CHƯƠNG IV
Lã n h t h ỏ v à b i ê n g i ớ i q u ó c g i a
I.
NHỮNG VÁN ĐÊ PHÁP LÝ c ơ BẢN VÈ LÃNH
Th ó q u ố c g i a
1.1. Khái niệm về lãnh thổ
về phương diện ngôn ngữ, địa lý và pháp lý, lãnh thổ có
thê được hiêu một cách chung nhầt là toàn bộ trái đât bao gôm
đât liền (lục địa), các đảo, quần đảo, không gian vùng trời và
lòng đất (bao gồm Bắc cực, Nam cực, vùng trời quốc tế, vùng
biển quốc tế và đáy đại dương). Trong đó, mỗi quốc gia sẽ có
một phần của trái đất thuộc chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt
đôi. Lãnh thô là yếu tố không thể thiếu đối với sự hình thành và
phát triển của mơi dân tộc, mỗi quốc gia và cộng đồng qc tê.
Có thể nói ràng, vấn đề lãnh thổ nói chung và lãnh thổ, biên giới
cùạ mỗi qc gia nói riêng là nội dung quan trọng nhất trong hệ
thống pháp luật quôc tế.
Luật quốc tế về lãnh thổ, biên giới là một ngành luật độc
lập của luật quôc tế, bao gồm tổng thê các nguyên tắc, quy phạm
pháp luật quôc tê điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và
c ậc chủ thể khác của luật quốc tế về các vấn đề pháp lý liên quan
đèn lãnh thổ nói chung, lãnh thổ và biên giới quốc gia nói riêng.
Trong hệ thơng pháp luật quốc tế, luật quốc tế về lãnh thô, biên
êiới giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn định
v à bền vững của trật tự pháp lý quốc tê. trong mối quan hệ giữa
c ác quốc gia.
về phương diện khoa học luật quốc tế, quốc gia là chù thê
Cơ bàn và chủ yêu của luật quốc tê. Chính vì vậy, quốc gia tham
ỉpa vào hâu hêt các quan hệ qc tê. Qc gia được hình thành
bời các yếu tơ tự nhiên và xã hội, đó là lãnh thổ, dân cư, chính
phù và chủ quyên quốc gia. Trong đó, lãnh thổ quốc gia là cơ sờ,
225
nên tảng vật chất không thể thiếu để quốc gia hình thành, tồn tại
và phát triển.
Ngồi ra, lãnh thổ quốc gia cịn có ý nghĩa đối với việc tồn
tại và duy trì ranh giới quyên lực nhà nước đối với một cộng
đơng dân cư nhât định. Lịch sử hình thành, tồn tại và phát triên
của các quốc gia trên thế giới đã khẳng định tính chất đặc biệt
quan trọng của lãnh thổ quốc gia không chỉ đối với quốc gia mà
đối với cả các quan hệ quốc tế. Thực tiễn lịch sừ vận động và
phát triển của thế giới đã chứng minh rằng, từ trước đến nay các
tranh chấp, xung đột về lãnh thổ và biên giói là nguyên nhân phổ
biên và chù yêu của các cuộc chiên tranh ở các quy mô khác
nhau giữa các dân tộc và quôc gia. Lịch sử thê giới cũng đã
chứng kiến những cuộc chiên tranh dai dẳng, đẫm máu bùng phát
từ nguyên nhân là tranh châp lãnh thô biên giới giữa các quôc gia
như tranh chấp lãnh thô bang Samu - Kasmir giữa Án Độ và
Pakistan; tranh châp cao nguyên Golan giữa Syria và Israel;
tranh chấp lãnh thổ giữa Israel và Palestin; tranh chấp chủ quyền
đôi với đảo Chypre giữa Thô Nhĩ Kỳ và Hy Lạp; tranh chấp giữa
Anh và Argentina đôi với quân đảo Fankland (Islas Malvinas);
tranh chấp chủ quyền đôi với quần đảo Kuril giữa Nhật Bản và
Nga; tranh chấp quần đảo Tokdo (tiếng Hàn) hay Takeshima
(tiếng Nhật) giữa Hàn Quôc và Nhật Bản, tranh chấp về chủ
quyền giữa các quôc gia và vùng lãnh thổ trên biển Đơng trong
đó có Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei, Trung Quốc và
Đài Loan đối với hai quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tranh
châp về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những tranh châp
đặc biệt phức tạp vê lãnh thô biên đảo. Chính vì vậy, nếu khơng
có giải pháp hợp lý dung hịa qun lợi của các bên liên quan thì
nguy cơ xảy ra xung đột, ảnh hưởng lớn đến hịa bình, ổn định
của các nước trong khu vực và trên thế giới là điêu khơng thê
tránh khỏi.
