1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủng ngừa, hay tiêm phòng hoặc tiêm chủng là những thuật ngữ chỉ việc đưa
vào cơ thể vắc xin (VX) - chế phẩm có tính kháng ngun, có nguồn gốc từ vi sinh
vật, đã được bào chế đảm bảo độ an toàn cần thiết, bằng đường tiêm, đường uống,
rỏ hoặc hít…làm cho cơ thể tự tạo ra tình trạng miễn dịch chống lại tác nhân gây
bệnh [7][15]. Trung bình hàng năm, tiêm chủng đã cứu sống khoảng 3 triệu người
trên toàn thế giới, khống chế và loại trừ được nhiều căn bệnh truyền nhiễm [17].
Tổ chức y tế thế giới ước tính trên tồn thế giới có khoảng 16 tỷ chỉ định
tiêm hàng năm. Tiêm khơng an tồn là nguyên nhân gây ra hàng triệu ca nhiễm vi
rút Viêm gan B (HBV), vi rút Viêm gan C (HCV) và HIV/AIDS mỗi năm, đặc biệt
ở các nước đang phát triển. Thêm vào đó bệnh nhân, nhân viên y tế và cộng đồng
còn gặp phải nguy cơ từ việc huỷ bơm kim tiêm khơng đúng cách. Vì vậy tiêm an
tồn là vấn đề rất được quan tâm trên thế giới [10].
Tiêm chủng là một chỉ định tiêm rất cần thiết để nâng cao sức khoẻ cộng
đồng. Trong những năm gần đây, khi hoạt động tiêm chủng đã thực hiện được
thường xuyên và tỷ lệ tiêm chủng luôn đạt cao trên 90%, tỷ lệ mắc của các bệnh
thuộc tiêm chủng mở rộng đã giảm đi đáng kể, an toàn tiêm chủng được coi là mục
tiêu hàng đầu của chương trình y tế nhiều quốc gia trên thế giới [10].
Việt Nam được Quốc tế thừa nhận là điểm sáng về công tác TCMR trong các
nước đang phát triển. Chính sách quốc gia về an toàn tiêm chủng được bắt đầu từ
năm 2000 bằng việc dùng bơm kim tiêm sử dụng một lần và hộp an toàn để thu
gom bơm kim tiêm đã sử dụng [8]. Tuy nhiên những tổng kết đánh giá về an tồn
tiêm chủng tại Việt Nam tới nay có rất ít. Sau sự cố một số trẻ em bị tai biến và
một trường hợp tử vong có liên quan tới tiêm chủng vac xin tại TP Hồ Chí Minh
tháng 5 năm 2006 vừa qua số trẻ em đi tiêm chủng giảm rõ rệt, có nơi giảm tới 30 –
2
40%[16], Bộ Y tế Việt Nam và Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo cần phải tiếp tục
duy trì thường xun chương trình tiêm chủng vì lợi ích sức khoẻ của trẻ em và
cộng đồng, nhưng việc tiêm phòng phải tuân thủ các qui định về an toàn tiêm
chủng, cần thanh tra kiểm tra định kỳ, đột xuất việc thực hiện an toàn tiêm chủng tại
tất cả các điểm tiêm [3].
Qua quan sát thực tế tại quận Cầu Giấy chúng tôi nhận thấy hoạt động tiêm
chủng diễn ra rất phong phú: Tiêm chủng tại nhà, tiêm chủng tại trạm y tế phường,
tiêm tại nơi khác…Trong buổi tiêm chủng hàng tháng còn hiện tượng ùn tắc, 1 số
trẻ ra tiêm chủng khơng có phiếu, nhân viên y tế khơng rửa tay trước khi tiêm hoặc
không đeo găng tay, không đeo khẩu trang khi tiêm…Bên cạnh đó việc theo dõi
phản ứng sau tiêm chủng chỉ mới được báo cáo từ tháng 7 năm 2006. Hiện chưa có
nghiên cứu nào về an toàn tiêm chủng trên địa bàn Hà Nội. Mặc dù chưa có những
phản hồi của người dân về tình trạng tiêm chủng khơng an tồn nhưng một câu hỏi
đặt ra rằng: Vậy việc thực hiện an toàn tiêm chủng tại quận Cầu Giấy như thế
nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến an tồn tiêm chủng tại quận Cầu Giấy?
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu Mô tả thực trạng an toàn tiêm chủng
và một số yếu tố liên quan trong việc tiêm vac xin phòng bệnh cho trẻ dưới 2 tuổi
tại quận Cầu Giấy, giúp các nhà quản lý y tế địa phương có cái nhìn đầy đủ hơn về
an toàn tiêm chủng tại quận Cầu Giấy và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng cơng tác tiêm chủng phịng bệnh cho trẻ em, và để khẩu
hiệu “Tiêm chủng là hạnh phúc của trẻ thơ” được thực hiện với đầy đủ ý nghĩa
của nó.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
3
1. Mục tiêu chung:
Mơ tả thực trạng an tồn tiêm chủng và một số yếu tố liên quan trong việc tiêm
vac xin phòng bệnh cho trẻ dưới 2 tuổi tại quận Cầu Giấy, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng cơng tác tiêm chủng phịng bệnh cho trẻ em.
2. Mục tiêu cụ thể:
1. Mô tả thực hành an toàn tiêm chủng trong các buổi tiêm chủng hiện nay tại
quận Cầu Giấy.
2. Mô tả kiến thức, thực hành của nhân viên y tế và bà mẹ có con dưới 2 tuổi về
an tồn tiêm chủng.
3. Mơ tả mối liên quan giữa kiến thức và thực hành an toàn tiêm chủng của nhân
viên y tế, của bà mẹ.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
1.1.
VẮC XIN:
1.1.
Bản chất vắc xin:
Vắc xin là những chế phẩm được sản xuất từ những vi khuẩn, vi rút, ký sinh
trùng hoặc độc tố của chúng đã được làm yếu, làm giảm độc lực hoặc làm bất hoạt
nhưng vẫn đủ khả năng kích thích cơ thể người sinh ra kháng thể đặc hiệu chống lại
chúng [20] [15] [9].
Thành phần của vắc xin gồm: Kháng nguyên đặc hiệu, nước, muối đệm, chất
bảo quản (Như Thiomersal hoặc phenol), chất ổn định (Sorbitol và Hydrolysed
getalin trong MMR hoặc MgCl2 trong OPV), tá chất (Muối nhơm trong AT, DPT).
