Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Quan hệ giữa kinh thành Thăng Long với đất trại Nghệ An pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.25 KB, 6 trang )

Quan hệ giữa kinh thành Thăng Long với đất trại Nghệ An
Đất Nghệ An dưới thời Lý là vùng trại, là biên viễn, phên dậu phía Nam của Tổ
quốc. Vì vậy, muốn đưa nước Đại Việt bước vào thời kỳ thịnh vượng thì kế sách
của triều đình nhà Lý phải làm cho đất trại Nghệ An nội trị ổn định về mọi mặt,
ngoại trị không cho quân Chiêm Thành và Chân Lạp Lão Qua xâm phạm bờ cõi.
Lý Nhật Quang sinh ra và lớn lên tại kinh thành Thăng Long, song lập nên
nghiệp lớn vì nước, vì dân, rồi đi vào cõi vĩnh hằng và hiển thánh trên đất trại
Nghệ An. Công lao hiển hách của Lý Nhật Quang nói lên mối quan hệ khăng khít
giữa kinh thành Thăng Long với đất trại Nghệ An dưới thời Lý.
Đất Nghệ An dưới thời Lý là vùng trại, là biên viễn, phên dậu phía Nam
của Tổ quốc. Vì vậy, muốn đưa nước Đại Việt bước vào thời kỳ thịnh vượng thì
kế sách của triều đình nhà Lý phải làm cho đất trại Nghệ An nội trị ổn định về mọi
mặt, ngoại trị không cho quân Chiêm Thành và Chân Lạp Lão Qua xâm phạm bờ
cõi.
Vua Lý Thái Tổ khi mới lên ngôi đã trực tiếp cầm quân đi dẹp loạn ở Diễn
Châu. Sử chép: “Tháng 12/1012 vua thân đi đánh Diễn Châu (1). Khi về đến Vũng
Biện gặp lúc trời tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: “Tôi là
người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám
cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa,
ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung
tha không đánh, còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc
hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu
gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung
thứ, xin lòng trời soi xét”. Khấn xong gió sấm đều yên lặng” (2).
Để giữ gìn đảm bảo được sự an ninh chính trị ở vùng đất trại này, hễ có
giặc xâm lấn, triều đình lập tức cử Hoàng Thân đem quân đi đánh dẹp. Khâm định
Việt sử thông giám cương mục chép: “Tháng 11 năm Bính Dần (1026) xuống
chiếu cho Khai Thiên Vương Phật Mã đi đánh Châu Diễn”(3). Năm 1031 mùa
xuân người Châu Hoan làm phản. Tháng 2 ngày mồng 1 vua thân đi đánh Châu
Hoan(4). Quân đi từ kinh sư đến đóng ở Châu Hoan, người châu ấy đầu hàng,
xuống chiếu tha tội cho các Mục thú, sai Trung sứ vỗ yên mọi tầng lớp nhân dân.


Đảm bảo được an ninh ở vùng đất trại Nghệ An tức là đảm bảo ổn định nền
chính trị, nên nhà Lý ngoài việc kiên quyết trấn những cuộc nổi loạn hoặc xâm lấn
của ngoại bang, còn chú trọng và tích cực di chuyển dân nơi khác đến và củng cố
chính quyền cấp địa phương ở Nghệ An. Sử chép: “Tháng 2 năm 1024 xuống
chiếu lập trại Định Phiên ở địa giới phía nam Châu Hoan, cho quản giáo Lý Thai
Giai làm trại chủ”(5).
Lý Đạo Thành từng là đại thần của triều Lý cũng có thời gian được triều
đình cử làm Tri Châu Nghệ An (6).
Để củng cố và phát triển vùng đất phên dậu quan trọng này, triều đình nhà
Lý đã cử Lý Nhật Quang là con trai thứ tám của vua Lý Thái Tổ vào làm Tri châu
Nghệ An.
Lý Nhật Quang sinh năm Mậu Tý (988). Thuở nhỏ, Ngài được vua cha và
hoàng tộc rèn cặp, bản tính thông minh, dĩnh ngộ. Lý Nhật Quang sớm bộc lộ khí
chất dũng cảm, trung hiếu, cung cần và có tài kinh bang tế thế. Năm 1039, khi ở
độ tuổi 51, Lý Nhật Quang được triều đình cử vào Nghệ An trông coi việc tô thuế.
Sách Việt điện u linh chép: “Được chọn làm việc tô thuế ở Nghệ An giữ chức mấy
năm, sợi tơ sợi tóc của dân không hề xâm phạm, nổi tiếng liêm trực, nhà vua càng
quí mến, ban cho hiệu Uy Minh Thái tử, giao cho việc quản dân ở châu ấy”.
Năm Tân Tỵ (1041), Lý Nhật Quang được bổ làm Tri Châu Nghệ An và
chọn vùng đất Bạch Đường để làm lỵ sở. Ở thế kỷ XI, Bạch Đường là vùng núi
rừng có địa thế hiểm trở như thiên la địa võng. Ở đây, có sông Lam, con sông lớn
nhất, đẹp nhất và hung dữ nhất của xứ Nghệ chảy uốn lượn qua, tạo ra cảnh trí sơn
thủy hữu tình, địa linh nhân kiệt. Từ địa bàn này theo dòng sông Lam có thể xuống
biển Đông hay lên tới biên giới Việt - Lào khá thuận tiện có thể vạch đường bộ đi
sang miền Nghĩa Đàn, Quỳ Châu rồi vào Thanh Hóa và các tỉnh phía Bắc, hoặc đi
vào phương Nam để sang các nước Chiêm Thành, Chân Lạp. Từ đây lan tỏa
xuống vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An như Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh
Lưu, Nam Đàn, Thanh Chương… cũng khá dễ dàng.
Phủ lỵ châu Nghệ An được Lý Nhật Quang đặt dưới chân núi Quả Sơn
thuộc vùng Bạch Đường. Từ phủ lỵ này, Lý Nhật Quang có thể quản lý và khống