Chính vì tầm quan trọng đặc biệt đó của lãnh thổ quốc giạ
mà chế định về lãnh thô quôc gia trong luật quốc tế là một chê
định rất quan trọng cả vê lý luận và thực tiễn.
226
v ề phương diện khoa học luật quốc tế, luật quốc tế điều
chỉnh vấn đề lãnh thổ, biên giới bao gồm các nội dung cơ bản và
chủ yếu sau:
- Quy định phương thức xác lập chủ quyền của quốc gia
đôi với lãnh thô;
- Quy định phương thức phân định lãnh thổ quốc tế với
lãnh thổ quốc gia cũng như phân định lãnh thổ, biên giới giữa
các quốc gia với nhau;
- Xác lập chế độ pháp lý của các bộ phận cấu thành lãnh
thổ quốc gia, biên giới quốc gia;
- Xác lập các vấn đề pháp lý cơ bản về giải quyết tranh
châp lãnh thô, biên giới quốc gia.
1.2. Phân loại lãnh thổ trong luật quốc tế
Căn cứ vào chế độ pháp lý và tính chất chủ quyền của các
hộ phận lãnh thơ, có thể phân lãnh thơ thành các loại sau đây:
- Lãnh thổ quốc gia là một phàn cùa trái đất, bao gôm
vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lịng đất thuộc chủ qun
hồn tồn, riêng biệt và tuyệt đối của quốc gia.
- Lãnh thổ thuộc quyền chủ quyền quốc giơ là những
vùng lãnh thô mà về phương diện pháp lý quốc tế, qc gia
khơng có qun xác lập chủ quyên nhưng quốc gia có cac
quyền chủ quyên trong quá trình quản lý, khai thác, bảo vệ và
sử dụng. Các vùng lãnh thổ thuộc quyền chủ quyền quốc gia chi
có ở trên biên, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyên
kinh tế và thềm lục địa.
- Lãnh thơ quổc gia có chê độ sừ dụng quốc té: trước hêt
phải khẳng định rằng các vùng lãnh thô này là lãnh thổ quôc gia,
thuộc chủ quyền quốc gia nhưng xuất phát từ vị trí và tầm quan
trọng đặc biệt của chúng trong hoạt động hàng hải, hàng không
227
quốc tế nên tại đây phương tiện bay, phương tiện bơi của tất cả
các qc gia có thê sử dụng đê “đi qua không gây hại”. Các bộ
phận lãnh thổ này rất đa dạng, có thể là kênh đào quốc tế (kênh
đào Panama, kênh đào Suez); eo biển quốc tế như eo biển Mala
ca, eo biên Manche, eo biển Montreux - Thổ N hĩ K ỳ1 và kể cả
vùng lãnh hải của quốc gia. Bởi lẽ, theo quy định của công ước
Liên hợp quốc (LHQ) về luật biển quốc tế năm 1982, tàu thuyền
của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền “đi qua không gây
hại ” trong lãnh hải của các nước có biển trên nguyên tắc tự do
hàng hải.
- Lãnh thổ quốc tế là những vùng lãnh thổ không thuộc
chủ quyền (không phải là lãnh thổ) hoặc quyền chủ quyền của
quốc gia như vùng trời quốc tế, vùng biển quốc tế, châu Nam
cực, đáy đại dương. Trên các vùng lãnh thổ quốc tế, tất cả các
quốc gia đêu có qun nghiên cứu khoa học, thăm dị, đo đạc,
khai thác vì mục đích hịa bình.2
1.3. Lãnh thổ quốc gia trong luật quốc tế
1.3.1. Định nghĩa lãnh thể quốc gia
Lãnh thổ quốc gia là một trong bốn yếu tố cơ bản tạo nên
tư cách pháp lý cùa quốc gia - chủ thể cơ bản, chủ yếu của luật
quốc tế. Đồng thời, lãnh thổ quốc gia là không gian xác định chủ
quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, lãnh thổ quôc
1 Chế độ pháp lý cùa kênh đào Suez đã được quy định tại Hiệp ước Constantinople
ngày 29/8/1888; chế độ pháp lý cùạ eo biển Montreux được quy định tại Hiệp
ước ngày 20/7/1936 về eo biển Thổ Nhĩ Kỳ (Détroites des Dardanelles) và hai
Hiệp ước ngày 18/11/1901 và ngày 18/11/1903 về kênh đào Panama. Theo
các điều ước quốc tế này, chê độ độ sử dụng các kênh đào và eo biển này đã
được quốc tế hóa.
