Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Khóa luận thực trạng trợ giúp trẻ khuyết tật tại quận cầu giấy, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Khách thể
5. Phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Kết cấu đề tài
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN TRỢ
GIÚP TRẺ KHUYẾT TẬT
1.1. Cơ sở lý luận về trẻ khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ khuyết tật
1.1.1.1. Trẻ em
1.1.1.2. Trẻ khuyết tật
1.1.2. Phân loại khuyết tật
1.1.2.1. Theo dạng khuyết tật
1.1.2.2. Theo mức độ khuyết tật
1.1.3. Đặc điểm của trẻ khuyết tật
1.2. Các chính sách của Nhà nước liên quan đến trợ giúp trẻ
khuyết tật
1.2.1. Luật số 51/2010/QH12 của Quốc hội: Luật Người khuyết
tật
1.2.2. Nghị định số 28/2012/NĐ-CP: Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật
1.2.3. Nghị định số 86/2015/NĐ-CP: Quy định về cơ chế thu,
quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục


quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học
tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021
1.2.4. Nghị định số 146/2018/NĐ-CP: Quy định chi tiết và
hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y
tế
1.3. Nội dung của trợ giúp trẻ khuyết tật
1.3.1. Chính sách bảo trợ, trợ cấp hàng tháng
1.3.2. Chăm sóc sức khỏe
1.3.3. Giáo dục, dạy nghề
1.3.4. Chăm sóc văn hóa, tinh thần
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến trợ giúp trẻ khuyết tật
1.4.1. Cơ chế chính sách của Nhà nước, địa phương

1
1
3
3
3
3
4
7
8
8
8
8
9
11
11
13
14

15
15
21
24

25
26
26
26
27
28
28
28


1.4.2. Đội ngũ cán bộ chính sách, nhân viên cơng tác xã hội
1.4.3. Cộng đồng, các tổ chức xã hội
1.4.4. Gia đình và bản thân trẻ khuyết tật
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI QUẬN CẦU GIẤY
2.1. Đặc điểm địa bàn và trẻ em khuyết tật khu vực nghiên
cứu
2.1.1. Khái quát Quận Cầu Giấy
2.1.1.1. Kinh tế
2.1.1.2. Giáo dục – đào tạo
2.1.1.3. Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất
2.1.1.4. An ninh, trật tự
2.1.2. Khái quát về trẻ em khuyết tật quận Cầu Giấy
2.1.2.1. Quy mô, cơ cấu trẻ khuyết tật quận Cầu Giấy

2.1.2.2. Đặc điểm của trẻ khuyết tật quận Cầu Giấy
2.2. Thực trạng thực hiện trợ giúp trẻ khuyết tật
2.2.1. Chế độ trợ cấp hàng tháng
2.2.2. Chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng
2.2.3. Giáo dục, dạy nghề
2.2.4. Chăm sóc về văn hóa, tinh thần
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng
2.3.1. Chính sách của nhà nước, địa phương
2.3.2. Cán bộ chính sách, nhân viên xã hội
2.3.3. Cộng đồng, xã hội
2.3.4. Gia đình và bản thân trẻ khuyết tật
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HỖ TRỢ TRẺ EM KHUYẾT
TẬT TẠI QUẬN CẦU GIẤY
3.1. Đối với chính sách Nhà nước
3.2. Đối với đội ngũ cán bộ chính sách, nhân viên xã hội
3.3. Đối với trường học
3.4. Đối với gia đình và bản thân trẻ khuyết tật
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2

29
30
32
33
34

34
34
35
36
37
37
38
38
41
43
43
45
47
54
56
56
56
56
57
58
59
58
59
60
60
62
63
65
67
69



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.2: Thông tin về dạng khuyết tật của trẻ em quận
Cầu Giấy
Bảng 2.3: Mức độ khuyết tật của đối tượng nghiên cứu
Bảng 2.5: Thu nhập bình quân hàng tháng của gia đình
trẻ khuyết tật
Bảng 2.6: Trình độ học vấn của trẻ khuyết tật quận Cầu
Giấy
Bảng 2.7: Cơ cấu độ tuổi của trẻ khuyết tật quận Cầu
Giấy
Bảng 2.8: Trợ cấp xã hội của trẻ khuyết tật và gia đình
Bảng 2.9: Kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục trường
MYOKO
Bảng 2.10: Kết quả kiểm tra dinh dưỡng trẻ của trường
MYOKO năm 2019
Bảng 2.11: Kết quả thực hiện giáo dục của Trung tâm
CHILD
Bảng 2.12: Kết quả đánh giá kiểm tra sự phát triển của
Trung tâm CHILD năm 2019

