Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn vận động hành lang thực trạng vận động hành lang tại hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.08 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: VẬN ĐỘNG HÀNH LANG
Đề tài:

THỰC TRẠNG VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TẠI HOA KỲ


MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................1
II. NỘI DUNG...........................................................................................................3
2.1 Sự hình thành và vị trí, vai trị của vận động hành lang......................................3
2.2. Thực trạng vận động hành lang tại Hoa Kỳ.......................................................9
2.2.1 Hoạt động vận động hành lang ở Mỹ............................................................9
2.2.2. Vị trí, vai trị của các nhóm lợi ích trong hoạt động vận động hành
lang ở Mỹ.............................................................................................................11
2.2.3. Hoạt động vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ.............................13
2.2.4 Mặt trái của hoạt động vận động hành lang tại Mỹ.....................................18
2.3 Một số liên hệ tới Việt Nam..............................................................................22
III. KẾT LUẬN.......................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................27


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vận động hành lang là khái niệm khá mới mẻ đối với Việt Nam, nhưng
lại rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Tại một số quốc gia, vận động
hành lang vẫn ngày càng trở nên quan trọng và là phần không thể thiếu được
trong các hoạt động chính trị - xã hội, mà đặc biệt là trong các hoạt động nghị
trường của Nghị viện. Vận động hành lang mang đến cho các nghị sĩ cái nhìn
tồn diện, đa chiều với đầy đủ thơng tin, chứng cứ cũng như ý kiến, kiến nghị
của cử tri và xã hội về vấn đề đang được Nghị viện xem xét, quyết định để


trên cơ sở đó, đưa ra những quyết định có lợi cho xã hội, cử tri hoặc các nhóm
lợi ích… Chính vì vậy, có thể nói vận động hành lang là hoạt động “hậu
trường”, nhưng có vai trị bổ sung cho q trình hoạch định chính sách của
Nghị viện.
Hoạt động vận động hành lang (lobby) đã và đang trở thành một thứ
văn hóa – chính trị ở Mỹ. Khi “lobby” đã trở thành một phần không thể thiếu
của nền chính trị Mỹ thì tất cả những ai muốn gây ảnh hưởng đối với dư luận
hay đến việc hoạch định chính sách của Mỹ đều phải tuân thủ quy luật này.
Hoạt động lobby hầu như đã thâm nhập vào toàn bộ các lĩnh vực và các ngành
sản xuất, kinh doanh tại Mỹ và trong đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
hiệu quả nhất khi được sử dụng trong q trình xây dựng chính sách và pháp
luật tại quốc gia này.Hoạt động vận động hành lang (lobby) đã và đang trở
thành một thứ văn hóa – chính trị ở Mỹ. Khi “lobby” đã trở thành một phần
không thể thiếu của nền chính trị Mỹ thì tất cả những ai muốn gây ảnh hưởng
đối với dư luận hay đến việc hoạch định chính sách của Mỹ đều phải tuân thủ
quy luật này. Hoạt động lobby hầu như đã thâm nhập vào toàn bộ các lĩnh vực
và các ngành sản xuất, kinh doanh tại Mỹ và trong đó có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng và hiệu quả nhất khi được sử dụng trong q trình xây dựng chính
sách và pháp luật tại quốc gia này.

1


Ở Việt Nam, vận động hành lang chưa được chính thức thừa nhận và
cũng chưa có các quy định cụ thể của pháp luật đối với việc tiến hành các
hoạt động loại này. Việc người dân có nhiều ảnh hưởng hơn trong quá trình
xây dựng pháp luật cũng như việc các nhóm lợi ích khác nhau thể hiện chính
kiến và vận động các nhà lập pháp chú ý tới mặt bằng xã hội không đồng đều
để ban hành pháp luật sao cho phù hợp là tiến trình tự nhiên, khơng thể phủ
nhận.

Chính vì vậy, chúng tơi mạnh dạn chọn Đề tài: “Thực trạng vận động
hành lang tại Hoa Kỳ” để đi tìm hiểu cụ thể về vấn đề này, và từ đó liên hệ
tới Việt Nam.

2


II. NỘI DUNG
2.1 Sự hình thành và vị trí, vai trò của vận động hành lang
2.1.1. Vận động hành lang - lịch sử và định nghĩa
a. Lịch sử vận động hành lang
Vận động hành lang (lobby) được lấy theo tên địa điểm mà hoạt động
này diễn ra đầu tiên trong lịch sử, đó là hành lang của Nghị viện Anh quốc,
nơi mà trong thời gian nghỉ giải lao, các nghị sĩ thường trao đổi với đồng
nghiệp hoặc với bất kỳ người nào để bổ sung thông tin về vấn đề đang được
thảo luận hoặc quyết định tại Nghị viện. Đến đầu thế kỷ XIX, cùng với việc
Quốc hội Mỹ cho phép công dân tiếp xúc với các nghị sĩ để vận động họ ủng
hộ hoặc không ủng hộ đối với những chính sách, dự luật sẽ hoặc đang được
xem xét tại Nghị viện, hoạt động vận động hành lang bắt đầu được thừa nhận
rộng rãi. Hiến pháp Mỹ năm 1787 trong bản sửa đổi đầu tiên, bằng việc khẳng
định quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và yêu sách hồ bình, đã cung cấp
cơ sở pháp lý cho cái gọi là “những nhóm lợi ích đặc biệt”. Theo đó, bất cứ
một nhóm nào cũng đều có quyền yêu cầu các quan điểm của họ phải được sự
lắng nghe của công chúng, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tồ án.
Từ đó đã hình thành một lớp người hoặc tổ chức chuyên nghiệp giữ vai
trò trung gian, làm nhiệm vụ “con thoi” giữa cử tri hoặc các nhóm lợi ích với
các nghị sĩ nhằm tác động đến những chính sách, dự luật. Những người này
được gọi là các nhà vận động hành lang (lobbyist). Có thể nói, vận động hành
lang là một thực tế không thể thiếu trong đời sống chính trị, nó phát triển
“đồng hành” cùng với sự phát triển của hệ thống chính trị tại mỗi quốc gia,

thậm chí vượt ra ngồi khn khổ các quan hệ trong nội bộ của một quốc gia
và trong khơng ít trường hợp, trở thành những vấn đề quốc tế có tính thời sự.
Vậy, vận động hành lang là gì?