2 Chế độ pháp lý của Nam cực đã được cụ thể hộa trong Công ước
Washington năm 1959, chế độ pháp lý cùa vùng trời quốc tê đã được cụ the
hóa trong Công ước Chicago năm 1944 và chế độ pháp lý của biển quôc tê,
đáy đại dương cũng đã được cụ thể hóa trong Cơng ước cùa LHQ về luật biên
năm 1982.
228
gia là “bằng chúng’’ pháp lý chứng minh sự hiện hữu của một
quốc gia trên thực tế. Có nghĩa là, nếu khơng có lãnh thổ sẽ
khơng có quốc gia tồn tại trên thực tế. Tương tự, nếu một quốc
gia không cịn lãnh thổ thì tư cách chủ thể của luật quốc tế của
quốc gia cũng sẽ chấm dút.
về phương
diện pháp lý quốc tế, lãnh thổ quốc gia là một
phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời trên
chúng và lòng đất dưới chúng thuộc chủ quyền của quốc gia.
1.3.2 Các bộ phận cẩu thành lãnh thồ quốc gia
1.3.2.1. Lãnh thổ vùng đất
Lãnh thô vùng đất của một quốc gia là toàn bộ phần đất
liền (đất lục địa) và các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của quốc
gia kể cả các đảo và quần đảo gần bờ hoặc xa bờ. Ví dụ, là một
nước ven biển, lãnh thổ vùng đất của nước ta bao gồm toàn bộ
dài đât hình chữ “S” nằm ờ lục địa Đơng Nam châu Á và các
đảo, quân đảo gần bờ hoặc xa bờ như đảo Thổ Chu, Bạch Long
Vĩ, Côn Đảo, Phú Quốc, cồ n cỏ , Phú Quý... và 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đổi với các quốc gia quần đảo như
Indonesia3, Philippines4, lãnh thổ vùng đất bao gồm tất cả các
đảo thuộc chủ quyền của quốc gia đó.
Đối với tám quốc gia có lãnh thổ giáp Bắc cực là Cộng hòa
Liên bang Nga, Mỹ, Na Uy, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển,
Phân Lan và Iceland, lãnh thổ của các quốc gia này cịn bao gơm
cả phần đất hình rẻ quạt nằm trong khu vực Bắc cực. Phần đất
3 Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Repitblik Indonexia• Hán Việt: Nam
Dương), là một quốc gia nằm trên hai lục địa ờ Đôn" Nam Á và châu Đại
Dương. Indonesia gồm 17.508 hòn đảo.
Cộng hòa Philippines (tiếng Philippines: Repúbliká Pilipinas), hay Philippin
(tiêng Philippin: Pilipinas), trong tiếng Việt còn được gọi là Phi Luật Tân là
niột nước ờ Đơng Nam Á có thù đơ là Manila và gồm 7.107 hòn đảo được gọi
'à quần đào Philippin, trong đó gần 700 đảo có người ờ.
229
này được xác định bằng cách nối cực Bắc với hai điểm tận cùng
của đường biên giới quốc gia tiếp liền với Bắc cực.
về phương diện pháp lý quốc tế, quốc gia có chủ quyền
hồn tồn và tuyệt đối đối với lãnh thổ vùng đất. “Quốc gia chủ
nhà” là chủ thể duy nhất có đầy đủ các quyền năng chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt các vấn đề pháp lý liên quan đến lãnh thổ
vùng đất của quốc gia. Thẩm quyền này của quốc gia chủ nhà là
riêng biệt và tuyệt đối khơng kể vị trí tồn bộ hoặc một phần của
lãnh thổ nằm ờ đâu.5
1.3.2.2. Lãnh thổ vùng nước
Vùng nước của quốc gia là toàn bộ các bộ phận nước nằm
bên trong đường biên giới quốc gia. Do vị trí địa lý và các yếu tố
tự nhiên của từng quốc gia khác nhau nên lãnh thổ vùng nước
của các quốc gia cũng có sự khác biệt. Các quốc gia có biển
(quốc gia ven biển hoặc quốc gia quần đảo) sẽ có vùng nước nội
thủy và vùng nước lãnh hải là 2 vùng nước đặc biệt quan trọng
cấu thành lãnh thổ quốc gia trên biển. Tuy nhiên, các quốc gia
không có biển như Lào, Mơng c ổ , Nepal, Bhutan, Uruguay,
Slovenia.... sẽ khơng có hai vùng nước này.