Trang
39
40
41
42
42
44

50
51
53
54


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ giới tính của trẻ em khuyết tật quận Cầu
Giấy

38

Biểu đồ 2.4: Tình trạng sức khỏe của trẻ em khuyết tật quận
Cầu Giấy

40


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TS

: Thạc sỹ

UBND

: Ủy ban nhân dân

LHQ


: Liên hợp quốc

CTXH

: Công tác xã hội

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BHXH

: Bảo hiểm xã hội


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu được sinh ra và lớn lên như một đứa trẻ bình thường, chúng ta
đã hạnh phúc và may mắn hơn nhiều hàng triệu những đứa trẻ đang ngày
đêm chống chọi, sống với những khiếm khuyết, khó khăn ngồi kia mỗi
ngày. Tuy thế giới luôn nỗ lực cải thiện mọi điều để giảm số lượng
người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng từng ngày, thế

nhưng thực tế cho thấy trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp như nội chiến, nạn khủng bố, khủng hoảng người di cư, dịch bệnh, sự
biến đổi khí hậu tồn cầu, ơ nhiễm môi trường, thiên tai, tai nạn đã làm
số lượng trẻ khuyết tật tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Nhiều
tổ chức thế giới như Tổ chức Lao động quốc tế, Tổ chức Khoa học, Giáo
dục và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ Nhi
đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khác tiếp tục khẳng định về quyền
con người, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết tật cũng như
quyền của trẻ khuyết tật trong các Hiến chương, Công ước, Nghị quyết
đồng thời xây dựng nhiều chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết tật
đặc biệt là trẻ khuyết tật, tuy nhiên nhiều trẻ khuyết tật vẫn đang gặp
nhiều khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi, chưa được tiếp cận với các dịch
vụ dành cho người khuyết tật, nhiều trẻ khuyết tật vẫn đang bị lãng quên.
Do đó việc xây dựng và thực hiện chính sách cho người khuyết tật và trẻ
khuyết tật ở các nước trên thế giới là vô cùng quan trọng, giúp trẻ khuyết
tật giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên, vượt qua những mặc
cảm, tự ti và phát triển với khả năng của mình để hòa nhập với cộng
đồng và xã hội.
Tại Việt Nam, sau chiến tranh chống Mỹ hàng triệu người bị
thương và tàn tật, những người còn sống tiếp tục phải đối mặt với các
vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã
gây ra, nhiều trẻ em mắc dị tật bẩm sinh do di chứng của chất độc da
1


cam, nhiều trẻ vẫn tiếp tục bị khuyết tật do bom mìn chưa nổ cịn sót lại
sau chiến tranh. Ngồi hậu quả của chiến tranh, việc gây ra khuyết tật
còn do ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh dịch, tai nạn…Sau khi giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã có nhiều chương
trình, đề án hỗ trợ trẻ khuyết tật, tuy nhiên đất nước trong thời kỳ đó cịn

nghèo do đó việc hỗ trợ, chăm sóc cho người khuyết tật nói chung và trẻ
khuyết tật nói riêng là rất hạn chế.
Căn cứ vào Luật người khuyết tật năm 2010, Nghị định Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật; Đề
án giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 đến 2020 (trong đó có nhiều
phần về trẻ khuyết tật), nhiều chính sách cho người khuyết tật đã được
xây dựng và tổ chức thực hiện, đặc biệt các chính sách đối với trẻ khuyết
tật. Điển hình, Đảng và Nhà nước đưa ra nhiều chủ trương, chính sách,
đề án hỗ trợ trẻ khuyết tật nhằm tạo điều kiện tốt nhất để trẻ khuyết tật
có cuộc sống tốt đẹp và được hưởng đầy đủ các quyền về cả tinh thần và
vật chất như những trẻ em bình thường khác; cấp giấy phép hoạt động
cho các Trung tâm chăm sóc trẻ khuyết tật, trung tâm phục hồi chức
năng, hỗ trợ chính sách cho những người chăm sóc trẻ khuyết tật, đưa
các chương trình giáo dục phù hợp cho trẻ khuyết tật tại các cơ sở bảo
trợ xã hội, các Trung tâm chăm sóc, hỗ trợ kinh phí ni dưỡng hàng
tháng, một số tỉnh, thành phố đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về
các chính sách của Nhà nước đối với trẻ khuyết tật.
Có thể nhiều người cho rằng tại các thành phố lớn, nơi với những
điều kiện tốt nhất, có nhiều chính sách xã hội được triển khai nhất thì trẻ
khuyết tật tại đây sẽ sớm có được cuộc sống bình thường như bao người.
Thế nhưng thực tế có được như vậy, với biết bao nhiêu điều thuận lợi
như thế vậy tại sao hằng ngày ở thành phố chúng ta vẫn nghe được
truyền thông nói về trẻ khuyết tật vẫn đang là một vấn đề nóng? Tại sao
các báo cáo hằng năm của các thành phố vẫn cho thấy số lượng trẻ
2