3


b. Định nghĩa vận động hành lang
Vận động hành lang được hiểu là những hoạt động có tính hệ thống
nhằm tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình ra quyết
định của cơ quan lập pháp, hành pháp, các nghị sĩ, quan chức và những người
có thẩm quyền khác trong bộ máy nhà nước để họ ủng hộ hoặc khơng ủng hộ
chính sách, dự luật, chương trình, kế hoạch, hợp đồng, chứng chỉ, sự đề cử, bổ
nhiệm hoặc một vấn đề nào đó vì lợi ích của cộng đồng, các nhóm lợi ích
hoặc của cá nhân. Vận động hành lang trong hoạt động lập pháp được hiểu là
những hoạt động có tính hệ thống nhằm tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh hưởng
đến quá trình ra quyết định của Quốc hội (nghị viện), nghị sĩ hoặc các quan
chức khác của cơ quan lập pháp để họ ủng hộ hoặc khơng ủng hộ dự luật,
chính sách, chương trình,… vì lợi ích của cộng đồng, các nhóm lợi ích hoặc
của cá nhân.
2.1.2. Vị trí, vai trị của vận động hành lang và mặt trái của nó
2.1.2.1. Vị trí, vai trị của vận động hành lang
Vị trí, vai trị của vận động hành lang thể hiện ở các điểm sau đây: Thứ
nhất, vận động hành lang là một bộ phận chính đáng, hợp pháp của thiết chế
dân chủ. Thứ hai, vận động hành lang giúp cho các ý nguyện của cử tri đến
được với chính quyền, mà cụ thể là cơ quan lập pháp, một cách nhanh chóng,
rõ ràng, hiệu quả nhất. Thứ ba, vận động hành lang giúp mang những vấn đề
quan trọng đến với bàn họp của Nghị viện, góp phần làm cho q trình quyết
định thêm minh bạch, dân chủ.
2.1.2.2. Mặt trái của vận động hành lang

Mặc dù hoạt động vận động hành lang là một phần tất yếu trong đời sống
chính trị của các nước phát triển song cũng không tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây: Thứ nhất, vận động phải
4


có năng lực tài chính để chi trả cho hoạt động điều tra, thu thập thông tin và
tác động, nhưng đồng tiền khi dan díu với quyền lực chính trị sẽ đẻ ra nguy cơ
bè đảng, bóp méo dân chủ, cướp đi cơ hội của những nhóm yếu thế được có
tiếng nói trong q trình ra quyết định. Thứ hai, sự phát triển không ngừng
của các hoạt động vận động hành lang cịn là mơi trường cho tham nhũng, hối
lơ ̣sau hâụ trường chính tri. ̣ Vận động hành lang là hoạt động khơng chính
thức, nó khơng diễn ra trong phòng họp, tại các phiên họp của nghị viện hay
uỷ ban của nghị viện, mà ở hành lang nghị viện và bên ngoài trụ sở nghị viện
với các cấp độ khác nhau hết sức phong phú. Ngoài việc chiêu đãi tiệc tùng,
đưa các nghị sĩ đi chơi bằng máy bay riêng hay mời dự hội thảo, hội nghị,
những nhà vận động hành lang luôn sẵn sàng để chiều theo sở thích, ý muốn
của những nhân vật quyền thế. Đó chính là mặt trái của vận động hành lang.
2.1.3. Nhà vận động hành lang
Nhà vận động hành lang (lobbyist) là những cá nhân hoặc tổ chức được
khách hàng thuê để tiến hành vận động hành lang vì mục đích của khách
hàng. Nhà vận động hành lang có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình
vận động hành lang. Họ là trung gian, là cầu nối giữa các nhóm lợi ích, cử tri
và cơ quan nhà nước, quan chức có thẩm quyền. Bằng danh tiếng và những
mối quan hệ cá nhân, thơng qua các hình thức phong phú, đa dạng như gặp gỡ
chính thức hoặc khơng chính thức tại hành lang của trụ sở Nghị viện, tại các
cuộc hội thảo, tọa đàm, gửi kiến nghị bằng lời nói hoặc bằng văn bản,… nhà
vận động hành lang cung cấp thông tin, phản ánh, đề đạt ý nguyện của cử tri,
các nhóm lợi ích và khách hàng mà mình đại diện đến các quan chức có thẩm
quyền. Qua đó mà tác động, gây ảnh hưởng, thậm chí là tạo áp lực đến cơ

quan lập pháp, hành pháp, các nghị sĩ, quan chức có thẩm quyền trong bộ máy
nhà nước để họ ủng hộ hoặc khơng ủng hộ một chính sách, dự luật, chương
trình, kế hoạch, hợp đồng, chứng chỉ, sự đề cử, bổ nhiệm hoặc một vấn đề nào
đó.
5