Dựa vào vị trí địa lý và tính chất chủ quyền quốc gia đối
với từng bộ phận lãnh thổ vùng nước mà lãnh thổ vùng nước của
quốc gia được chia thành bốn bộ phận là vùng nước nội địa,
vùng nước biên giới, vùng nước nội thủy và vùng nước lãnh hải.
a. Vùng nước nội địa
Vùng nước nội địa của quốc gia bao gồm các bộ phận
nước ờ các sông, suối, kênh, rạch... kể cả tụ nhiên và nhân tạo
nằm trên đất liền hay biển nội địa. Vùng nước nội địa thuộc chủ
5 Xuất phát từ hoạt động tìm kiếm, khám phá lãnh thổ hoặc kết quả của quá
trình xâm lược thuộc địa trước đây, bên cạnh các vùng lãnh thô đã xác định ơ
chậu Âu, châu Mỹ, các quốc ậia như Pháp, Anh, Hà Lan, M ỹ... cịn có lãnh
thồ vùng đất ờ các đảo, cac quan đảo trên Thái Bình Dương, Đại Tây Dương.
230
quyền hồn tồn và tuyệt đối của quốc gia. Có nghĩa ỉà, quốc gia
chủ nhà là chủ thể duy nhất cỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt các vấn đề pháp lý liên quan đến vùng nước nội địa
trên cơ sở phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của cộng đồng
dân cư sống trên lãnh thổ quốc gia.
Đối với các kênh đào quốc tế và eo biển quốc tế, xuất phát
từ vị trí địa lý đặc biệt của chúng nằm trên đường hàng hải, hàng
không quôc tê nên phương tiện bay, phương tiện bơi của tât cả
các quôc gia đêu có qun “đi qua khơng gây hại” theo nguyên
tấc tự do hàng hải, tự do hàng không.
b. Vùng nước biên giới
Vùng nước biên giới của một quốc gia bao gồm nước ở
biển nội địa, sông, suối, đầm ao, kênh rạch.... nằm trong khu vực
biên giới giữa các quốc gia. Chính vì vậy, việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt và các vấn đề pháp lý khác liên quan đến vùng
nước biên giới phải có sự đồng thuận của các quốc gia trong khu
Vực biên giới. Trong thực tiễn, các quốc gia có chung vùng nước
biên giới sẽ ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương đê điêu chỉnh các hoạt động liên quan đến việc quản lý,
khai thác, sử dụng và bảo vệ vùng nước biên giới để quy định vê
các vấn đê như: cách thức xây dụng, khai thác các cơng trình
thủy điện, tưới tiêu, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường, việc đi lại
của người và phương tiện giao thơng... Do đó, vùng nước biên
giới thuộc chủ quyền hồn tồn, đầy đủ nhimg khơng tuyệt đôi
như ở vùng nước nội địa.
c. Vùng nước nội thủy
Vùng nước nội thủy là một bộ phận lãnh thổ trên biển của
quốc gia. Nội thủy có chiều rộng được xác định bởi một bên là
bờ biển còn bên kia là đường cơ sở của quốc gia ven biển. Vùng
nước nội thủy của quốc gia quần đảo là toàn bộ phần nước biên
năm bên trong đường cơ sở của quôc gia quần đảo và được gọi lù
vùng nước quần đảo.
231
về vị trí địa lý và pháp lý, nội thủy gắn liền với đất liền và
là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia, thuộc chủ
quyền hồn tồn và tuyệt đối của quốc gia. Chính vì vậy, mọi luật
lệ, quy chế được ban hành trên đất liền đều được áp dụng ở vùng
nước nội thủy mà khơng có bất kỳ ngoại lệ nào. Chủ quyền hồn
tồn và tuyệt đối của quốc gia đối với vùng nước nội thủy được áp
dụng cho cả lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và
vùng trời trên nội thủy. Theo đó, quốc gia ven biển có quyền tối
cao trong việc chiếm hữu, sử dụng, khai thác và định đoạt các vấn
đề pháp lý đối với vùng nước nội thủy.6
d. Vùng nước lãnh hải
Vùng nước lãnh hải là một bộ phận cấu thành lãnh thổ trên
biển của quốc gia. Lãnh hải có chiều rộng được xác định bởi một
bên là đường cơ sở và bên kia là ranh giới phía ngồi của lãnh
hải. Trong trường họp quốc gia khơng đối diện hoặc không tiếp
giáp với bất kỳ quốc gia nào trên biển thì ranh giới phía ngồi
của lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển. Theo
Điều 3 Công ước của LHQ về luật biển quốc tế năm 1982 thì
"Mọi quốc gia đểu cỏ quyển ẩn định chiều rộng lãnh hải của
mình; chiểu rộng này khơng vượt quá 12 hải lý tỉnh từ đường cơ
sở... ”. Theo Tun bố của Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chù
nghĩa (CHXHCN) Việt Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của CHXHCN Việt Nam ngày
12/5/1977 thì “ Lãnh hải của mrớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngồi đường cơ sở nơi liên các
điểm nhô ra xa nhát của bờ biên và các điểm ngoài cùng cùa các
đảo ven bờ cùa Việt Nam7... ’’
về phương diện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ,
lãnh hải là bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy
6 Xem thêm cách xác định và chế độ pháp lý của nội thủy tại chương Luật
Biển quốc tế.