Ngồi ra có thể có các thành phần khác như: Chất tồn dư của môi trường nuôi cấy
(Tổ chức não chuột trong vắc xin dại Fluenzalida), kháng sinh neomycin,
streptomycine trong IPV, Varicella vắc xin [19].
1.2.
Phân loại vắc xin:
Có nhiều cách phân loại vắc xin. Nếu căn cứ vào bản chất sinh học, có thể
chia vắc xin thành 3 loại truyền thống:
- Vắc xin giải độc tố: Là loại vắc xin được sản xuất từ ngoại độc tố của vi
khuẩn, đã làm mất tính độc nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên.
- Vắc xin chết (bất hoạt): Là vắc xin được sản xuất từ vi sinh vật đã bị giết
chết, có thể là tồn bộ hay một phần vi sinh vật, có thể là protein hoặc
polysaccharide.
- Vắc xin sống giảm độc lực: Loại vắc xin này được sản xuất từ vi sinh vật
gây bệnh đã được làm giảm độc lực, hoặc làm yếu khơng cịn khả năng gây bệnh
bằng cách ni cấy nhiều lần trong phịng thí nghiệm [15].
Ngồi ra hiện nay cịn các loại vắc xin khác có tính an tồn và hiệu quả cao
như vắc xin Polysaccharide/Oligosaccharide và vắc xin tái tổ hợp, vắc xin DNA
(Đang nghiên cứu) [20].
1.3.
Bảo quản vắc xin:
5
Vắc xin rất dễ hỏng nếu không được bảo quản đúng. Mỗi lần tiếp xúc với
nhiệt độ cao thì hiệu lực của vắc xin giảm dần, không hồi phục.
Các vắc xin giải độc tố như vắc xin Uốn ván, Bạch hầu cịn bị hỏng bởi
nhiệt độ đơng băng. Trong một vài trường hợp việc mất hiệu lực vắc xin cũng có
thể là nguyên nhân làm cho vắc xin có nhiều phản ứng phụ hơn. Gần đây người ta
nhận thấy rằng vắc xin bị đông băng trở nên nguy hiểm nhất ở những nơi thực hành
phân phối kém, vì vậy ở tất cả các tuyến y tế hiện nay cần được bảo quản và vận
chuyển vắc xin trong điều kiện từ 2 đến 8 độ C và không được để đông băng. Tất cả
vắc xin đông khô sau khi pha hồi chỉnh đều trở nên rất nhạy cảm với nhiệt độ cao
và chỉ sử dụng sau khi pha 6h.
Các vắc xin sống như vắc xin Sởi, Lao, Bại liệt uống còn nhạy cảm với ánh
sáng, vì vậy thường được đựng trong lọ sẫm màu [14].
Ngoài nhiệt độ và ánh sáng, các chất tẩy uế, sát trùng đều có thể phá huỷ vắc
xin. Nếu các dụng cụ tiêm chủng được khử trùng bằng hố chất thì chỉ cần một
lượng rất ít dính lại cũng có thể làm hỏng vắc xin. Vì vậy các dụng cụ tiêm chủng
trước khi dùng phải được rửa sạch sau đó khử trùng ở nhiệt độ cao bằng luộc hoặc
hấp [15].
Không bao giờ được để dung môi bị đơng băng bởi vì nếu bị đơng băng lọ
thuỷ tinh có thể bị nứt hoặc vỡ và như vậy dung mơi có thể bị nhiễm khuẩn. Khi
pha hồi chỉnh vắc xin, dung môi phải cùng nhiệt độ với vắc xin. Dung mơi có thể
đơn giản là nước, nhưng thường có thành phần muối và khoáng chất khác để làm
bền vững vắc xin sau khi pha hồi chỉnh, mỗi loại vắc xin địi hỏi một loại dung mơi
khác nhau vì vậy không thể dùng chung dung môi, cũng tương tự như vậy dung môi
được sản xuất của nhà máy này chỉ được phép dùng pha vắc xin tương ứng của nhà
máy đó khơng thể dùng để pha vắc xin được sản xuất từ nhà máy khác [14].
Vắc xin và dung môi cần bảo quản một cách thận trọng như vậy nên một
trong những công việc quan trọng trong việc tổ chức tiêm chủng là cần phải thiết
lập một hệ thống dây chuyền lạnh. Hệ thống dây chuyền lạnh bao gồm con người,
các phương tiện, các dụng cụ bảo quản, vận chuyển và phân phối vắc xin từ nơi sản
6
xuất đến nơi sử dụng. Ở các tuyến khác nhau cần các dụng cụ dây chuyền lạnh khác
nhau để vận chuyển và bảo quản vắc xin và dung môi ở nhiệt độ thích hợp. Khi vắc
xin tới y tế cơ sở cần phải được bảo quản trong tủ lạnh, vắc xin đang sử dụng trong
buổi tiêm chủng để trên miếng xốp trong phích vắc xin với bình tích lạnh hoặc đá ở
phía dưới để đảm bảo nhiệt độ bảo quản vắc xin [14] [15].
Để kiểm tra nhiệt độ bảo quản vắc xin dùng chỉ thị nhiệt độ, thẻ theo dõi
nhiệt độ dây chuyền lạnh, nhiệt kế và chỉ thị đông băng. Nhưng với tuyến y tế cơ sở
chỉ có thể sử dụng nhiệt kế đo nhiệt độ tủ lạnh, phích vắc xin và chỉ thị nhiệt độ.
Chỉ thị nhiệt độ là nhãn hình trịn ở giữa là 1 hình vng nhỏ được dán lên lọ
vắc xin. Hình vng bên trong sẫm màu dần khi lọ vắc xin tiếp xúc với nhiệt độ cao
hơn nhiệt độ cho phép. Khi hình vng bên trong sẫm màu hơn hình trịn bên ngồi
thì phải huỷ bỏ vắc xin. Chỉ thị nhiệt độ không bị thay đổi bởi nhiệt độ đơng băng.
Vì vậy trước khi sử dụng vắc xin dễ hỏng bởi đông băng phải chắc chắn rằng chỉ thị
nhiệt độ ở tình trạng tốt và vắc xin không bị đông băng. Muốn biết vắc xin có bị
đơng băng hay khơng cần làm nghiệm pháp lắc.