2.1.3.1. Điều kiện trở thành nhà vận động hành lang
Để trở thành nhà vận động hành lang, người đó phải đáp ứng đủ các điều
kiện sau đây: Một là phải am hiểu quy trình, thủ tục ban hành chính sách,
quyết định: nhà vận động hành lang phải hiểu rõ quy trình, thủ tục ban hành
chính sách, quyết định và biết được ở khâu nào, giai đoạn nào thì người nào
có thẩm quyền ra quyết định cũng như ai là người sẽ quan tâm, ủng hộ đến
vấn đề mình sẽ đưa ra. Hai là phải có kỹ năng truyền đạt thơng tin hiệu quả,
thuyết phục: vận động hành lang là quá trình làm cho nghị sĩ, quan chức tin,
hiểu và hành động theo cách mà nhà vận động hành lang mong muốn. Ba là
phải có uy tín: nhà vận động hành lang có uy tín là người có đạo đức tốt, có
kinh nghiệm thuyết phục người khác, có quan hệ lành mạnh với các nghị sĩ,
quan chức cũng như khả năng duy trì và phát triển các mối quan hệ đó một
cách lâu dài. Bốn là phải có tư cách đạo đức tốt: là người đại diện cho khách
hàng, nhà vận động hành lang phải có tư cách đạo đức tốt, trung thực, khơng
vi phạm pháp luật,... để có thể hiểu hết được những yêu cầu, mong muốn của
khách hàng, phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Mặc dù đáp ứng những
điều kiện trên đây nhưng nếu người đó đang giữ một cơng vụ hoặc chức vụ
nào đó trong các cơ quan nhà nước thì khơng thể trở thành nhà vận động hành
lang, trừ khi họ thôi làm nhiệm vụ.
2.1.3.2. Chiến thuật vận động hành lang
Để tiến hành vận động hành lang, nhà vận động hành lang phải triển khai
nhiều biện pháp, chiến lược và chiến thuật khác nhau. Có thể có hai bước như
sau: Bước thứ nhất là lên kế hoạch vận động, trong đó nêu rõ kết quả mong

muốn là gì? ai là người có khả năng giúp đạt được kết quả này? điều gì là mối
quan tâm lớn nhất của nghị sĩ, quan chức mà mình đang cần tác động? cách
thức nào là tốt nhất và hợp pháp để tiếp cận những người này? những sự kiện
nào là quan trọng nhất đối với vấn đề cần vận động? thời điểm nào thì cung

6


cấp thơng tin gì, bằng biện pháp nào?... Bước tiếp theo là tiếp cận quan chức,
nghị sĩ để vận động, cung cấp thông tin, tạo ảnh hưởng với họ thông qua các
hình thức như gặp gỡ trực tiếp, gửi thư, mời dự hội thảo, tọa đàm hay liên
hoan, chiêu đãi, tặng quà, mời đi du lịch,…
2.1.3.3. Nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà vận động hành lang
Nhà vận động hành lang có các nghĩa vụ và trách nhiệm sau đây Nghĩa
vụ đăng ký: pháp luật một số nước quy đinh để được hành nghề vận động
hành lang, người đó phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuân
thủ pháp luật và tôn trọng cơ quan nhà nước, quan chức: nhà vận động hành
lang phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật; có trách nhiệm cá nhân đối với tính
hợp pháp, dân chủ và cơng bằng của q trình ra quyết định mà nhà vận động
hành lang đã tác động đến. Trung thực và liêm chính:nhà vận động hành lang
phải tiến hành vận động hành lang một cách trung thực và liêm chính; phải
bảo đảm thơng tin gửi cho quan chức là chính xác, đầy đủ và kịp thời; tơn
trọng quyền được nhận những thơng tin chính xác của cơng chúng nếu trong
q trình vận động hành lang có sử dụng phương tiện điện tử hoặc văn bản
viết để giao tiếp nhằm ảnh hưởng đến công luận. Tôn trọng khách hàng: Mối
quan hệ giữa nhà vận động hành lang và khách hàng phải dựa trên sự vô tư và
tôn trọng lẫn nhau. Nghĩa vụ báo cáo: Đây là một trong những cách thức để
công khai, minh bạch hoạt động vận động hành lang, đặc biệt là công khai về
tình hình tài chính. Điều đó sẽ góp phần hạn chế những hoạt động vận động
hành lang dựa trên sự hối lộ, mua chuộc. Nâng cao trình độ nghiệp vụ: Nhà

vận động hành lang có trách nhiệm tăng cường hiểu biết về hoạt động của
mình và tính hợp pháp của những hoạt động đó cho cơng chúng thơng qua
thực hành nghề nghiệp của mình; tránh làm mất uy tín của nghề vận động
hành lang.
2.1.4. Nguyên tắc vận động hành lang trong hoạt động lập pháp

7


Trên cơ sở những quy định của pháp luật và các quy phạm đạo đức nghề
nghiệp mà nghề vận động hành lang khá phát triển ở một số quốc gia. Nhìn
chung, có thể đưa ra một số ngun tắc vận động hành lang sau đây:
2.1.4.1. Vận động hành lang phải bảo đảm tính cơng khai, minh bạch
Theo ngun tắc này, các nhà vận động hành lang phải phải đăng ký với
cơ quan có thẩm quyền, nêu rõ tên tuổi khách hàng và vấn đề mà họ dự tính
sẽ vận động các nhà lập pháp. Ở Mỹ, pháp luật quy định các nhà vận động
hành lang phải đăng ký, phải công khai hóa các khách hàng, các cuộc tiếp
xúc, cơng khai hóa các vấn đề vận động hành lang và số tiền cơng được chi
trả.... Ở Cơṇ g hồ Liên bang Đức, các nhóm lợi ích phải đăng ký với Chủ
tịch Quốc hội liên bang nó i rõlý do ho ạt động, cơ cấu của nhóm , tên của
những ngườ i lañ h đaọ và đaị diêṇ . Ở Québec, Canada, Luật về đạo đức và
tính minh bạch trong vận động hành lang quy định: không ai được phép vận
động hành lang các quan chức của cơ quan lập pháp, hành pháp, chính quyền
địa phương mà khơng có đăng ký; khơng ai được nhận lợi nhuận phi pháp
thông qua các hoạt động vận động hành lang.
2.1.4.2. Quan hệ giữa nhà vận động hành lang và khách hàng phải dựa
trên sự vô tư, trung thực và tôn trọng lẫn nhau
Mối quan hệ giữa khách hành và nhà vận động hành lang cần được nhìn
nhận dưới các góc độ sau đây: - Khi lựa chọn một nhà vận động hành lang
thực hiện công việc đại diện cho mình, khách hàng nên xem xét kỹ lịch sử