chế được cả vùng đất Nghệ An từ các vùng ven biển, đồng bằng, trung du cho đến
thượng du khá chặt chẽ và bền vững.
Sau khi ổn định vùng lỵ sở Bạch Đường, Lý Nhật Quang tích cực chiêu mộ
nhân dân và sử dụng cả tù binh để đẩy mạnh khai khẩn đất hoang với quy mô rộng
khắp chưa từng có. Các vùng đất: Khe Bố, Cự Đồn ở Tương Dương, Nam Kim ở
Nam Đàn, Hoàng Mai ở Quỳnh Lưu, Cửa Hội ở Nghi Xuân, Kỳ Anh dưới chân
Đèo Ngang…. Tất cả đều do trí tuệ và công lao của Ngài tạo dựng lên.
Để có lực lượng vũ trang làm chủ lực cho việc giữ vững vùng biên cương và an
ninh chính trị trong nội bộ nhân dân, Lý Nhật Quang đã lập đạo quân Nghiêm
Thắng, đại bản doanh đóng trên tả ngạn sông Lam, phía dưới Bạch Đường vài km.
Về sau trên vùng đại bản doanh này nhân dân đã lập nên làng Nghiêm Thắng (nay
thuộc xã Đông Sơn, huyện Đô Lương).
Lý Nhật Quang đã chú ý khai thông hai con đường huyết mạch trên đất
Nghệ An. Đó là con đường thượng đạo từ lỵ sở Bạch Đường ra Thanh Hóa và các
tỉnh phía Bắc, con đường lên biên giới Việt Lào qua huyện Kỳ Sơn. Ngài còn tổ
chức nạo vét kênh Đa Cái, đào kênh Bà Hòa để làm thông thương con đường thủy
từ Bắc vào Nam, lập các trại quân lương, trong đó có trại kho Bà Hòa để tích trữ
lương thực phục vụ tích cực cho quốc kế dân sinh, hưng thịnh xứ sở. Đặc biệt, Lý
Nhật Quang đã sáng suốt khởi xướng đắp đê sông Lam để ngăn lũ lụt, bảo vệ xóm
làng. Ngày nay, con đê tả Lam sừng sững vững chãi ngăn nước lũ trên dòng Lam
giang trong những ngày mưa to bão lớn rất hiệu quả. Thành quả kỳ diệu này được
khởi nguồn từ trí tuệ và tấm lòng nhân văn một lòng vì dân, vì nước của Tri châu
Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
Công lao và sự nghiệp hiển hách, sáng ngời của Lý Nhật Quang đã được
thần tích đền Quả Sơn chép một cách ngắn gọn như sau: “Ngài ở châu 19 năm,
trừng trị bọn gian, khen thưởng người lành, khai khẩn đất hoang, chiêu mộ lưu dân,
bọn vô lại phải im hơi, người dân về với vương được yên thân nghiệp. Ngài
thường qua lại vùng này, vùng khác dạy nghề làm ruộng, chăn tằm, trồng cây cối,
nuôi gia súc, có nhiều chính sách có lợi cho dân, làm cho nhân dân đoàn kết.
Người đến kiện tụng thì lấy liêm sỉ, lễ nghĩa giảng dạy làm cho tự giác ngộ, ai nấy