Nghiệm pháp lắc cần có lọ vắc xin làm chứng, đó là lọ vắc xin cùng lơ loạt
và cùng nơi sản xuất đã đông băng ở nhiệt độ -10 độ C ít nhất trong 10 tiếng và sau
đó làm tan ở nhiệt độ thường. Quan sát lọ vắc xin chứng và lọ vắc xin cần kiểm tra
sau khi lắc mạnh trong khoảng 10-15 giây và để 2 lọ đứng yên trên mặt bàn, nếu lọ
cần kiểm tra lắng cặn chậm hơn lọ chứng thì chứng tỏ lọ cần kiểm tra không bị
đông băng, nếu tốc độ lắng cặn như nhau thì lọ cần kiểm tra có thể đã bị đơng băng,
không nên sử dụng nữa [14].
1.4.
Phản ứng do vắc xin:
Thực chất vắc xin rất an toàn. Hầu hết các phản ứng phụ của vắc xin đều
nhẹ, xảy ra tạm thời như sốt nhẹ, sưng tại chỗ tiêm (Bảng 1) [13]. Đây là những
phản ứng phụ cho phép) [16]. Những phản ứng này có thể là một phần đáp ứng
miễn dịch của cơ thể, ngồi ra có thể do một số thành phần của vắc xin như tá chất,
chất bảo quản vắc xin. Có thể có những phản ứng mạnh, đây là những phản ứng có
7
hại do vắc xin, nhưng thường rất hiếm [15]. Phản ứng sốc nặng cũng có thể qua
khỏi nếu điều trị thích hợp (Bảng 2) [13].
Bảng 1.1. Những phản ứng nhẹ, thường gặp của vắc xin và cách điều trị
(Tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới – WHO)
Dễ bị kích thích,
Vắc xin
BCG
Viêm gan B
Phản ứng tại chỗ
(đau, sưng, đỏ)
Sốt > 38 độ C
cảm giác khó
chịu, triệu chứng
-
tồn thân
-
1 - 6%
-
10%
5 – 15%
5% phát ban
-
Dưới 1%
Dưới 1%*
10% **
10%
25%
Tới 50%
Tới 50%
Tới 55%
90 - 95%
người lớn: 15%
trẻ em: 5%
Sởi/ Sởi – Quai
bị - Rubella/ Sởi
– Rubella
Bại liệt uống
(OPV)
Uốn ván/ DT/Td
DTP (Ho gà
toàn tế bào)
Cách điều trị
- Chườm lạnh vào
- Bù dịch
- Bù dịch
chỗ tiêm
- Mặc quần áo
- Paraxetamol
- Paraxetamol ***
mát
***
- Lau mình hay
tắm nước ấm
- Paraxetamol
***
* Những triệu chứng bao gồm tiêu chảy, nhức đầu, đau cơ.
**Tỷ lệ phản ứng tại chỗ tăng đối với những liều tiêm nhắc lại, tới 50 đến 80%.
*** Paraxetamol: 15mg/kg cách 4h 1 lần, tối đa 4 lần trong 24h.
Bảng 1.2. Những phản ứng hiếm gặp của vắc xin, thời gian xuất hiện và tỷ lệ
8
(Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới Tây Thái Bình Dương, 1999)
Vắc xin
BCG
Viêm gan
B
Sởi *
Bại liệt
uống **
Uốn ván
Bạch hầu –
ho gà - uốn
ván (DPT –
Ho gà toàn
tế bào)
Phản ứng
Thời gian xuất
hiện
Số phản ứng/
1 triệu liều
Viêm hạch có mủ
2-6 tháng
sử dụng
100-1000
Viêm xương BCG
1-12 tháng
0,01-300
Nhiễm khuẩn BCG lan toả
1-12 tháng
0,19-1,56
Sốc phản vệ
0-1 giờ
1-2
Những cơn co giật có sốt
6-12 ngày
330
Giảm tiểu cầu
15-35 ngày
30
Phản ứng quá mẫn cấp (dị ứng
0-2 giờ
10
Sốc phản vệ
0.1 giờ
1
Bệnh não
0.2 6-12 ngày
<1
Liệt mềm liên quan tới vắc xin
4-30 ngày
0,4
Viêm dây thần kinh cánh tay
2-28 ngày
5-10
Sốc phản vệ
Cơn khóc thét dai dẳng (trên 3
0-1 giờ
0-24 giờ
0,4-10
(0,1-6%)
nặng)
giờ)
1.000-60.000
Những cơn sốt cao co giật***
0-2 ngày
80-570
Giảm trương lực, giảm phản xạ
0-24 giờ
30-990
Sốc phản vệ
0-1 giờ
20
Hội chứng não
0-2 ngày
0-1
* Phản ứng (trừ sốc phản vệ) không xảy ra ở trẻ em đã được miễn dịch, những trẻ
em trên 6 tuổi hầu như không bị những cơn sốt kịch phát.
** Nguy cơ bại liệt do vắc xin cao hơn đối với liều đầu tiên (1/750.000 so với 1/5,1
triệu trường hợp với những liều tiếp theo) và với những người lớn bị suy giảm miễn
dịch.
9
*** Sốt cao co giật tuỳ thuộc vào tuổi, nguy cơ xảy ra ít hơn ở những trẻ em < 4
tháng tuổi.
Nguyên nhân của phản ứng có hại do vắc xin không phải dễ dàng phát hiện
được trong mọi trường hợp, bởi vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khó kiểm sốt,
ngồi vắc xin được đưa vào cơ thể cịn có yếu tố quan trọng đó là trạng thái cơ thể
lúc được tiêm chủng. Mỗi loại vắc xin đều có chống chỉ định hoặc tạm hỗn chỉ
định dùng đối với tình trạng sức khoẻ khơng bình thường của cơ thể và những điều
đó được ghi rõ trong bản hướng dẫn sử dụng vắc xin của các nhà sản xuất. Như vậy
để gây miễn dịch chủ động phòng bệnh bằng vắc xin và loại trừ phản ứng có hại do
tiêm chủng, mọi người cần được kiểm tra sức khoẻ trước khi tiêm chủng để đảm
bảo cho cơ thể được tiếp nhận vắc xin an toàn và hiệu quả.
1.2.
TIÊM CHỦNG:
1.2.1. Khái niệm về tiêm chủng:
Tiêm chủng là đưa vắc xin vào cơ thể người thơng qua đường tiêm, uống,
hít, rỏ mũi... để kích thích cơ thể sinh ra kháng thể đặc hiệu chống lại mầm bệnh
tương ứng khi chúng xâm nhập cơ thể [7].
1.2.2. Lợi ích khi tiêm chủng và nguy cơ khi khơng tiêm chủng:
Tiêm chủng là biện pháp phịng bệnh chủ động có hiệu quả tốt và ít tốn kém
nhất trong các hoạt động y tế [7] [20].