1. Điều 1.
232
đủ của qụôc gia. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền của các quốc
gia có biên hay khơng có biển đều được quyền “đi qua không
gây hại ”.8
1.3.2.3. Lãnh thổ vùng trời
Vùng trời của quốc gia là khoảng không gian bao trùm trên
vùng đât và vùng nước của quôc gia, thuộc chủ quyền hồn tồn
và riêng biệt của qc gia. Có nghĩa là, tồn bộ khoảng khơng
gian bao trùm trên đất liền, trên các đảo, quần đảo, trên vùng
nước biên giới, vùng nước nội địa, vùng nước nội thủy và vùng
nước lãnh hải là lãnh thổ vùng trời của quốc gia.
Hiện nay, chưa có văn bản pháp lý quốc té nào quy định
độ cao của vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia. Bên cạnh đó,
hầu hết các quốc gia khơng quy định cụ thể độ cao này mà chỉ
tuyên bố xác lập chủ quyền của quốc gia đối với vùng trịi mà
thơi.9 Với vùng trời quốc gia, quốc gia có chủ quyền tối cao và
trọn vẹn trong việc thiết lập và thực hiện các quyền năng vê
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt cũng như giải quyết các vấn đề
pháp lý liên quan đến vùng trời quốc gia. Theo đo, quốc gia có
tồn qun điêu chỉnh, cho phép và kiểm sốt mọi hoạt động
hàng khơng, vũ trụ, kể cả hàng không dân dụng, quân sự, phi
thưong mại, thê thao giải trí, tìm kiêm, cứu hộ, cứu nạn... Đơng
8 Xem thêm các vấn đề pháp lý về “quỵền đi qua không gây hại" và các vân
đề pháp lý về lãnh hải tại chương 7 ' Luật Biên quôc tê.
9. Ngày 5-6-1984, Chính phủ nươc Cộng hịa xã hội chù nghĩa Việt Nam đa ra
Tuyen bố về vùng trời Viẹt Nam, tại điểm 1 cùa Tuyên bố này đã xác đinh ro:
"Vùng trời cùa Cộng hòa xã hội chù nghĩa tiệt Nam là khống khơng gtan o
trên đất liền, nội thuy, lãnh hài và các hái'đáo Việt Nam và thuộc chu quycn
hoàn tồn và riêng hiệt cita nước Cộng hịa xã hội chù nghĩa VỊật Nam ■
Năm 1985, tại Hội nghị cùa Tồ chức llàng không dân dụng quốc tế tô chức tại
Canada, Liên Xo và Mỹ đưa ra đề nghị các quốc gia nen quy định độ cạo
vùn« trời thuộc chủ quyền quốc gia là 100km+- lOkm. Hai quôc gia nay ạp
luận rằng độ cao IOOkrn là độ cao bay tôi thiêu cùa vệ tinh nhân tạo ± 10 km
là biên độ dao động bay cùa vệ tinh nhân tạo nhưng đề nghị cùa hai quoc gia
này không được các quốc gia khác châp nhận.
233
thời, mọi phương tiện bay nước ngoài được phép hoạt động trên
lãnh thô vùng trời quốc gia đều phải tuân thủ tuyệt đối pháp luật
của quốc gia sở tại.
1.3.2.4. Lãnh thổ vùng lòng đất
Vùng lòng đất của một quốc gia là toàn bộ phần đất dưới
vùng đất và vùng nước của quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn
và tuỵệt đối của quốc gia. Có nghĩa là, tồn bộ phần đất nằm dưới
đất liền, dưới các đảo, quần đảo, dưới vùng nước biên giới, vùng
nước nội địa, vùng nước nội thủy và vùng nước lãnh hải là lãnh
thổ vùng lòng đất của quốc gia. Cũng như lãnh thổ vùng trời, lãnh
thổ vùng lòng đất của quốc gia được mặc nhiên thừa nhận trong
thực tiễn pháp lý quốc tế thông qua việc xác định lãnh thổ vùng
đất và vùng nước.10 Theo đó, lãnh thổ vùng lòng đất của quốc gia
được xác định từ bề mặt trái đất đến tâm của trái đất.