đạo đức của người đó và khơng nên lựa chọn một nhà vận động hành lang hay
một công ty vận động hành lang mà mình phát hiện ra là từng có các hành vi
phi đạo đức. - Khi tiếp xúc với khách hàng, nhà vận động hành lang không
nên né tránh hay che đậy các kinh nghiệm của mình, khơng nên giả tạo các kỹ
năng chính trị và khả năng tiếp cận trong vận động hành lang cho một chính
sách cụ thể nào đó. - Nhà vận động hành lang cần thông báo cho khách hàng
8


về các chiến lược và biện pháp vận động hành lang có thể chấp nhận được về
mặt đạo đức và cho khách hàng cơ hội lựa chọn các chiến lược và biện pháp
này. - Nhà vận động hành lang cần thông tin cho khách hàng biết liệu các mục
tiêu vận động hành lang đề ra của khách hàng và các chiến lược vận động
hành lang của họ có vấn đề gì về đạo đức, ln lý khơng. - Nhà vận động
hành lang phải thông tin đầy đủ cho khách hàng về những hoạt động quan
trọng được tiến hành với tư cách là đại diện của họ, đồng thời không được tiết
lộ bí mật thơng tin của khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
2.1.4.3. Thơng tin được cung cấp cho nhà hoạch định chính sách phải
bảo đảm đầy đủ, chính xác và đáng tin cậy
Ngun tắc này địi hỏi nhà vận động hành lang phải có tính trung thực,
có kiến thức để cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách và nhân viên của
họ thơng tin đầy đủ, chính xác và được phân tích một cách thuyết phục.
2.1.4.4. Tôn trọng và hợp tác với các phương tiện truyền thông
Trong xã hội thông tin như hiện nay, công chúng bị ảnh hưởng rất mạnh
bởi các phương tiện truyền thơng. Q trình dân chủ địi hỏi các nhà hoạch
định chính sách, các cơ quan truyền thơng và cơng chúng phải được thơng tin
chính xác về việc ai là người đang hậu thuẫn cho một chính sách nào đó và ai
là người đang tài trợ, hỗ trợ cho các nỗ lực vận động vì chính sách ấy.
2.1.5. Phương thức vận động hàng lang

Phương thức vận động hành lang là cách thức được sử dụng nhằm tác
động đến những người quyết định để người đó ủng hộ hoặc khơng ủng hộ một
chính sách nào đó. Vận động hành lang có thể được thực hiện thông qua
phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp: Vận động hành lang trực tiếp là việc nhà
vận động hành lang có cuộc gặp mặt trực tiếp với người ra quyết định để bày
9


tỏ quan điểm, cung cấp thông tin, thuyết phục người đó ra quyết định ủng hộ
hoặc khơng ủng hộ những vấn đề nào đó. Vận động hành lang gián tiếp được
thực hiện thơng qua những người có ảnh hưởng tới quan điểm của người
quyết định.
Vận động hành lang có thể thơng qua lời nói - nhà vận động hành lang
tác động đến người quyết định bằng lời nói hoặc vận động hành lang bằng
văn bản - nhà vận động hành lang tác động đến người quyết định (các quan
chức) bằng văn bản, vận động hành lang bằng văn bản bao gồm cả các
phương tiện truyền thông điện tử.
2.2. Thực trạng vận động hành lang tại Hoa Kỳ
2.2.1 Hoạt động vận động hành lang ở Mỹ
Vận động hành lang (lobby) được hiểu là những hoạt động hậu trường
thường thấy ở nhiều nước trên thế giới. Qua hoạt động này, những người vận
động (là người chuyển tải quan điểm của một bộ phận dân cư trong xã hội) có
thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới những thành viên của cơ quan lập
pháp, thuyết phục họ thực hiện hoặc không thực hiện hành vi lập pháp mới để
đạt được kết quả như những người vận động hành lang mong muốn.
Có thể nói, Mỹ là nơi hoạt động vận động hành lang diễn ra sôi nổi nhất
thế giới và vận động hành lang cũng được coi là một phần không thể thiếu của
nền chính trị Mỹ (chủ yếu trong lĩnh vực chính trị, lập pháp). Xuất hiện từ khi
nước Mỹ mới thành lập, lobby chính là một “thói quen chính trị trong việc
hình thành các chính sách của Mỹ và thói quen này đã được luật pháp Mỹ quy

định và bảo hộ (1). ở Mỹ, lobby được hiểu là sự vận động các nghị sĩ, dân
biểu trong Quốc hội Mỹ ở cả Thượng viện và Hạ viện để họ đưa ra hay ủng
hộ các đạo luật, các nghị quyết, các quyết định mang tính chính sách có lợi
cho các nhóm lợi ích khác nhau. Người làm nhiệm vụ này được gọi là nhà vận
động hành lang. Người đó được trả lương để tác động tới bộ máy lập pháp