Tiêm chủng phịng bệnh là cần thiết cho mọi đối tượng có nguy cơ nhiễm
bệnh mà chưa có miễn dịch, đặc biệt là trẻ em. Miễn dịch thụ động nhờ kháng thể
do mẹ truyền qua rau thai hoặc qua sữa chỉ tồn tại một thời gian, trung bình
khoảng 6 tháng [19], và chỉ có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu do
miễn dịch dịch thể, cịn khơng có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ là miễn
dịch qua trung gian tế bào. Vì vậy trẻ có thể mắc một số bệnh ngay từ những tháng
đầu tiên sau khi sinh. Nếu trẻ không được tiêm vắc xin, trẻ sẽ có nguy cơ nhiễm
bệnh và sẽ có nguy cơ tử vong hoặc tàn phế do bệnh truyền nhiễm gây lên [15].
Tiêm phịng cho từng cá nhân cũng góp phần bảo vệ sức khoẻ cho cộng
đồng, đặc biệt cho những người không được miễn dịch, bao gồm trẻ chưa đến tuổi
10
tiêm vắc xin, những người không được tiêm chủng do các nguyên nhân y tế (như
những bệnh nhân bị bạch cầu cấp, AIDS) và những người khơng có đáp ứng miễn
dịch đầy đủ với tiêm chủng. Sự lan truyền mần bệnh trong cộng đồng sẽ bị hạn chế.
Tiêm chủng sẽ làm chậm lại hoặc chặn đứng các vụ dịch [18].
1.2.3. Chống chỉ định trong tiêm chủng:
Diện chống chỉ định tiêm chủng có hướng dẫn riêng đối với từng loại vắc
xin, nhưng nói chung khơng được tiêm chủng cho các đối tượng sau:
-
Đang bị sốt cao trên 37,5 độ C, đang nhiễm trùng cấp tính.
-
Đang trong tình trạng dị ứng.
-
Đang điều trị thuốc làm suy giảm miễn dịch, hoặc đang bị bệnh ác tính.
-
Có phản ứng mạnh như sốt cao co giật, sốc hoặc các triệu chứng về thần kinh
khác trong vòng 3 ngày đầu sau tiêm vắc xin.
-
Tất cả các vắc xin sống giảm độc lực không được tiêm cho phụ nữ đang
mang thai hoặc những người thiếu hụt miễn dịch [15][19].
1.2.4. Kỹ thuật tiêm chủng:
Liều lượng, vị trí và đường tiêm khác nhau tuỳ loại vắc xin:
-
Tiêm bắp đối với các vắc xin chứa tá chất
-
Tiêm dưới da đối với các vắc xin sống
-
Tiêm trong da đối với BCG để tránh tổn thương thần kinh mạch máu nhưng
vẫn đảm bảo tính sinh miễn dịch [4] [19].
Bảng 1.3: Kỹ thuật tiêm một số vắc xin
Vắc xin
BCG
Liều lượng
Đường tiêm
Trẻ sơ sinh: Tiêm trong da
0.05mg/ 0,1ml
Trẻ > 1 tuổi:
0,1mg/ 0,1ml
DPT, DT
0.5ml
Tiêm bắp
OPV
2 giọt
Uống
Vị trí tiêm
Mặt ngồi phía trên
cánh tay trái – Qui định
thống nhất chung của
WHO để kiểm tra sẹo
cho dễ.
Với trẻ nhỏ nên tiêm
mặt ngoài giữa đùi
Miệng
11
Viêm gan B (do Trẻ < 10 tuổi:
Việt Nam sản 10µg/ 0,5ml
xuất)
Trẻ > 10 tuổi:
20µg/ 1ml
Sởi, Sởi- Quai 0,5ml
bị- Rubella
Uốn ván, Bạch 0,5ml
hầu- uốn ván
Hib
0,5ml
Tiêm bắp
Tiêm dưới da
Với trẻ nhỏ tiêm mặt
ngoài giữa đùi
Trẻ lớn tiêm phần trên
cánh tay
Phần trên cánh tay trái
Tiêm bắp
Mặt ngoài giữa đùi
Viêm màng não 0,5ml
do não mô cầu
Thương hàn
0,5ml
Tiêm dưới da Phần trên cánh tay
hoặc tiêm bắp
Tiêm dưới da Phần trên cánh tay
hoặc tiêm bắp
Uống
Miệng
Tiêm dưới da Trẻ nhỏ: Mặt ngoài
hoặc tiêm bắp giữa đùi
Trẻ lớn: Phần trên cánh
tay
Viêm não Nhật Trẻ < 5 tuổi: Tiêm dưới da
Phần trên cánh tay
Bản
0,5ml
Trẻ > 5 tuổi: 1ml
Tả
1,5ml
1.2.5. Thực hiện vô trùng trong tiêm chủng:
Trong tiêm chủng cần đảm bảo vô trùng ở mọi khâu:
- Vắc xin phải đảm bảo vô khuẩn: Cần lưu ý khi sản xuất, bảo quản và sử
dụng vắc xin tránh để vắc xin bị nhiễm khuẩn.
- Dụng cụ tiêm chủng vô khuẩn: Sử dụng BKT đảm bảo vô trùng. Hiện nay
CTTCMR thường sử dụng BKT sử dụng 1 lần hoặc bơm tự khoá. Tuy nhiên một số
nơi không đủ cung cấp hoặc cung cấp khơng kịp thời, hoặc trong tiêm chủng thu phí
có tự đi mua BKT sử dụng 1 lần, nhưng cần phải mua BKT có nguồn gốc rõ ràng và
khơng được sử dụng những BKT đã thủng rách túi bảo quản hoặc quá hạn sử dụng.
Sau khi sử dụng BKT phải được bỏ ngay vào thùng huỷ (Hiện nay CTTCMR cung
cấp hộp an toàn để các điểm tiêm chủng thu gom BKT đã sử dụng). Và BKT được
huỷ bằng cách thiêu đốt hoặc chơn sâu dưới đất ít nhất 50cm.
12
- Sự chuẩn bị của nhân viên y tế đúng qui định: Bàn tay sạch sẽ (Phải rửa
sạch bằng xà phịng, lau khơ trước khi làm các thao tác tiêm) Có đầy đủ khẩu trang,
mũ, quần áo BLu sạch sẽ gọn gàng.
- Xử lý tại vết tiêm sau khi tiêm chủng đúng: Tại vết tiêm sau khi tiêm chủng
không cần phải bơi bất cứ thứ gì để tránh nhiễm trùng tại vết tiêm.