Quốc gia chủ nhà là chủ thể duy nhất có quyền tối cao
thực hiện quyên chiêm hữu, sử dụng và định đoạt cũng như giải
quyết các vấn .đề pháp lý liên quan đến lãnh thổ vùng lịng đất
của quốc gia.
Ngồi các bộ phận cấu thành lãnh thổ tự nhiên của quốc
gia như trên, tàu thuyền, máy bay quân sự, các công trình, thiết
bị nhân tạo của quốc gia như hệ thống cáp ngầm, ống dẫn ngầm,
đảo nhân tạo... mang cờ hoặc dấu hiệu riêng biệt, hợp pháp của
quốc gia hoạt động hoặc nằm ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia (ở
vùng biển quốc tế, châu Nam Cực, khoảng không vũ trụ) được
thừa nhận có chế độ pháp lý như lãnh thổ quốc gia với tên gọi là
“lãnh thô di động”, ‘‘lãnh thô bay” hay “lãnh thô bơi”.
Từ việc nghiên cứu các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc
gia có thể kết luận rằng: xuất phát từ lãnh thổ vùng đất, chủ
10 Điều IV Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam với
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng đã xác định: "Mặt thặng đứng đi theo
đường biên giới trên đât liên giữa Việt Nam và Trang Qc nói tại Điều
cùa Hiệp ước nàvphân định vùng trời và lòng đất giữa hai nước".
234
II
quyền của quôc gia đôi với lãnh thô sẽ giảm dần khi tiến ra biển
và tiến lên không gian. Trong đó, lãnh thổ vùng đất là bộ phận
lãnh thơ khơng thể thiếu và là nơi chủ yếu để quốc gia thực hiện
chủ qun của mình. Chính vì vậy, chủ quyền quốc gia đối với
lãnh thô vùng đât là mạnh nhất. Mặt khác, lãnh thổ vùng đất
quyết định lãnh thổ trên biển, lãnh thổ trên khơng và lịng đất.
Bởi lẽ, việc xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ vùng đất
là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để quốc gia lập chủ quyền đối
với lãnh thô trên biển, lãnh thổ trên khơng và lãnh thổ lịng đất.
1.4. Chủ quyền quốc gia đối vói lãnh thổ
1.4.1. Các học thuyết về chủ quyền quốc gia đối với
lãnh thô
Lịch sử phát triển của khoa học luật quốc tế từ trước đến
nay đã xuât hiện nhiều học thuyết, tư tưởng, quan điểm khác
nhau vê quyên tôi cao của quốc gia đối với lãnh thổ, điển hình là
học thuyêt tài vật, học thuyết cai trị và học thuyết thẩm quyền
được hình thành, thừa nhận và phát triển ở châu Âu và Mỹ từ
thời kỳ phong kiến cho đến đầu thế kỷ XX.
1.4.1.1. Học thuyết tài vật
Thuyêt tài vật ra đời trong thời kỳ phong kiến và được
khởi xướng bởi các nhà luật học người Đức xperạnski,
Bustaman và Laband. Thuyết tài vật cho rằng, lãnh thổ quốc gia
là một loại tài sản - bất động sản thuộc quyền sở hữu của quốc
gia, như một vật thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nhất định.
Chính vì vậy, trong thời kỳ này, lãnh thổ quốc gia có thể
được tặng cho, rnua bán, thừa kê theo sự định đoạt cúa vua. Nói
cách khác, việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt lãnh thổ quốc gia trong thời kỳ phon« kiến thuộc
quyền tơi cao của vua. Những người khởi xướng và ủng hộ học
thuyêt tài vạt đã sai lầm khi đông nhât chủ quyền quốc gia đơi
với lãnh thơ vói quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sàn thuộc
sở hữu của cá nhân.
235
1.4.1.2. Học thuyết cai trị
Thuyết cai trị ra đời trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản
ở châu Âu và được khởi xướng bởi các đại biểu như Beluychly,
Phivicke, Erlonec và Palienco. Học thuyết cai trị cho rằng, lãnh
thổ quốc gia là khoảng khơng gian trong đó tồn tại quyền lực của
nhà nước, là giới hạn lãnh thổ vùng đất, vùng nước, vùng trời
trong đó chủ quyền quốc gia được thi hành. Lãnh thổ quốc gia
không phải là một vật mà chính là phạm vi cai trị của quốc gia.