khuyết tật vẫn cịn cao và dường như khơng có sự thay đổi đáng kể?
Hoặc có lẽ chúng ta nên đặt ra câu hỏi liệu thực sự các hoạt động hỗ trợ
trẻ khuyết tật ở thành phố có thực sự hiệu quả như chúng ta đã nghĩ

khơng? Chính bởi vậy, tôi đã chọn quận Cầu Giấy thuộc thành phố Hà
Nội, một trong những thành phố lớn, nơi được coi là “trái tim của cả
nước”, làm địa điểm nghiên cứu với đề tài “Thực trạng trợ giúp trẻ
khuyết tật tại quận Cầu Giấy, Hà Nội” làm khóa luận chun ngành cơng
tác xã hội để làm rõ câu hỏi trên.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận về trợ giúp trẻ khuyết tật; phân tích thực
trạng trợ giúp trẻ khuyết tật tại quận Cầu giấy; từ đó đề xuất, kiến nghị
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp cho trẻ khuyết tật
tại quận Cầu Giấy.
3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng trợ giúp trẻ khuyết tật tại quận Cầu Giấy, Hà Nội.
4. Khách thể
- 31 trẻ khuyết tật tại quận Cầu Giấy
- 2 gia đình trẻ khuyết tật
- 1 cán bộ phòng Lao động, Thương binh và Xã hội quận Cầu Giấy
- 1 hội viên Hội Người khuyết tật quận Cầu Giấy
- 1 chuyên gia dinh dưỡng bệnh viện phục hồi chức năng Hà Nội
- 2 giáo viên từ trường MYOKO và trung tâm CHILD
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
Nghiên cứu các chính sách cho trẻ khuyết tật đang được áp dụng tại
Cầu Giấy, tìm hiểu thực trạng áp dụng các chính sách đó, các mơ hình,
hoạt động trợ giúp đang được thực hiện tại quận Cầu Giấy, từ đó đưa ra
nhận xét về cơng tác hỗ trợ trẻ khuyết tật tại địa phương.
- Thời gian:
3


+) Thời gian khảo sát, điều tra: Từ 1/4/2021 đến 1/5/2021

+) Các văn bản, tài liệu sử dụng: Các văn bản pháp luật, chính sách
của Nhà nước liên quan đến trẻ khuyết tật; Báo cáo, thông tư của UBND
Cầu Giấy giai đoạn 2015 - 2021.
- Khơng gian: Q trình ghiên cứu, khảo sát được tiến hành tại nơi ở
của các trẻ khuyết tật, UBND các phường quận Cầu Giấy, Trung tâm
nghiên cứu và can thiệp sớm CHILD, mầm non MYOKO.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
- Tài liệu: Là những hiện vật mang lại cho con người những thông tin
về vấn đề mà nhà nghiên cứu quan tâm. Tài liệu còn dùng để truyền tin
hoặc bảo lưu thơng tin.
- Tài liệu gồm có 2 loại: Tài liệu viết và tài liệu không viết.
Tài liệu viết: Bút ký, thư từ, sách báo, các bảng thống kê, báo cáo,...
Tài liệu không viết: Các hiện vật, công cụ sản xuất, phim ảnh, băng
ghi âm, ấn phẩm nghệ thuật, di tích lịch sử - văn hóa,...
- Các phương pháp phân tích tài liệu:
Phân tích định tính: Là tìm ra những nội dung tư tưởng cơ bản của tài
liệu, tìm ra những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu và xác định
xem những vấn đề gì được giải quyết và những vấn đề gì chưa được giải
quyết.
Phân tích định lượng: Là cách thức phân nhóm các dấu hiệu và tìm ra
những mối quan hệ nhân quả giữa các nhóm chi báo. Phương pháp này
được sử dụng trong những trường hợp phải xử lý một lượng thông tin lớn.
- Yêu cầu đối với phương pháp phân tích tài liệu: Địi hỏi phải phân
tích có hệ thống. Phải phân loại, lựa chọn, khái quát, so sánh thông tin từ
tài liệu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Là phương pháp thu thập thông tin
qua những tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Đây là phương pháp nghiên cứu tôi sử
4