10


hoặc dư luận. Hiện nay, phố K chính là nơi đặt trụ sở của các công ty lobby
hàng đầu nước Mỹ.
Mỹ đã có nhiều văn bản pháp luật thừa nhận và quy định các hoạt động
lobby. Đạo luật quan trọng nhất áp dụng cho hoạt động lobby ở Mỹ là Đạo
luật vận động hành lang được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1946 (The Federal
Regulation of Lobbying Act). Ngày 19/12/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton
đã ký ban hành Đạo luật về Cơng khai hóa hoạt động lobby (Lobbying
Disclosure Act of 1995) điều chỉnh các mối quan hệ trong và ngoài nước ở
Mỹ và quy định: “Bắt buộc những người hoạt động lobby phải đăng ký, phải
cơng khai hóa các khách hàng, các cuộc tiếp xúc, cơng khai hóa các vấn đề
lobby và số tiền công được chi trả. Như vậy, trên thực tế, lobby ở Mỹ đã và
đang tồn tại như một loại hình kinh doanh mang tính chính trị – xã hội, có tác
động mạnh mẽ vào q trình hình thành chính sách đối nội, đối ngoại của Mỹ.
2.2.2. Vị trí, vai trị của các nhóm lợi ích trong hoạt động vận động
hành lang ở Mỹ
Tại Mỹ, quá trình xây dựng các chính sách và pháp luật chịu ảnh hưởng
khá mạnh từ hoạt động vận động hành lang mà những người thực hiện hoạt
động này là các nhóm lợi ích. Do đó, cũng có thể nói việc xây dựng các chính
sách và pháp luật chịu ảnh hưởng bởi sự tranh giành hay thỏa hiệp giữa các
nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích là tổ chức của những người có cùng quan tâm,
có cùng quan điểm với từng vấn đề xã hội khác nhau; cố gắng tác động đến

việc xây dựng chính sách của Chính phủ và đặc biệt là muốn chuyển yêu cầu
của họ thành các chính sách để phục vụ lợi ích của nhóm dân cư có cùng mối
quan tâm mà họ là người đại diện (2) . Ngồi ra, “các nhóm lợi ích vận động
chính quyền cho những lợi ích của họ chính là biểu hiện của nền dân chủ tự
do” (3). Lời khẳng định đó của Tổng thống Jefferson đã chứng tỏ các nhóm
lợi ích có vai trị quan trọng trong đời sống chính trị Mỹ.
Các nhóm lợi ích ở Mỹ ra đời rất sớm và ngày càng phát triển nhanh về
số lượng, tổ chức, quy mơ và kỹ năng hoạt động. “Ngày nay, có hơn 22.000
11


nhóm lợi ích có tổ chức ở Mỹ, và hàng chục ngàn người đăng ký chính thức
làm nghề vận động hành lang tại Washington” (4). Có khoảng 60% dân Mỹ
tham gia vào các nhóm lợi ích. Như vậy, sự tham gia của cơng dân vào chính
trị nói chung và q trình ra quyết định nói riêng là một trong những đặc
trưng của hệ thống dân chủ truyền thống Mỹ.
Có rất nhiều nhóm lợi ích khác nhau: (i) Nhóm lợi ích về kinh doanh như
các tập đồn kinh tế, các cơng ty đa quốc gia; (ii) Nhóm hiệp hội nghề nghiệp;
(iii) Nhóm liên Chính phủ; (iv) Nhóm lợi ích cơng; (v) Nhóm cơng đồn. Các
nhóm lợi ích của Mỹ hết sức đa dạng và về thực chất là các phe phái chính trị
tập hợp lại với nhau vì một lợi ích chung nào đó. Họ đấu tranh, vận động
nhằm vào các bộ phận khác nhau của Chính phủ để bảo đảm tối đa lợi ích cho
nhóm mình. Nguồn gốc ra đời của các nhóm lợi ích nằm ở chính mục tiêu mà
họ theo đuổi, đó là: thứ nhất, các nhóm lợi ích ra đời nhằm bảo vệ những lợi
ích của họ về kinh tế; thứ hai, các nhóm lợi ích cũng là sản phẩm của các
phong trào xã hội, phát triển qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử nước
Mỹ. Chẳng hạn các phong trào đấu tranh đòi bãi bỏ chế độ nơ lệ, địi tăng
lương và cải thiện điều kiện làm việc…; thứ ba, các nhóm lợi ích ra đời nhằm
tìm kiếm lợi ích từ Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế và cả lĩnh vực chính trị,
tinh thần. Các nhóm này có tính chất phi tập trung hóa quyền lực chính trị với

các bang và các địa phương, tức được hình thành ngẫu nhiên và dựa trên nhu
cầu lợi ích xã hội. Các nhóm lợi ích này hoạt động rất năng động không chỉ
dồn sức cho hoạt động chính trị mà cịn cho cả những vấn đề mà họ quan tâm
và thời gian tồn tại của những nhóm này là rất ngắn. Chúng xuất hiện khi có
các vấn đề xuất hiện, rồi lại biến mất khi vấn đề được giải quyết.
Sức mạnh của các nhóm lợi ích nằm ở lá phiếu ủng hộ cho các ứng cử
viên trong các cuộc bầu cử vào các chức vụ khác nhau của Chính phủ và
những đóng góp tài chính của họ cho các chiến dịch vận động tranh cử thông
qua các Uỷ ban hành động chính trị (PAC). Hiện nay, các nhóm lợi ích có
nhiều ảnh hưởng ở Quốc hội là: Tổ chức nông nghiệp Liên bang Mỹ; Tổ chức
12