Chính vì vậy, quyền lực của quốc gia ảnh hưởng tới đâu thì lãnh
thơ của quốc gia mờ rộng tới đó.
Những người ủng hộ học thuyết này đã hợp pháp hóa sự
bành trướng, phạm vi cai trị bàng xâm lược bất chấp lợi ích của
cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ. Học thuyết này chính là cơ
sở lý luận nhàm củng cố lợi ích của chế độ thực dân kiểu cũ.
1.4.1.3. Học thuyết thẩm quyền
Học thuyết thẩm quyền ra đời vào năm 1906 do Rapniski
khởi xướng và sau này được Kensel, s. Rousseau và một số học
giả khác ở châu Âu phát triển thêm. Học thuyết này cho rằng,
lãnh thổ quốc gia chỉ là một khái niệm trừu tượng. Trong phạm
vi lãnh thổ quốc gia không chỉ tồn tại quyền lực của qc gia chủ
nhà mà cịn tồn tại quyền lực của các quốc gia khác nữa (mặc dù
quyên lực này rất hạn chế). Học thuyết này biện minh cho hành
vi của các quốc gia tư bản phát triên can thiệp vào công việc nội
bộ của các quốc gia thuộc địa, các quốc gia nghèo, kém phát
triển. Học thuyết thẩm quyền là cơ sở lý luận được các nước đế
quốc tư bản vận dụng triệt để trong quan hệ quốc tế.
Các học thuyết trên đều đề cập quyền tối cao của quốc gia
đối với lãnh thổ một cách sai lệch. Mặc dù được thê hiện ở nhiều
mức độ khác nhau, chung quy lại các học thuyết này đều có nội
dung phủ nhận một phần hoặc toàn bộ quyền tối cao của quốc
gia thuộc địa hoặc các quốc gia phụ thuộc đối với lãnh thổ của
họ. Chính vì vậy, hiện nay các học thuyết này không được thừa
236
vì nội dung của chúng khơng phù hợp với bản chất của luật
quốc tế hiện đại.
nhận
1.4.2. N ội dung chủ quyền quốc gia đổi với lãnh thổ
Luật quôc tế hiện đại thừa nhận chủ quyền quốc gia đôi
với lãnh thô là một thuộc tính khơng thể tách rời và vốn có của
mỗi quốc gia. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là biểu
hiện chủ quyên thiêng liêng và bất khả xâm phạm của quốc gia
trên hai phương diện có quan hệ biện chứng, đó là phương diện
vật chất và phương diện quyên lực. Vê phương diện vật chát,
lãnh thổ quôc gia là cơ sở, nền tảng vật chất khơng thể thiếu đê
một quốc gia hình thành, tồn tại và phát triển. Lãnh thổ quốc gia
thuộc quyền sờ hữu của quốc gia chủ nhà và chỉ có quốc gia chủ
nhà là chủ thê duy nhất có tồn qun chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt, giải quyết các vấn đề pháp lý đối với lãnh thổ quốc gia
trên cơ sở tơn trọng lợi ích và sự lựa chọn của cộng đồng dân cư
sổng trên lãnh thô. Quyền tổi cao của quốc gia đối với lãnh thô
xét về phương diện vật chất có thể coi như quyền sở hữu của
quốc gia đôi với tài sản là lãnh thô của quốc gia. về phương diện
quyền lực, quyên lực của quốc gia được thực hiện trong phạm VI
lãnh thổ quôc gia. Đây là quyền tối cao của quốc gia đối với mọi
cá nhân, tô chức kể cả cá nhân, tổ chức, pháp nhân nước ngoài
và các tổ chức quốc tế. Quyền lực này được thực hiện thông qua
hoạt động của hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp của nhà nước. Hoạt động của các cơ quan này bao trùm trên
tât cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của quốc gia trong phạm
vi lãnh thô cũng như trong quan hệ quốc tế. Theo đó, trong phạm
vi lãnh thơ của mình, quốc gia chủ nhà có quyền thực hiện mọi
hoạt động không bị pháp luật quốc tế cấm. Các quốc gia khác,
các tổ chức qc tế có nghĩa vụ tôn trọng quyền lực của quôc gia
chù nhà và khơng có quyền chia sé hoặc áp đặt quyền lực cùa
mình trên lãnh thổ của quốc £Ĩa khác. Kêt hợp đúng đắn và hài
hòa hai phương diện quyền lực và vật chât của quyền tối cao của
quốc gia đối với lãnh thổ sẽ bảo đảm được chủ quyền của quốc
gia đối với lãnh thổ, đúng với bản chất của nó.