dụng trong khóa luận nhằm nắm bắt được những thơng tin liên quan đến trẻ
khuyết tật, một số thông tin liên quan đến để tài nghiên cứu như: Quyết
định số 1100/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Kế
hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết
tật, Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 01/11/2019 của Ban Bí thư về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật, Báo cáo tổng kết
năm 2019 của UBND quận Cầu Giấy,... Trên cơ sở những thông tin thu
dược, tôi tiến hành xử lý, thống kê, phân tích và đưa ra giải pháp.
6.2. Phương pháp quan sát
- Quan sát cho phép ghi lại những biến đổi khác nhau của đối tượng
được nghiên cứu vào lúc nó xuất hiện. Nó cũng cho phép thấy được sự phát
triển của các biến cố, cho phép nghiên cứu được thái độ của những thành
viên của nhóm trong mơi trường tự nhiên. Như vậy người quan sát với
những kinh nghiệm thực tế với những cái đã biết để đi đến kết luận phù
hợp với kinh nghiệm của người quan sát.
- Thông qua quan sát hoạt động, thái độ ứng xử của trẻ khuyết tật và
gia đình trẻ khi được phỏng vấn để đưa ra được các nhận định về mức độ
hài lòng của họ với các trợ cấp, dịch vụ y tế của địa phương hoặc khả năng
tiếp cận các chính sách an sinh xã hội,...
- Chú ý âm điệu, cách thức trả lời của các thành viên UBND, đại diện
của các trung tâm, lớp học chăm sóc trẻ khuyết tật trong q trình phỏng
vấn, thu thập thơng tin để thấy được mức độ quan tâm của họ đến trẻ
khuyết tật.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
- Phương pháp này được sử dụng để thu thập những thơng tin mang
tính chiều sâu, những vấn đề chưa được đề cập, cần được làm rõ hơn thông
qua chia sẻ của những người được phỏng vấn.
- Trong khóa luận này, người viết sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu
với 7 người có làm việc liên quan đến chăm sóc, trợ cấp trẻ khuyết tật, gồm:

5


+) 2 gia đình trẻ khuyết tật về việc chăm sóc, học tập của trẻ
+) 1 chuyên gia dinh dưỡng của bệnh viện phục hồi chức năng về
việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ khuyết tật
+) 1 cán bộ phòng Lao động, Thương binh và Xã hội quận Cầu
Giấy về các chính sách hỗ trợ, trợ cấp cho trẻ khuyết tật
+) 1 hội viên Hội người khuyết tật quận Cầu Giấy về một số thực
trạng trong cuộc sống của trẻ khuyết tật
+) 2 giáo viên của trường MYOKO và trung tâm CHILD về việc
giáo dục, chăm sóc trẻ khuyết tật.
6.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn
viết, không thực hiện câu hỏi bằng lời, được thực hiện cùng một lúc với
nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi sẽ trả lời ý kiến của
mình bằng cách đánh dấu, điền vào bảng hỏi theo một quy ước nào đó.
- Trong q trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi đã áp dụng phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi với 31 người giám hộ trẻ khuyết tật để thu thập
các thông tin cơ bản của trẻ và gia đình trẻ khuyết tật quận Cầu Giấy.
6.5. Phương pháp thống kê tốn:
- Phương pháp này là q trình thu thập và xử lý số liệu. Đây là
phương pháp được sử dụng trong trường hợp số liệu có sự hỗn độn, dữ liệu
chưa đáp ứng được cho quá trình nghiên cứu. Chính vì thế cần tiến hành xử
lý tổng hợp, trình bày, tính tốn. Từ đó kết quả sẽ giúp khái khốt đặc trưng
tổng thể.
- Các thơng tin thu thập được từ bảng hỏi sẽ được sắp xếp và tổng hợp
lại để tiến hành phân tích, nghiên cứu các đặc điểm của đối tượng.
7. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,