đều cảm hóa, không bàn đến kiện cáo nữa”.
Nghệ An từ một vùng đất trại có nhiều biến động về nội trị và cả ngoại trị,
nhưng từ khi triều đình Thăng Long cử Lý Nhật Quang đến trị nhậm, với những
chính sách thân dân đầy trí tuệ và giàu lòng nhân văn, có tầm nhìn xa rộng nên
Nghệ An đã đi vào thế ổn định, chính trị vững vàng, kinh tế phát triển, nhân dân
được hưởng thái bình hạnh phúc.
Ngày 17 tháng 12 năm Đinh Dậu (1057), Lý Nhật Quang trút hơi thở cuối
cùng tại lỵ sở Bạch Đường. Hình hài, thân thể của Ngài được nhân dân kính cẩn
vùi trong cát bụi tại chân núi Quả Sơn, anh linh của Ngài đi vào cõi vĩnh hằng,
sống mãi trong tâm thức nhân dân xứ Nghệ. Về sau Ngài đã hiển thánh, luôn luôn
bảo quốc hộ dân. Lý Nhật Quang là người con của kinh thành Thăng Long, nhưng
lại hiển thánh trên đất Nghệ An.
Cuộc đời và sự nghiệp của Tri châu Uy Minh Lý Nhật Quang đã được nhân
dân xứ Nghệ huyền thoại hóa. Ở trên đất xứ Nghệ, nhân dân đã lập hơn 36 ngôi
đền để thờ Ngài, nhưng ngôi đền chính ở núi Quả Sơn là uy nghi, to lớn hơn cả.
Ngày nay, du khách đến chiêm bái ngôi đền Quả Sơn vẫn được nghe huyền thoại
về cái chết của Ngài:
“Lý Nhật Quang trong trận cuối cùng đánh giặc Lão Qua đã bị trọng
thương. Tuy giặc đã chém đầu Ngài, nhưng Ngài vẫn đặt đầu lên cổ và ngồi vững
vàng trên lưng ngựa chạy về. Khi về đến thôn Thượng Thọ (nay là thôn Trạc
Thanh, xã Lam Sơn) thì Ngài gặp một bà bán hàng chính là bà Bụt hóa thân. Ngài
hỏi xin bà Bụt một mảnh đất. Bà Bụt bảo cứ men theo vệ cỏ may, ngựa chạy đến
đâu thì đất của Ngài đến đó. Ngựa của Ngài chạy đến vùng đất hiện nay dựng đền
Quả Sơn (nay thuộc xã Bồi Sơn) thì quỳ xuống. Lý Nhật Quang ngã ngựa, đầu lìa
khỏi cổ, từ cổ Ngài òa ra một vũng máu. Chỗ ấy được mối đùn lên thành mộ gọi là
mộ thiên táng. Người dân Bạch Đằng khi đi qua đây thường gặp va chạm, họ bèn
lập một miếu tranh nhỏ để thờ Ngài”.
Hành trạng công cán của Lý Nhật Quang nhiều khi cũng đã được nhân dân
xứ Nghệ làm sống lại bằng những huyền thoại ly kỳ. Trong ký ức của người dân
Con Cuông còn lưu giữ bền vững một câu chuyện truyền kỳ như sau: “Quân Lão

Qua làm phản sang đánh phá miền Tây Nghệ An. Lý Nhật Quang đem đạo quân
Nghiêm Thắng đi dẹp. Thắng trận rồi, khi khải hoàn quân về đến Khe Chè (nay
thuộc Yên Khê, huyện Con Cuông), nhân dân vui mừng đưa trầu, rượu ra đón rước.
Trước tấm lòng ngưỡng mộ thịnh tình của nhân dân địa phương, Lý Nhật Quang
hể hả cầm cái điếu cày hút một hơi dài, rồi đặt điếu xuống đất. Nào ngờ chiếc điếu
là một đoạn tre đằng ngà lộn ngược; nên sau đó, từ chiếc điếu mọc lên một cây tre
cũng vít đầu xuống rồi mới trổ thẳng lên trời. Từ một cây tre trở thành một bụi tre.
Ở Khe Chè có loại tre mọc ngược là vì vậy”.
Cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của Tri châu Lý Nhật Quang đã khách
quan phản ảnh một cách sinh động giữa kinh thành Thăng Long và đất trại Nghệ
An có mối quan hệ lịch sử khăng khít. Triều đình Thăng Long muốn nền chính trị
cả nước ổn định và phát triển thì phải chú trọng quan tâm giữ gìn an ninh trật tự,
chấn hưng kinh tế, đưa lại cuộc sống ấm no, thái bình cho nhân dân Nghệ An.
Trong tâm thế đầy hào khí đó, nhân dân Nghệ An càng tin tưởng sắt son vào triều
đình Thăng Long.
Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, nhìn lại những trầm tích văn hóa Lý Nhật Quang
để lại vững bền trên đất Nghệ An, ta thấy rõ được quan hệ sắt son, tốt đẹp giữa
kinh thành Thăng Long và Nghệ An là niềm tự hào rất chính đáng, góp phần thiết
thực vào hành trang đưa Tổ quốc Việt Nam, đưa Nghệ An vững bước trên con
đường đổi mới hội nhập quốc tế để xây dựng cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân
ngày càng được thịnh vượng, hạnh phúc hơn.
Chú thích
(1) Châu Diễn lúc đó tương đương với phía Bắc tỉnh Nghệ An ngày nay.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1993, tr 243.
(3) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I chính biên, NXB GD, Hà Nội,
1998, tr 299.
(4) Châu Hoan gồm phía Nam tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
(5) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1993, tr 247.
(6) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr 262.


×