cơng đồn AFL – CIO; Liên đồn người tiêu dùng Mỹ (Consumer Federation
of America Conservative Union); … Các nhóm lợi ích này thường ảnh hưởng
tới các nghị sỹ của cả hai đảng (đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ), do đó,
trong khơng ít trường hợp, lá phiếu của các nghị sỹ thể hiện tác động của các
nhóm lợi ích hay của các khu vực hơn là của đảng phái. Các nhóm lợi ích này
thực hiện chức năng tiếp điểm, thể hiện quan điểm và đại diện cho lợi ích của
các nhóm riêng biệt trong xã hội. Ngồi ra, cịn cung cấp nhiều thông tin và
kiến thức chuyên biệt về việc bố trí sắp xếp những thiết chế chính thức.
Nước Mỹ đứng trước sự trái ngược: vừa phải thừa nhận tính đa dạng về
lợi ích; vừa phải ngăn ngừa các nhóm lợi ích này thơng qua hoạt động vận
động hành lang có thể gây lũng đoạn chính sách. Một mặt, họ tạo ra hàng loạt
luật và án lệ mới bảo vệ hệ thống chính trị và các đảng phái khỏi ảnh hưởng
lobby về tài chính (tiền chi cho vận động hành lang tại Mỹ vào năm 2004 lên
đến 2, 1 tỷ USD)(5). Mặt khác, họ thừa nhận và luật hóa các nhóm lợi ích, các
cơng ty vận động hành lang như đã nói ở trên. Chính sự tự do trong việc
lobby chính sách đã tạo ra rất nhiều nhóm lợi ích cạnh tranh và đối trọng lẫn
nhau và đã có lúc cả hệ thống chính quyền Mỹ bị chao đảo vì các nhóm

lobby. Một cơn sốc chính trị nổ ra trong Quốc hội Mỹ khi Abramoff, nhà vận
động hành lang có thế lực nhất của Mỹ bị kết tội trong một loạt scandal chính
trị cao cấp. Tại tịa án, Abramoff đã nhận tội biển thủ, gian dối tài chính và
mua chuộc chính khách. Tạp chí Time gọi ơng ta là “người đã mua cả
Washington”. Trung tâm điều tra độc lập Center for Responsive Politics cho
biết đã điểm danh được hơn 300 nghị sĩ của cả hai đảng từng hưởng dân huệ
từ Abramoff từ năm 1999. Sau vụ khủng hoảng này, hàng loạt các kiến nghị
cải tổ luật về các nhóm lợi ích được đưa ra. Luật Lobby sửa đổi ngày
18/1/2006 quy định cấm các hình thức quà cáp “bồi dưỡng” cho các nghị sĩ có
giá trị từ 20 USD trở lên, tặng vé máy bay, chiêu đãi các kỳ nghỉ, các chuyến
đi thực tế của các nghị sĩ theo lời mời của các tổ chức, cá nhân, mời cơm thân
mật…
13


Nhưng bên cạnh đó, lịch sử chính trị Mỹ cũng có rất nhiều ví dụ về
những ảnh hưởng tích cực của các nhóm lợi ích với chính sách: Vào cuối thập
kỉ 90, dưới sự lobby của các tập đoàn dược phẩm hùng mạnh, việc nhập khẩu
thuốc theo đơn vào Mỹ rất ngặt nghèo. Không chịu nổi giá thuốc leo thang,
các cụ già vùng Đông Bắc Mỹ, dưới sự tổ chức của các hội hưu trí, đã đi xe
buýt sang Canada mua thuốc (trái phép). Phong trào bất tuân dân sự này ảnh
hưởng mạnh mẽ đến chính quyền. Dù cuộc chiến pháp lý giữa các tập đoàn
thuốc và người tiêu dùng còn tiếp diễn, nhưng hàng loạt tiểu bang đã mặc cả
với các hãng thuốc để giảm giá cho người nghèo hay nới lỏng quy định nhập
khẩu thuốc.
2.2.3. Hoạt động vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ
Vận động hành lang (lobby) là một từ rất phổ biến trong đời sống chính
trị Mỹ, đã được thể chế hố và gắn liền với hoạt động của các nhóm lợi ích –
hay nhóm gây áp lực. “Một khi đã đắc cử vào các cơ quan lập pháp hay hành
pháp các cấp từ liên bang đến bang và địa phương, thì những thành viên Quốc

hội và quan chức nhà nước sẽ bị cả một đạo quân “lobby” đông đảo bao vây
và chiếu cố tận tình”. Các nhóm lợi ích thường gây ảnh hưởng mạnh tới các
cơ quan làm luật ở cả cấp bang và liên bang, nhưng hoạt động của các nhóm
lợi ích ở cấp bang mạnh hơn cấp liên bang. Các nhóm này vận động để thông
qua hoặc bác bỏ các dự luật ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Do tính chất của
hệ thống chính trị Mỹ, khơng có một nhánh quyền lực nào có quyền lực tuyệt
đối, các nhánh kiềm chế quyền lực lẫn nhau, khiến cho các nhóm lợi ích có
thể tác động đến hoạt động lập pháp hay hoạt động hành chính của chính
quyền về các khâu, các giai đoạn của q trình làm luật và chính sách. Các
nhóm này hoạt động trên phạm vi rộng lớn, tham gia làm lobby vào mọi loại
hình và trong tất cả các giai đoạn của hoạt động chính trị. Những đối tượng
cần đến các nhóm vận động là các tổ chức chính trị, các cơng ty, chính quyền
tiểu bang, chính quyền nước ngồi và nhiều nhóm khác…