khóa luận gồm có 3 chương:
6


Chương 1: Cơ sở lý luận trong công tác nghiên cứu về trợ giúp trẻ
khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng hoạt động hỗ trợ trẻ khuyết tật tại quận Cầu
Giấy.
Chương 3: Đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ trẻ
khuyết tật tại quận Cầu Giấy.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN TRỢ GIÚP TRẺ
KHUYẾT TẬT
1.1. Cơ sở lý luận về trẻ em khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ khuyết tật
1.1.1.1. Trẻ em
Trong Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm
1989, văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến thời điểm
hiện tại đã định nghĩa rằng: “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay trong lời nói đầu của
Cơng uớc đã nêu rõ: “trẻ em, do cịn non nót về thể chất và trí tuệ, cần phải
được bảo vệ và chăm sóc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý
trước cũng như sau khi ra đời". Theo đó, trẻ em là những người đàm bảo
đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về thể chất và
trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là, người từ 0 đến

dưới 18 tuổi.
Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên
hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày
20/11/1985) nêu rõ: “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi". Họ là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ
nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và
khả năng tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lơi kéo vào các
hoạt động có tính phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái
niệm có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý, Liên hiệp quốc đặt các em
trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với
mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp.
Kêu gọi các nước thành viên tham gia Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
8


phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích cực, huy động các nguồn lực
có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành niên nhằm giảm sự can thiệp
của pháp luật và xử lý người chưa thành niên phạm pháp một cách công
bằng, nhân đạo và hiệu quả.
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ
tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định
trong Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị
coi là trái với quy định chung của quốc tế bởi vì Điều 1 Cơng ước về quyền
trẻ em cũng đồng thời cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi
được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
1.1.1.2. Trẻ khuyết tật
Hiện nay chúng ta vẫn chưa có bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy
định cụ thể về khái niệm Thế nào là trẻ khuyết tật? Mà hầu như mọi quốc
gia đều gắn nó chung với khái niệm người khuyết tật.

Công ước về quyền của người khuyết tật đã được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về
quyền con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một buớc
ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế
giới. Theo đó, tại Điều 1 Cơng ước trên, người khuyết tật bao gồm “Những
người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan
mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự
tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với
những người khác". Mặc dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những
thuộc tính cấu thành khái niệm “người khuyết tật", tuy nhiên, đây là lần đầu
tiên có một định nghĩa về “người khuyết tật" được ghi nhận trong pháp luật
quốc tế về quyền con người, nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền của nhóm đối tượng này.

9


Tại Trung Hoa, Điều 2 Luật của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
về bảo vệ người khuyết tật năm 1990 quy định:
“Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát
của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lý hay sinh lý, hoặc trong
cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng
tham gia vào các hoạt động một cách bình thường.
Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc
khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần hoặc
nhiều khuyết tật khác”.
Tại Ấn Độ, Luật người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, bệnh phong;
thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc
bệnh về tâm thần.

Tại Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người
khuyết tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ cùng một khái
niệm, và được dùng song song trên cả phương diện truyền thông đại chúng
và văn bản pháp quy. Điều I Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 định
nghĩa người tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thơng qua Luật Người khuyết tật, có hiệu từ 01/01/2011 thay thế Pháp
lệnh về người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết
tật” thay cho khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với khuynh
hướng nhìn nhận chung của thế giới. Theo Quy định tại khoản 1 Điều 2
Luật người khuyết tật năm 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị
khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giàm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn". Khái niệm nảy được đưa ra dựa vào mơ hình xã hội và về cơ
10


bản phù hợp với khái niệm người khuyết tật trong Công ước về quyền của
người khuyết tật năm 2007.
Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ
em, cá nhân tơi trong bài khóa luận này sẽ định nghĩa như sau: Trẻ khuyết
tật được hiểu là những người trong độ tuổi tử 0 đến 18 tuổi có khiếm
khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, hòa
nhập xã hội.
Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ khuyết tật rất quan
trọng nhưng không phải dễ dàng, bởi như đã nói ở trên, ngay trong hệ
thống pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cũng khơng có quy định cụ