- Địa điểm tiêm chủng phải sạch, tránh gây bụi, xa các nguồn ô nhiễm, đủ
ánh sáng. Đảm bảo đủ rộng để thực hiện 1 chiều, tránh ùn tắc để tránh lấy nhiễm
chéo [9].
1.2.6. Qui trình tiêm chủng:
Khi tiêm chủng vắc xin cần tn thủ qui trình:
- Thơng báo chi tiết về lợi ích khi sử dụng và nguy cơ khi không sử dụng vắc xin.
- Kiểm tra việc chuẩn bị để đối phó với những phản ứng phụ tức thời xảy ra.
- Cán bộ y tế cần nắm chắc các thông tin về sản phẩm vắc xin.
- Đảm bảo chắc chắn vắc xin còn hạn sử dụng và nhiệt độ bảo quản tốt
- Cung cấp cho cha mẹ hoặc người đi kèm các câu hỏi có liên quan tới chỉ định và
chống chỉ định trước khi sử dụng vắc xin.
- Kiểm tra họ tên người được sử dụng vắc xin.
- Tiêm đúng kỹ thuật về chủng loại, liều lượng và đường tiêm
- Nói cho cha mẹ hoặc người đi kèm về những phản ứng thông thường và những
phản ứng nặng cần đưa ngay đến cơ sở y tế gặp sau khi tiêm vắc xin
- Ghi phiếu theo dõi tiêm chủng và hẹn thời gian tiêm lần sau[19].
1.3.
AN TỒN TRONG TIÊM CHỦNG:
Tiêm chủng khơng an tồn là tiêm chủng gây cho người được tiêm, nhân
viên y tế và cộng đồng những tác hại khó lường. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị
rằng: Tất cả các mũi tiêm đều phải được đảm bảo an toàn. Tiêm chủng là rất cần
thiết cho nên đảm bảo an toàn trong tiêm chủng là nhiệm vụ hàng đầu [9].
1.3.1. Tác hại xảy ra do tiêm chủng khơng an tồn:
- Mắc các bệnh lây truyền qua đường máu đặc biệt nguy hiểm như Viêm gan
B,C,D, vi rút HIV có thể lây truyền từ người mang mầm bệnh sang các đối tượng
13
khác do dụng cụ tiêm chủng bị nhiễm bẩn, lây sang cán bộ y tế do bị kim đâm trong
khi tiêm chủng, lây cho cộng đồng khi các dụng cụ tiêm chủng mang mầm bệnh
khơng được huỷ đúng cách, cịn tồn tại trong cộng đồng.
- Nhiễm trùng tại chỗ hoặc nhiễm khuẩn huyết do dụng cụ tiêm chủng không
được tiệt khuẩn, vắc xin bị nhiễm trùng, thao tác vô khuẩn khi tiêm không đúng, xử
lý tại vết tiêm sau khi tiêm chủng sai.
- Viêm hạch bạch huyết, hoặc viêm dây thần kinh do kỹ thuật tiêm sai: Tiêm
sai vị trí, tiêm quá sâu, tiêm quá liều lượng.
- Có thể gây choáng, sốc phản vệ, hoặc xảy các phản ứng mạnh sau tiêm
chủng do không tuân theo chỉ định và chống chỉ định.
- Chấn thương do bị kim đâm [9].
1.3.2. Các yếu tố đảm bảo an toàn trong tiêm chủng:
Để đảm bảo an tồn trong tiêm chủng cần có vắc xin đảm bảo an toàn từ lúc
sản xuất đến bảo quản, vận chuyển và sử dụng, tiêm đúng kỹ thuật, đúng liều lượng,
thực hiện tốt vô khuẩn, đúng các chỉ định và chống chỉ định trong tiêm chủng [9].
Các vắc xin, đặc biệt các vắc xin trong CTTCMR, sau khi sản xuất đều được
cơ quan kiểm định nhà nước kiểm tra chặt chẽ về mặt vô trùng, thuần khiết và
không độc. Vì vậy trong các khâu cịn lại chủ yếu phụ thuộc các thực hành tiêm
chủng. Các sai sót trong thực hành tiêm chủng là các sai sót do con người hơn là do
bản chất vắc xin hoặc do kỹ thuật, có thể được phịng tránh bằng cách tập huấn cho
cán bộ, và cung cấp đầy đủ trang thiết bị để tiêm chủng an toàn [13] [18] [9].
Bảng 1.4: Một số sai sót thường gặp và cách phịng tránh [13]
Sai sót trong tiêm
Cách phịng tránh
chủng và hậu quả
1.Tiêm khơng vơ - Dùng 1 BKT vô khuẩn cho 1 mũi tiêm
khuẩn: áp xe, viêm - Bỏ ngay BKT sau khi sử dụng vào hộp an tồn
mơ tế bào, nhiễm - Đảm bảo vô trùng khi pha hồi chỉnh vắc xin đông khô
trùng
huyết,
hội - Đảm bảo tiêm vô khuẩn
chứng sốc nhiễm - Vắc xin đã pha hồi chỉnh:
14
độc, nhiễm HIV, + Bảo quản lạnh 2-8 độ C, sử dụng càng sớm càng tốt
viêm gan B, C và + Chỉ sử dụng vắc xin trong vòng 6 giờ sau khi pha hồi
các bệnh lây nhiễm chỉnh ngay cả khi bảo quản lạnh tốt
qua đường máu..
+ Không vận chuyển vắc xin đã pha hồi chỉnh từ điểm
tiêm chủng này đến điểm tiêm chủng khác
+ Không lấy sẵn vắc xin vào bơm tiêm để vận chuyển tới
các điểm tiêm chủng.
2. Chuẩn bị vắc xin - Dùng đúng dung môi của nhà sản xuất để pha hồi chỉnh
không đúng: Pha vắc xin.
hồi chỉnh dung môi - Cách pha dung môi đúng: Pha tồn bộ số dung mơpi có
sai, lấy nhầm thuốc trong lọ dung môi với lọ vắc xin, lắc nhẹ cho tan đều, lắc
hoặc dung môi gây đều lọ vắc xin trước khi hút vắc xin vào bơm tiêm.
phản ứng tại chỗ - Tránh lấy nhầm thuốc bằng cách:
hoặc áp xe, phản + Bảo quản vắc xin trong tủ lạnh riêng, không để thuốc
ứng thuốc.
khác hoặc thực phẩm chung với vắc xin.
