói” VP đã diễn tả cụ thể, rõ ràng cảm giác đau đớn khi đứng trước
di hài của Bác. Đó là nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm xuyên vào trái tim
đau đớn, nhức nhối. Nỗi đau không thể nói thành lời, nỗi đau của đứa con thật
sự mất cha. Càng nhận ra sự bất tử, vĩnh hằng của Bác thì càng đau nỗi đau
mất Bác. Câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào…
c. Đánh giá nâng cao: Cả hai khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp niềm thương nhớ
và xót thương vô hạn. Khổ nào cũng đầy ắp những ẩn dụ đẹp và trang nhã thể
hiện sự thăng hoa của tình cảm nâng cao tâm hồn con người. Qua đó ta thấy,
hình tượng Bác trong bài thơ được VP cảm nhận và thể hiện một cách toàn
diện, đa chiều. Nhà thơ đã nhận ra sự thống nhất hài hoà vốn có trong con
người Bác. Đó là vẻ đẹp vừa cao cả, vĩ đại vừa bình dị, hiền hoà.
3. Kết bài
…………………………………………………….
Đề 3 : Phân tích khổ 4 của bài thơ
1. Mở bài:
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát nghệ thuật và nội dung: Bằng phép điệp ngữ và sử dụng những
hình ảnh giản dị, VP không chỉ nói lên tấm lòng kính yêu và sự tiếc thương vô
hạn với Bác mà còn nói lên khát vọng được ở mãi bên Bác.
2. Thân bài:
a. Khái quát:
b. Phân tích: Từ miền Nam xa xôi, đứa con của Nam Bộ đã vượt ngàn trùng xa
cách về thăm người cha già kính yêu. Khi đứng trước di hài của Người, VP
không khỏi bồi hồi xúc động. Một tình cảm yêu thương sâu sắc, một sự tiếc
nuối vô cùng cứ trào dâng. Nhà thơ mong muốn thời gian như ngừng lại để
22
mình đứng mãi bên Bác. Những cuộc gặp gỡ nào cũng đến lúc phải chia li. Tuy
còn đứng trong lăng nhưng nghĩ đến lúc phải xa Bác, VP thấy bịn rịn tiếc nuối
vô cùng.
Mai về Miền Nam thương trào nước mắt
- Tình cảm của VP trong suốt thời gian trên luôn cứ sâu lắng, đau lặng lẽ
nhưng đến giây phút này, VP không thể nào ngăn được nữa. Ngày mai VP phải
xa khỏi nơi đây, xa người cha kính yêu của mình
- Câu thơ “Mai về miền Nam dâng trào nước mắt” như một lời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Từ "trào" diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt. Đó là sự xúc động nghẹn ngào
sâu sắc. Người đọc như cảm nhận được những giọt nước mắt tuôn trào. Đứa
con của Thành đồng tổ quốc bản lĩnh trước kẻ thù bao nhiêu thì lại yếu đuối
khi đối diện với người cha già bấy nhiêu.
+ Nhà thơ còn thấy thật luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ ->
Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau. Được gần
bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm
áp quá, rộng lớn quá.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết : Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta thấy bên Người một chút.
Chỉ được gần Người, dù chỉ trong giây phút thôi cũng thấy ấm áp, vô cùng.
- Trước khi phải rời xa nơi này, nhà thơ mong ước.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Muốn làm con chim hót -> âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành.
+ Muốn là đoá hoa -> toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ.
+ Muốn làm cây trẻ trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
- Điệp từ “Muốn làm” biểu cảm trực tiếp và gián tiếp -> tâm trạng lưu luyến,
ước muốn, sự tự nguyên chân thành của tác giả. Đặc biệt là khẳng định chí
hướng thuỷ chung với cách mạng, khẳng định sự gắn bó của miền Nam với
Bác.
23
- c nguyn thnh kớnh ca Vin Phng cng l mong c chung ca
nhng ngi ó hoc cha mt ln no gp Bỏc.
- Hỡnh nh cõy tre xut hin khộp li bi th mt cỏch khộo lộo. Hỡnh nh ny
to nờn cu trỳc va trựng lp, va phỏt trin ý th. Nu kh th u, t hỡnh
nh thc ca hng tre bờn lng, nh th y lờn thnh hỡnh nh tng trng cho
c t nc, c dõn tc kiờn cng bt khut quanh ngi, th hin rừ ý chớ v
nguyn vng ca ngi thỡ n cõu th ny s vn ng theo chiu ngc li.