14


Về mặt lý thuyết và nguyên tắc, vận động hành lang là nhằm làm cho hệ
thống làm luật và thi hành luật đáp ứng lợi ích của người tiến hành vận động
hành lang. Các hoạt động vận động hành lang được tiến hành theo quy trình:
các nhóm vận động hành lang Quốc hội phải đăng ký vào cơ sở dữ liệu trung
ương và sau đó những người làm lobby tham gia một phiên họp điều trần của
các nhà lập pháp để nghe báo cáo, những chất vấn chính thức và khơng chính
thức với các quan chức nhà nước được bầu hay bổ nhiệm. Sau đó, họ gửi
những kết quả nghiên cứu hay thông tin kỹ thuật tới các quan chức có liên
quan, tìm cách quảng bá một chủ đề, soạn thảo những dự luật có khả năng
được đệ trình, tổ chức chiến dịch viết thư gửi các nhà làm luật… Các nghị sĩ
Quốc hội sau khi tiếp xúc với những người làm lobby có thể đệ trình các dự
luật theo yêu cầu của họ. Và để hoạt động vận động hành lang thu được hiệu
quả, một nhà vận động phải hiểu rõ hệ thống chính trị Mỹ, phải có quan hệ tốt

với các nhà làm luật và các nhà hoạch định chính sách của Chính phủ, những
nhà tư vấn trong Quốc hội. Chính vì vậy mà có rất nhiều nhà vận động hành
lang giỏi lại chính là các cựu quan chức của Chính phủ, những nhà tư vấn
trong Quốc hội. Khơng ai khác, họ là người có nhiều kinh nghiệm và xây
dựng được nhiều mối quan hệ sau nhiều năm làm việc và cơng tác. Ví dụ điển
hình là cựu Nghị sĩ Mỹ Bob Livingston đã trở thành một nhà vận động hành
lang thành cơng sau khi rời khỏi chính trường. Chỉ trong vịng 6 năm, nhóm
lobby do ơng thành lập đã phát triển thành 1 trong 12 công ty lobby lớn nhất,
với doanh thu gần 40 triệu USD tính tới cuối năm 2004. Những năm gần đây,
khơng chỉ có những nhóm lợi ích th các nhà vận động hành lang để tiến
hành vận động cho mình mà ngay cả Chính phủ và các cơng ty nước ngồi
cũng tìm sự vận động theo hướng này. Những nhà vận động hành lang được
coi là nhịp cầu nối giữa các nhóm lợi ích và các nhà chính trị, các nhà làm
luật và hoạt động chính sách. Hoạt động của họ vừa có tính thuyết phục các
nhà làm luật, vừa tạo điều kiện để họ hiểu được quan điểm của các nhóm lợi
ích. Người dân Hoa Kỳ, các nhóm lợi ích cần các chuyên gia lobby để có thể
15


nhận được sự chú ý nhiều hơn đối với các lợi ích và mong muốn của mình từ
các cơ quan hành pháp, lập pháp; còn bản thân các nghị sỹ Hoa Kỳ cũng thấy
các chuyên gia lobby thực sự hỗ trợ họ rất nhiều trong việc thông qua các dự
luật và các quyết định quan trọng, bởi tình trạng quá tải về công việc của các
nghị sỹ Hoa Kỳ trước yêu cầu cần được điều chỉnh của các quan hệ phát sinh
trong xã hội hiện nay. Chính các chuyên gia lobby là người hướng các nghị sỹ
Hoa Kỳ đến gần hơn với những bức xúc của xã hội, người dân và những chủ
thể có quyền lợi liên quan khác.
Nhưng mặt khác, điều không thể phủ nhận là vận động phải có năng lực
tài chính để chi trả cho hoạt động điều tra, thu thập thông tin và tác động.
Thực tế hiện nay, tại Mỹ, trong nền chính trị hiện đại, lobby chính là việc

dùng thế lực tiền bạc để vận động và làm áp lực để Quốc hội hoặc các cơ
quan nhà nước hành động theo chiều hướng phục vụ quyền lợi của các nhóm
lợi ích. Ngay cả một số cơ quan Chính phủ trung ương và địa phương cũng
dùng tiền bạc để lobby các nhà lập pháp. Nhưng đồng tiền khi dính với quyền
lực chính trị sẽ dẫn đến nguy cơ bè đảng, cướp đi cơ hội của những nhóm yếu
thế được có tiếng nói trong q trình ra quyết định. Đây cũng là khe hở để các
thế lực tài chính hùng mạnh có thể giành lợi thế trong các cuộc chạy đua vận
động và bóp méo cơng lý. Một số người vận động hành lang đã lợi dụng cơ
chế này để đóng góp tiền cho các chiến dịch chính trị và dành cho các quan
chức được bầu những đặc lợi và tất nhiên tồn bộ những đóng góp này cũng
luôn luôn kèm với kỳ vọng sẽ được đối xử thuận lợi trong một số vấn đề sau
này. Và thực tế, có thể gọi chúng là “của đút lót tế nhị được nguỵ trang khéo
léo”. Cịn về hình thức hoạt động, lobby khơng phải lúc nào cũng ở trong
phịng họp, trên các phiên họp của nghị viện hay các uỷ ban của nghị viện, mà
chủ yếu ở ngoài hành lang và hết sức phong phú bên ngoài trụ sở nghị viện
với các cấp độ khác nhau. Một số những chuyên viên vận động hành lang có
những hành động kèm theo những quà cáp bất hợp pháp trong lúc đề đạt ý
nguyện của khách hàng đến các nhà làm luật. Những món quà đó có thể là
16