+ Kiểm tra nhãn lọ vắc xin và dung môi ( hạn sử dụng,
nơi sản xuất...) trước khi sử dụng.
+ Chỉ hút vắc xin vào bơm tiêm ngay trước khi tiêm,
không hút sẵn vắc xin vào bơm tiêm.
3. Tiêm không đúng - Tiêm vắc xin đúng liều lượng, vị trí, đường tiêm.
vị trí gây phản ứng - Tiêm vắc xin DPT và viêm gan B vào mặt ngoài giữa
tại chỗ hoặc gây áp đùi của trẻ. Nếu tiêm 2 loại vắc xin này cùng 1 buổi tiêm
xe, tổn thương dây chủng thì phải tiêm ở 2 đùi khác nhau.
thần kinh.
4.Vận chuyển và - Đảm bảo dây chuyền lạnh hoạt động tốt. Thường xuyên
bảo quản vắc xin theo dõi nhiệt độ tủ lạnh bảo quản vắc xin.
không đúng: Vắc - Vận chuyển, bảo quản vắc xin:
xin bị đông băng + Khơng để vắc xin tiếp xúc trực tiếp với bình tích lạnh
gây phản ứng tại hoặc đá
chỗ.
+ Để lọ vắc xin đã mở lên tấm xốp trong phích vắc xin
15
trong buổi tiêm chủng
5. Không quan tâm - Khám phân loại trước khi tiêm chủng
đến chống chỉ định, - Theo đúng hướng dẫn về chỉ định và chống chỉ định của
không khám phân mỗi loại vắc xin và khuyến cáo của nhà sản xuất.
loại
có
những
thể
phản
trùng hợp
gặp - Khơng tiêm đối với các trường hợp có tiền sử phản ứng
ứng mạnh với liều tiêm trước
- Hoãn tiêm đối với các trường hợp hiện tại đang ốm sốt,
mắc các bệnh nhiễm trùng cấp tính và đặc biệt khơng nên
tiêm khi khơng được sự đồng ý của cha mẹ trẻ.
1.4.
TÌNH HÌNH TIÊM CHỦNG VÀ AN TỒN TIÊM CHỦNG TRÊN THẾ
GIỚI:
1.4.1. Tình hình tiêm chủng trên thế giới:
Từ rất xa xưa con người đã có những cách phịng bệnh, mà về bản chất có
những nét giống như vắc xin ngày nay. Nhưng việc sử dụng vắc xin mang tính khoa
học chính thống được bắt đầu cách đây hơn 200 năm sau khám phá của EDWARD
JENNER (1749 – 1823) [5][15].
Tiêm chủng phịng bệnh đã góp phần rất lớn đẩy lùi nhiều bệnh tật và giảm
tỷ lệ tử vong cho con người, góp phần quan trọng hạn chế những di chứng gây tàn
phế dai dẳng cho bệnh nhân, tiết kiệm chi phí cho gia đình và xã hội [17]. Tuy
nhiên, theo ước tính hàng năm có khoảng 100 triệu trẻ em sinh ra tại các nước đang
phát triển cần được tiêm chủng nhưng trong những năm 70 của thế kỷ trước mới có
khoảng 20% được tiêm chủng, vì vậy hàng năm ở các nước này vẫn có khoảng 5
triệu trẻ em khác bị tàn tật, di chứng vì các bệnh truyền nhiễm trẻ em là bạch hầu,
ho gà, uốn ván, sởi, bại liệt, lao [7]. Vì vậy năm 1974, Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) đã đề xướng và vận động các nước thành viên thực hiện một chương trình
có ích trong khn khổ các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu nhằm thực hiện
mục tiêu “Sức khoẻ cho tất cả mọi người vào năm 2000”. Đó là Chương trình Tiêm
chủng mở rộng (CTTCMR), viết tắt theo tiếng Anh là EPI (Expanded Programe on
Immunization) [7]. Mục đích của Chương trình là mở rộng, phát triển cơng tác tiêm
16
chủng cho toàn thể trẻ em trên thế giới đặc biệt trẻ em ở các nước đang phát triển.
CTTCMR đã nhận được sự ủng hộ của tất cả các nước thành viên, các tổ chức trên
thế giới.
Nhờ có tiêm chủng mà bệnh Đậu mùa đã từng giết chết 2 triệu người mỗi
năm cho tới cuối những năm 1960. Đã từng là dịch bệnh trên các châu lục, Bại liệt
giờ đây chỉ còn giới hạn ở Châu phi và Nam Á. Các nước châu Mỹ đã tuyên bố
thanh toán được căn bệnh Bại liệt vào năm 1994, sau đó là khu vực Tây Thái Bình
Dương (2000) và châu Âu (2002). 2/3 số nước đang phát triển đã loại trừ được uốn
ván sơ sinh. Còn số trường hợp tử vong do Sởi được báo cáo giảm từ 6 triệu xuống
còn 1 triệu/ năm, số mắc Ho gà đã giảm từ 3 triệu trường hợp/ năm xuống chỉ còn
250.000 trường hợp, số mắc Bạch hầu đã giảm từ 80.000 trường hợp năm 1975
xuống còn 10.000 trường hợp hiện nay, vắc xin phòng Haemophilus influenza B
(Hib) đã làm giảm 90% tỷ lệ mắc bệnh Viêm màng não do Hib ở Châu Âu trong 10
năm [18]. Năm 1990, hơn 100 triệu trẻ em dưới 1 tuổi trong các nước phát triển,
80% tổng số trẻ em tồn cầu đã được tiêm chủng thành cơng phịng chống bệnh sởi,
bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt và lao nhờ CTTCMR [7].
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, CTTCMR vẫn cịn phải đối mặt với
nhiều khó khăn thách thức: Bệnh Bại liệt vẫn còn lưu hành nặng ở một số nước
châu Phi, châu Á với hàng ngàn ca mắc năm 1999, đặc biệt ở Ấn Độ, Bangladesh,
Pakistan, Congo...Trong tình hình thế giới hiện nay, sự giao lưu giữa các nước trên
thế giới sẽ là điều kiện thuận lợi cho dịch xâm nhập trở lại các nước đã thanh tốn.