T s mong mun trong tõm tng luụn c mói bờn Bỏc, nh th i n
nhng hỡnh nh c th th hin ý nguyn ú.
- Ta trân trọng nâng niu những ớc vọng cao đẹp của nhà thơ. Đã gần 40 năm từ
ngày ấy mà tấm lòng kính yêu của nhân dân ta với vị cha già của dân tộc vấn
không một chút mai một. Tình cảm của nhân dân và của tác giả đã làm bit
bao th h xúc động sâu sắc. Xin nguyện nh Viễn Phơng : sống một cuộc đời
đẹp để trở thành những bông hoa đẹp dâng Bác.
Bi th kt thỳc trong s xa cỏch v khụng gian nhng li gn trong tõm
tng, trong tỡnh cm v ý chớ. Ngi bc chõn i nhng lũng li, v cuc
ving thm ca ng bo min Nam õu cú kt thỳc
3. Kt bi:
Viếng lăng Bác là bài thơ đẹp về hình ảnh, hay về cảm xúc đã để lại trong
lòng ngời đọc niềm xúc động sâu xa. Bài thơ là những giai điệu sâu lắng của
niềm thành kính thiêng liêng, nỗi nhớ thơng luyến tiếc mà những ngời con
Miền Nam nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung dành cho Bác.
.
* 4: Nhn xột v bi th Ving lng Bỏc, giỏo s Trn ỡnh S vit:
Bn kh th, kh no cng y p n d, nhng nhng n d p v
trang nhó, th hin s thng hoa ca tỡnh cm cao c, nõng cao tõm hn con
ngi Ving Lng Bỏc ca VP l mt úng gúp quý bỏu vo kho tng thi ca
vit v Ch Tich H Chớ Minh, lónh t v i kớnh yờu ca dõn tc.
( c vn hc vn,m NXB Giỏo dc 2002)
Qua bi th, em hóy lm sỏng t ý kin trờn
Gi ý:
1. M bi: Gii thiu tỏc gi, tỏc phm
24
- Đến thăm Người, cảm xúc của nhà thơ VP đã thăng hoa để tạo nên
những h/ả ẩn dụ tuyệt đẹp
- Chính vì thế, khi đọc bài thơ này, giáo sư Trần Đình Sử viết:
“ Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang
nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người.
Viếng Lăng Bác của VP là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về
Chủ Tich Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc”.
2. Thân bài:
a. Nhận xét về ý kiến của giáo sư: Hoàn toàn đúng. Nhà thơ đã xây dựng
thành công hai hệ thống h/ả ẩn dụ. Những h/ả “những ẩn dụ đẹp và trang nhã,
thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người”…
b. Phân tích:
* Luận điểm 1: Hệ thống h/ả ẩn dụ ca ngợi Bác
- Mặt trời - Trời xanh - Vầng trăng
* Luận điểm 2: Tình cảm của người dân dành cho Bác.
- Hàng tre – dòng người – cây tre.
c. Đánh giá nâng cao: Khẳng định ý kiến.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị bài thơ. Liên hệ bản thân.
Câu 5 : Trong bài thơ « Viếng lăng Bác », VP viết : « kết tràng hoa dâng bảy
mươi chín mùa xuân ».
Dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của từ, từ « mùa xuân » có thể thay thế cho
từ nào ? Theo phưong thức chuyển nghĩa nào ? Việc thay thế từ trên có tác
dụng diễn đạt gì?
Gợi ý : Mỗi một năm xuân đến, con người lại thêm một tuổi. Cho nên « 79
mùa xuân » cũng được hiểu là 79 tuổi, 79 năm trong một đời người. Nếu để từ
« tuổi » thì chỉ nói được BH đã sống 79 năm, thọ 79 tuổi, câu thơ chỉ thuần tuý
chỉ tuổi tác. Còn dùng từ « Xuân » có nghĩa là : cả cuộc đời Bác là 79 năm
cống hiến cho nhân dân, 79 năm dành cho đất nước để đất nước có sắc xuân.
Thêm nữa, kết « tràng hoa dâng 79 mùa xuân » gợi thêm sắc xuân bên lăng
Bác. Và từ « mùa xuân » như làm cho xúc cảm của câu thơ, âm điệu câu thơ
thêm mượt mà, sâu lắng, thiết tha. Câu thơ hay, ý thơ trở nên đa nghĩa và sâu
sắc hơn.
25