thể về trường hợp này, trong khi các tiêu chí xác định khuyết tật hay độ
tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống nhất. Vì vậy, cần phải có cái
nhìn tổng thể về trẻ em và người khuyết tật để hình thành khái niệm hợp lý
nhất về trẻ khuyết tật. Từ dó, là cơ sở để phân loại, nghiên cứu, chăm sóc
và bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
1.1.2. Phân loại khuyết tật:
1.1.2.1. Theo dạng khuyết tật:
Theo Luật người khuyết tật năm 2010 thì khuyết tật được chia làm các
loại sau:
- Khuyết tật vận động:
Là dạng khuyết tật ảnh hưởng đến khả năng vận động, di chuyển như:
Khó khăn trong việc ngồi, đi, đứng; Người bị yếu, liệt hoặc hạn chế vận
động tay, chân, lưng, cổ; Người bị dị tật ,bị biến dạng ở đầu, cổ, lưng hoặc
tay, chân.
- Khuyết tật nghe, nói:
Những người khuyết tật thuộc nhóm này là những người yếu kém khả
năng nghe nên cần phải có những dụng cụ trợ thính để giúp họ nghe được

11


tiếng nói của người khác; vì khơng nghe được nên khả năng nói của họ
cũng rất yếu kém.
Các biểu hiện như sau: Khó khăn khi nói hoặc khơng nói được, khó
khăn khi nghe hoặc khơng nghe được, bị biến dạng ở vùng tai, mũi và
miệng.
- Khuyết tật nhìn:
Là những người rất yếu kém khả năng nhìn, dù đã đeo kính, khiến hạn
chế hoạt động cần nhìn bằng mắt: khó khăn khi nhìn hoặc khơng nhìn thấy
đồ vật trong nhà, khó khăn khi phân biệt màu sắc hoặc không phân biệt

được các màu sắc, bị dị tật hoặc biến dạng ở vùng mắt.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần:
Là người suy yếu về cảm xúc, suy nhược tinh thần hoặc mắc bệnh tâm
lý khiến cho những nhu cầu của cá nhân và những nhu cầu mang tính xã
hội của họ bị hạn chế.
Những biểu hiện thể hiện khuyết tật này: Thưởng ngồi một mình, chơi
một mình, khơng bao giờ nói chuyện hoặc quan tâm đến bất kỳ ai. Có
những hành vi bất thường như kích động, cáu giận hoặc sợ hãi vơ cớ hoặc
có hành vi hủy hoại bản thân như đập đầu, cắn tay chân của chính mình, bất
ngờ dừng mọi hoạt động, mở mắt trừng trừng không chớp, co giật tay, mơi,
mặt hoặc bất thình lình ngã xuống, co giật, sủi bọt mép, gọi hỏi không biết.
- Khuyết tật trí tuệ :
Những người khuyết tật dạng này có sự suy yếu hay chậm phát triển
trí não như những người bại não, động kinh, tự kỷ, và những rối loạn tương
tự khác. Những người này thường khó khăn trong việc nhận biết người thân
trong gia đình hoặc khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh
so với người cùng tuổi. Chậm chạp, ngờ nghệch hoặc không thể làm được
một việc đơn giản dù đã được hướng dẫn. Họ cũng khó khăn trong việc học
tập (đọc, viết và làm tốn) so với người cùng tuổi do chậm phát triển trí
tuệ.
12


- Khuyết tật khác:
Là những người bị giảm khả năng thực hiện các hoạt động trong học
tập và lao động do tê liệt, mất cảm giác ở tay chân, mặc dù đã được điều trị
liên tục 3 tháng; giảm khả năng thực hiện các hoạt động trong học tập và
lao động do các nguyên nhân hô hấp hoặc do tim mạch hoặc do rối loạn
đại, tiểu tiện dù đã liên tục điều trị 3 tháng, giảm khả năng thực hiện các
hoạt động trong học tập và lao động do các nguyên nhân khác.