Uốn ván vẫn cịn là một bệnh lưu hành phổ biến ở các nước đang phát triển. Sởi vẫn
là bệnh có số mắc và tử vong cao ở trẻ em, hàng năm có trên 40 triệu trường hợp
mắc bệnh và trên 1 triệu tử vong do sởi, chiếm 10% tổng số trẻ em tử vong dưới 5
tuổi. Viêm gan vi rút B là bệnh có tỷ lệ mắc và mang vi rút cao, đặc biệt châu Á và
Đông Nam Á, tỷ lệ mang dấu ấn vi rút Viêm gan B trong dân cư là 15 – 20%, và
đây là bệnh mà WHO khuyến cáo sử dụng vắc xin rộng rãi vào đầu thế kỷ
21...Ngoài ra hiện nay nhiều bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện chưa có vắc xin
phịng như: HIV/AIDS, SARS, Cúm gà. Trước mắt nhân loại đang tập trung tìm
17
hiểu nguyên nhân gây dịch, chủ động phòng và dập dịch bằng nhiều biện pháp tổng
hợp, song không thể bỏ qua giải pháp toàn diện, triệt để nhất là sử dụng vắc xin.
Mặt khác vẫn phải tiếp tục tìm kiếm các vắc xin hữu hiệu phòng chống các bệnh
truyền nhiễm và không truyền nhiễm khác như: Sốt Dengue/ sốt xuất huyết Dengue,
Sốt rét, Bò điên, Phong cùi hủi, Tim mạch, Ung thư, Dị ứng...[2] [4] [5] [9] [21] [22].
1.4.2. Tình hình an tồn tiêm chủng trên thế giới:
Mặc dù có những bước tiến đáng kể như vậy nhưng việc tiêm chủng cũng
gây ra nhiều tranh cãi vì thế giới đã chứng kiến những sự cố tiêm chủng khơng an
tồn dẫn tới việc ngừng tiêm chủng: Năm 1995 ở Mỹ 79 trẻ bị bại liệt trong số
400.000 trẻ sử dụng vắc xin Salk (Vắc xin Bại liệt tiêm), nguyên nhân do người
sáng chế vắc xin này đề xuất không đầy đủ qui trình bất hoạt vi rút trong sản xuất.
Tại Vương quốc Anh, mối lo lắng của người dân về các nguy cơ liên quan tới vắc
xin Ho gà trong những năm 1970 khiến tỷ lệ tiêm chủng giảm (trước kia cao tới
80%). Số ca mắc hàng năm theo báo cáo là 2000-8000. Khi tỷ lệ tiêm chủng giảm
xuống tới 30%, số mắc ho gà tăng vọt tới trên 100.000 trường hợp, gây nhiều
trường hợp tử vong và nhập viện lẽ ra có thể tránh được [18].
Bên cạnh đó, theo WHO hàng năm trên tồn thế giới ước tính có khoảng 800
triệu mũi tiêm được thực hiện trong tiêm chủng. Theo điều tra của WHO tại 4/6 khu
vực thấy rằng có tới 30% số mũi tiêm chủng là khơng an tồn[9]. Tiêm khơng an
tồn cịn là ngun nhân gây ra hàng triệu ca nhiễm HBV, HCV, và HIV/AIDS mỗi
năm. Ở các nước đang phát triển, mỗi năm có khoảng ¼ trong tổng số 21 triệu ca
nhiễm mới HBV do tiêm không an tồn. Tiêm khơng an tồn cũng là ngun nhân
gây mắc 2 triệu ca nhiễm mới HCV và khoảng 250.000 ca nhiễm mới HIV/AIDS
mỗi năm.
1.5.
TÌNH HÌNH TIÊM CHỦNG VÀ AN TỒN TIÊM CHỦNG TẠI VIỆT
NAM:
1.5.1. Tình hình tiêm chủng tại Việt Nam:
CTTCMR bắt đầu được triển khai ở Việt Nam từ năm 1981 với sự hỗ trợ của
WHO và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEP), với mục tiêu Phổ cập tiêm
18
chủng cho toàn thể trẻ em dưới 1 tuổi trong cả nước được tiêm chủng đầy đủ 6 loại
kháng nguyên (Lao, Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Bại liệt và Sởi) vào năm 1990.
Giai đoạn từ năm 1980 – 1985: Làm thí điểm và mở rộng dần CTTCMR một
số địa phương. Kết quả giai đoạn đầu đạt được là 20,8% số trẻ em dưới 1 tuổi ở 20
tỉnh thành được tiêm chủng và giảm trên 40% tỷ lệ mắc 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em
so với thời kỳ 1976 – 1980.
Từ năm 1986 – 1990 TCMR đã triển khai trên phạm vi cả nước, Tiêm chủng
thường xuyên thay thế dần Tiêm chủng chiến dịch. Đạt được mục tiêu phổ cập tiêm
chủng cho hơn 80% trẻ em dưới một tuổi trong cả nước. Tuy nhiên chất lượng tiêm
chủng còn là vấn đề phải cố gắng.
Trong giai đoạn từ năm 1991 – 2000 CTTCMR đã khơng cịn để xã trắng về
tiêm chủng, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ 6 bệnh truyền nhiễm phổ biến cho trẻ dưới 1
tuổi liên tục đạt trên 90% . Năm 1997 triển khai 4 vắc xin mới Viêm gan B, Tả,
Thương hàn và Viêm não Nhật Bản. Tháng 12 năm 2000 CTTCMR hồn thành
mục tiêu thanh tốn bệnh Bại liệt. Năm 1999 và năm 2000 tổ chức chiến dịch thí
điểm tiêm nhắc mũi 2 vắc xin sởi với tỷ lệ cao 99,7% trẻ em dưới 10 tuổi.
Từ năm 2001 – 2005 duy trì được những thành quả đã đạt và tỷ lệ tiêm
chủng đầy đủ 6 loại vắc xin cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt trên 90%, tiêm đủ liều vắc
xin uốn ván cho phụ nữ có thai đạt trên 80% và nữ tuổi sinh đẻ đạt trên 90% ở các
huyện có nguy cơ cao. Từ năm 2001 triển khai các chiến dịch tiêm vắc xin sởi mũi
2 cho trẻ từ 9 tháng tới dưới 10 tuổi trên toàn quốc và chiến dịch tiêm bổ sung vắc
xin phịng chống dịch sởi cho học sinh phổ thơng cơ sở, phổ thông trung học, 80%
đối tượng vùng nguy cơ cao được tiêm vắc xin viêm gan B, viêm não Nhật Bản,
thương hàn và uống vắc xin tả. Năm 2002, vắc xin viêm gan B được triển khai trên
61 tỉnh, thành phố, kết quả 987.615 trẻ em dưới 1 tuổi trên cả nước.