tiền bạc hay những chuyến đi nghỉ, đi chơi xa thật đắt tiền. Những người làm
lobby luôn sẵn sàng để chiều theo sở thích, ý muốn của những nhân vật quyền
thế trong mọi tình huống. Các chuyên gia lobby cũng bằng nhiều cách khác
nhau tự tìm những con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để đáp ứng các yêu
cầu của khách hàng. Sam Ward, một trong những người được mệnh danh là
“ông vua lobby” của Hoa Kỳ, đã triệt để áp dụng nguyên tắc: “con đường
ngắn nhất để đạt được sự ủng hộ của một nghị sỹ đối với một dự luật chưa
được thông qua là đi qua dạ dày của ơng ta”.
Chính vì những luật lệ về lobby ở Mỹ rất thống nên khơng thể nào liệt

kê hết các phương thức hoạt động của nó. Với khoản tiền thu hàng năm về tới
4 tỷ USD từ các khoản tiền ủng hộ, tài trợ của các nhà đầu tư, có thể nói ưu
thế về tài chính và những vận động “ngoài lề” trong vận động hành lang đã và
đang có ảnh hưởng to lớn tới chính trường Mỹ và cụ thể là tới q trình xây
dựng chính sách và pháp luật nói riêng. Điều nguy hiểm ở đây là sự nhập
nhằng ranh giới giữa việc đầu tư ủng hộ cho các chiến dịch tranh cử với hối
lộ; giữa nhận tiền tài trợ cho quỹ bầu cử với tham nhũng.
Ở Mỹ, những nhóm lobby mạnh nhất là những nhóm đại diện cho lợi ích
kinh doanh của các tập đồn tư bản (chiếm tới 72%): Lobby cơng nghiệp
quốc phịng, Lobby dầu khí, Lobby phục vụ nước ngồi. Chỉ có 8% đại diện
cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp, khoảng 5% đại diện cho các nhóm bảo vệ
dân quyền, phúc lợi xã hội, 2% đại diện cho người nghèo và 1% đại diện cho
những nhóm yếu thế trong xã hội như người già, người tàn tật. Như vậy, số
người hành nghề vận động hành lang đại diện cho quyền lợi của giới kinh
doanh và doanh nghiệp chiếm số lượng áp đảo. Các nhóm lobby này có một
sức mạnh đáng kể trong q trình xây dựng chính sách và pháp luật ở Mỹ.
Mặc dù các nghị sĩ phải chịu sự chỉ đạo của các nhóm đảng phái trong Hạ
viện và Thượng viện khi bỏ phiếu, song họ vẫn phải dành sự quan tâm đáng
kể đến ý kiến của công luận và của cử tri tại các quận hay bang của mình.
Nếu một nghị sĩ nhận được yêu cầu của một số lượng đáng kể cử tri về một
17


vấn đề nào đó, trong lúc ban lãnh đạo đảng yêu cầu vị này phải bỏ phiếu khác
đi, thì tiếng nói của cử tri mới là nhân tố chi phối kết quả bỏ phiếu cuối cùng.
Khi các nhóm lợi ích cùng kết thành một hiệp hội, có sự liên kết hơn, họ sẽ
hình thành một tổ chức vận động hành lang có tính chất chun nghiệp. Với
các chun gia chun vận động hành lang dựa vào mối quan hệ tương hỗ
giữa các nghị sĩ, tiếng nói của họ sẽ được chú ý hơn trước Quốc hội, khiến
cho Quốc hội khó có thể bỏ qua ý kiến của các liên minh trước những vấn đề

chính sách lớn. Hoặc có trường hợp các nghị sĩ phe thiểu số khi cần có tiếng
nói ủng hộ thì tiếng nói của liên minh là bằng chứng cho sự ủng hộ rộng rãi
đối với quan điểm, chính sách đó.
Như vậy, trên thực tế, lobby ở Mỹ đã và đang là một tồn tại mang tính
chính trị – pháp lý – xã hội, có tác động mạnh mẽ đến Quốc hội và Chính phủ
Mỹ trong tất cả các cơng đoạn của q trình xây dựng pháp luật và hình thành
chính sách đối nội, đối ngoại. Ví dụ như, do đặc thù của việc bầu cử rất tốn
kém, nên hệ thống chính trị cần nhiều tiền để thực hiện các hoạt động. Vì thế,
khi các cơng đồn, cơng ty và tổ chức đóng góp tiền bạc cho các đảng và các
nhà chính trị thì đồng thời họ đóng ln vai trị quan trọng trong việc định
đoạt chương trình chính trị nhà nước. Mỹ có một hệ thống chính trị và pháp
luật rất phức tạp và trong đó vận động hành lang là hoạt động liên quan trực
tiếp đến cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống pháp luật, nên chính bản thân nó
cũng hết sức phức tạp.
Hoạt động vận động hành lang ở Mỹ đồng thời còn là sự phản ánh, giám
sát, kiềm chế, đối trọng của các nhóm lợi ích và nhân dân Mỹ đối với các cơ
quan công quyền. Thêm nữa, đây là một cơ chế quan trọng thể hiện được tính
dân chủ rất lớn mà qua đó các cơng dân Mỹ có thể phản ánh trực tiếp những ý
tưởng, nguyện vọng, nhu cầu và quan điểm của mình tới các vị quan chức
được bầu. Lobby không phải là một ngành quyền pháp lý mà mang đậm tính
chất xã hội, nhưng về bản chất, nó là sự chia sẻ quyền lực giữa Nhà nước và
xã hội. Bản chất của “vận động hành lang nhìn chung khơng phải là xấu …”,
18



×