1.1.2.2. Theo mức độ khuyết tật:
Trẻ khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
- Trẻ khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến
mất hồn tồn chức năng, khơng tự kiểm sốt hoặc khơng tự thực hiện
được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc
khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo
dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
- Trẻ khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một
phần hoặc suy giảm chức năng, khơng tự kiểm sốt hoặc khơng tự thực
hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những
việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo
dõi, trợ giúp, chăm sóc.
- Trẻ khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết tật
nặng hoặc đặc biệt nặng kể trên.
Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy thiên có thể nhận thấy
điểm chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết
tật nhìn là đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu như được quan tâm ,
tạo môi trường thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì trẻ khuyết
tật vẫn có thể tiếp thu được chương trình học tập, làm việc, tham gia vào
các hoạt động kinh tế xã hội của cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng,
chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để thực hiện các hoạt động phù hợp với

13


từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển năng lực bản thân, tự tin trong cuộc
sống.
Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể như người khuyết tật nói
chung, lại vừa là những cơng dân cịn non nớt về mặt thể chất và tinh thần
giống như biết bao trẻ bình thường khác, trẻ khuyết tật với tư cách là nhóm

bị tổn thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật
đem lại. Những thiệt thịi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân
trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động
xã hội của trẻ. Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng
khuyết tật, tính chất, mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ khuyết tật sẽ
có tác dụng trong việc ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang
ngày càng gia tăng, từ đó hạn chế tình trạng các em bị thiệt thòi, đồng thời
phân loại trẻ khuyết tật còn là cơ sở để áp dụng các chính sách, biện pháp
phù hợp nhằm bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật vượt qua khó khăn
trong cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
1.1.3. Đặc điểm của trẻ khuyết tật:
Sự phát triển nhận thức của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tham
gia các hoạt động trong môi trường xung quanh. Do chấn thương hay do
bệnh bại liệt gây ra làm què cụt, khoèo, liệt chân tay, do tổn thương khu
vận động não bộ mà trẻ khuyết tật vận động khó đạt được trình độ nhận
thức cũng như những trải nghiệm như mọi trẻ bình thường khác. Chẳng
hạn, trẻ khơng thể có cảm giác mỏi chân nếu như trẻ bại liệt đôi chân
không thể đi được, không thể leo trèo được thì khó có cảm giác về độ cao
và kỹ năng lấy thăng bằng của cơ thể, khơng có cảm giác về sức đẩy của
nước nếu không được ngâm mình trong nước...
Đối với trẻ bị tổn thương về não bộ gây rất nhiều cản trở cho hoạt
động nhận thức của trẻ, thậm trí là trình độ nhận thức ở mức độ thấp, kém.
Hoạt động nhận thức của loại trẻ này cũng có những hạn chế tương tự như
trẻ chậm phát triển trí tuệ và cịn bị ảnh hưởng thêm của khuyết tật vận
14


động. Cũng cần lưu ý những trường hợp khuyết tật vận động do bại não
gây nên thì hoạt động nhận thức của trẻ hầu như không bị ảnh hưởng song
trẻ khó có thể đạt được suy nghĩ, hành động, lời nói một cách bình thường

do sự cản trở của khuyết tật vận động .
Đối với trẻ chậm phát triển vận động, khó khăn khi nói, kém hiểu biết
về các quy luật xã hội căn bản, không ý thức về hậu quả về các hành vi của
mình, khó khăn khi tự phục vụ, phân tích màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật
kém, thiếu tích cực trong quan sát, tư duy của trẻ thường biểu hiện tính
khơng liên tục, chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa mới tiếp thu, thời
gian chú ý của trẻ chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều trẻ em bình
thường.
Bên cạnh những đặc điểm của trẻ khuyết tật về vận động cũng như trẻ
khuyết tật về trí tuệ, các em đều là những người sống nội tâm, giàu cảm
xúc, giàu nghị lực để thích nghi, để vượt qua những khó khăn. Đây là ưu
điểm cần quan tâm động viên để trẻ khuyết tật tự vươn lên hòa nhập cuộc
sống xã hội. Trẻ khuyết tật cũng như những trẻ em bình thường có những
địi hỏi thỏa mãn các nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần và nhu
cầu hồn thiện chính bản thân mình như những trẻ em bình thường khác.
Trẻ khuyết tật ln muốn được hòa nhập xã hội, mong muốn được học tập,
muốn được tơn trọng để xóa đi những mặc cảm tự ti, mặc cảm với bản thân
mình.
1.2. Các chính sách của Nhà nước liên quan đến trợ giúp trẻ
khuyết tật:
1.2.1. Luật số 51/20 10/QH12 của Quốc hội: Luật Người khuyết tật:
Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010, có
hiệu lực thi hành từ 01/01/2011.
- Quyền và nghĩa vụ của trẻ khuyết tật:
Trẻ khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền sau đây:
a) Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội;
15




×