Sau hơn 20 năm hoạt động, CTTCMR đã thu được những thành quả to lớn
và được Quốc tế thừa nhận là điểm sáng về công tác TCMR trong các nước đang
phát triển với các kết quả: Thanh toán bệnh bại liệt năm 2000, loại trừ được uốn ván
sơ sinh được đánh giá và công nhận tháng 12 năm 2005, số mắc bệnh sởi từ
19
125.176 ca/ năm 1984 chỉ còn 227 ca/ năm 2004, tỷ lệ mắc ho gà giảm 183 lần, tỷ lệ
mắc bệnh bạch hầu ở trẻ em giảm từ 3,9/100.000 dân (năm 1985) xuống còn
0,05/100.000 dân (năm 2004).
Thành quả đạt được sau 20 năm triển khai TCMR là rất lớn song vẫn còn
nhiều tồn tại và thánh thức:
- Bệnh bại liệt chưa được thanh tốn trên tồn cầu, nhiều nước đã thanh toán
Bại liệt nay lại bị vi rút hoang dại xâm nhập và trở thành lưu hành. Mục tiêu loại trừ
UVSS đã đạt song những yếu tố tác động tới việc bảo vệ thành quả rất cao: tỷ lệ đẻ
tại nhà cao, tỷ lệ đẻ và chăm sóc rốn khơng vơ khuẩn vẫn cịn phổ biến ở những
vùng miền núi, vùng xa, khó khăn. Bệnh Sởi, Bạch hầu, Ho gà chỉ mới được khống
chế. Sự lơ là trong công tác TCMR sẽ tạo điều kiện cho bệnh phát triển, đặc biệt
vùng núi, khó khăn.
- Nhiều loại vắc xin phịng chống các bệnh truyền nhiễm phổ biến và nguy
hiểm ở trẻ em chưa được triển khai trong chương trình TCMR hoặc chỉ triển khai
trong những vùng nguy cơ cao như: Tả, Thương hàn, viêm não Nhật Bản. Vắc xin
Hib, Rubella, Quai bị và nhiều vắc xin khác chưa được đưa vào CTTCMR mặc dù
áp lực bệnh tật của các bệnh này ở Việt nam là rất rõ rệt.
- Kinh phí TCMR của Nhà nước đầu tư còn hạn hẹp chỉ đáp ứng được 60%
nhu cầu của công tác TCMR. Đội ngũ người làm công tác TCMR bị thay đổi nhiều,
thiếu cán bộ y tế thôn bản, lương và phụ cấp thấp, chưa hợp lý, chưa khuyến khích
được người làm cơng tác này[7] [8]
1.5.2. Tình hình an tồn tiêm chủng tại Việt Nam:
Ngay từ giai đoạn mới triển khai CTTCMR tại Việt Nam việc thực hiện qui
chế chuyên môn kỹ thuật ở các khâu trong dây chuyền sản xuất vắc xin đã được
kiểm tra nghiêm ngặt. Từ 1986 – 1990 BKT sử dụng trong tiêm chủng là BKT nhựa
hoặc thuỷ tinh sử dụng nhiều lần. Dụng cụ khử trùng BKT là nồi hấp. Một số cơ sở
ngại sử dụng nồi hấp hoặc sử dụng sai kỹ thuật khử trùng BKT [8]. Giai đoạn 1991
– 2000 CTTCMR đã đưa BKT sử dụng 1lần vào sử dụng và dùng hộp an toàn để
thu gom BKT đã sử dụng. Song nguy cơ không đảm bảo vô khuẩn mũi tiêm vẫn
20
còn do: Xuất hiện những BKT sử dụng 1 lần giả, có một nhóm người đã đóng gói
lại những BKT đã sử dụng để tung ra thị trường, và trong 1 số ít trường hợp có thể
dùng lại BKT vào cuối buổi tiêm chủng khi số lượng BKT chuẩn bị cho buổi tiêm
chủng thiếu. Từ năm 2002, CTTCMR được sự hỗ trợ của liên minh toàn cầu về vắc
xin và tiêm chủng (GAVI), các tổ chức Quốc tế khác và sự nỗ lực sản xuất trong
nước CTTCMR đã đưa BKT tự khố và hộp an tồn vào sử dụng trong tiêm chủng.
Từ năm 2002 CTTCMR và Trung tâm Kiểm định quốc gia vắc xin và sinh
phẩm đã phối hợp xây dựng và triển khai thí điểm cơng tác giám sát các sự cố sau
tiêm chủng. Chương trình đã triển khai trong toàn quốc hệ thống này từ năm 2006
[7]. Tháng 2 năm 2002 đến tháng 7 năm 2006 Chính phủ Việt nam với sự trợ giúp
của WHO đã đề ra kế hoạch đánh giá cơng tác an tồn trong CTTCMR ở mọi tuyến.
Cuộc đánh giá được tiến hành trên qui mơ tồn quốc, 8/61 tỉnh thành đại diện cho 4
khu vực Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên được lựa chọn vào nghiên cứu [10].
Trong định hướng phát triển của công tác TCMR giai đoạn từ 2006 đến 2010
và 2015, việc tăng cường cơng tác an tồn tiêm chủng bao gồm vơ khuẩn mũi tiêm,
xử lý an tồn bơm kim tiêm đã sử dụng và giám sát sự cố sau tiêm chủng vẫn là 1
trong những mục tiêu cần được quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả của việc tiêm
chủng [7].
Tại Hà Nội, sau 2 năm 1979-1980 thực hiện thí điểm tiêm chủng tại trạm y tế
số 4 quận Hoàn Kiếm và Trạm y tế xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, số phường xã
triển khai CTTCMR và số trẻ em dưới 1 tuổi được Chương trình quản lý và tiêm
chủng ngày càng gia tăng. Tỷ lệ tiêm chủng 6 loại vắc xin luôn đạt tỷ lệ cao trên
98%. Bệnh tiêm chủng hầu như khơng cịn trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên trong
những năm gần đây, tình hình tiêm chủng diễn ra phong phú trên địa bàn Hà Nội
cũng như các tỉnh, thành phố lớn trên cả nước do công tác xã hội hoá và nhu cầu
người dân nâng cao, bên cạnh việc tiêm chủng cho trẻ vắc xin trong CT TCMR, các
bà mẹ còn chủ động cho trẻ đi tiêm những vắc xin dịch vụ phịng các bệnh khác
khơng có trong Chương trình.
Sau sự cố một số trẻ có phản ứng mạnh và 1 trường hợp bị tử vong sau khi
tiêm chủng vắc xin tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5 năm 2006 vừa qua, số trẻ