Luật quốc tế thừa nhận quyền dân tộc tự quyết là cơ sở
pháp lý để thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ. Chính
vì vậy, mọi vấn đề pháp lý liên quan đến việc định đoạt lãnh thổ
qc gia đêu phải dựa trên ý chí và quyền tự quyết của người dân
sống trên lãnh thổ quốc gia thơng qua hình thức trưng cầu dân ý.
1.4.3. Quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia
1.4.3.1. Khái niệm quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia
về phương
diện pháp lý, quy chế pháp lý của lãnh thổ
quốc gia là biểu hiện và là sự cụ thể hóa quyền tối cao của quốc
gia đối với lãnh thổ, là chủ quyền không thể phân chia và tước
đoạt của quốc gia trong quan hệ quốc tế được luật quốc tế thừa
nhận và bảo đảm thực hiện. Nói cách khác, quy chế pháp lý của
lãnh thổ quốc gia chính là tơng thể các nguyên tắc và quy phạm
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm thiết lập và điều
chỉnh chế độ quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ và định đoạt các
vân đề pháp lý liên quan đến lãnh thổ quốc gia.
Quá trình thực hiện quyền chiếm hữu, quản lý, sử dụng,
khai thác và đinh đoạt của quốc gia đối với lãnh thổ được thực
hiện thông qua hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp của quốc gia. Nội dung chủ yếu về quy chê pháp lý của
lãnh thổ quốc gia bao gồm nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia và các nội dung cơ bản khác.
1.4.3.2. Nguvên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh
thổ
Nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ bắt
nguồn từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia đổi với lãnh
thổ và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nguyên tắc này
được ghi nhận trong Hiến chương LHQ và các văn kiện pháp lý
quốc tế quan trọng khác như Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại
238
hôi đồng LHQ về các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mối quan hệ
hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chuơng
LHQ, Nghị quyêt 290 của Đại hội đồng LHQ về các nhân tô chủ
yếu của hịa bình ngày 1/12/1949, Nghị quyết về trao trả độc lập
cho các nước và các dân tộc thuộc địa ngày 14/12/1960, Thông
cáo chung của hội nghị Á - Phi tại Bandung, Indonesia ngày
24/4/1955...
Điều 2 khoản 4 của Hiến chương LHQ đã khẳng định:
“Trong quan hệ quan hệ quốc tế, các hội viên Liên hợp qc
khơng được có hành động đe dọa băng vũ lực hay sử dụng vũ lực
dể chổng lại quyên bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nên độc
lập chỉnh trị của bất kỳ nước nào, hoặc bằng cách này hay cách
khác làm trái với những mục đích của Liên hợp quốc
Bất khả xâm phạm lãnh thổ quốc gia có nghĩa là trong
quan hệ qc tê, các quốc gia không được sử dụng hoặc đe dọa
sử dụng vũ lực đê xâm phạm lãnh thô quốc gia khác. Tồn vẹn
lãnh thổ có nghĩa là tất cả các quốc gia đều có nghĩa vụ tn thủ
pháp luật qc tê, không tiến hành các hành động đe dọa hoặc
xâm phạm đên lãnh thổ quốc gia khác như chuyển dịch, thơn
tính, chia căt lãnh thổ bao gồm biên giới quốc gia của bât kỳ
quốc gia nào dưới bất kỳ hình thức và biện pháp nào.
Q uốc gia chủ nhà có quyền thực hiện tất cả các biện pháp
cần thiết đê bảo vệ, giữ gìn và quàn trị lãnh thổ theo sự lựa chọn
của họ nhăm đảm bảo tính thống nhất và tồn vẹn lãnh thơ của
quốc gia. Q^c gia có quyền sử dụng tất cà các biện pháp cân
thiết, bao gơm cả sử dụng vũ trang đê phịng thủ, bảo vậ hoặc
chổng lại bât kỳ sự vi phạm nào từ bên ngồi vào lãnh thơ qc
gia vơi điều kiện tn thủ luật pháp quốc tế.
Tóm lại, nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh
thổ bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:
- N ghiêm cấm xâm chiêm lãnh thô quốc gia bàng cách đe
dọa hoặc sử dụng vũ lực;
239
- Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm;
- Không được sừ dụng lãnh thổ quốc gia khi không được
sự đồng ý của quốc gia chủ nhà;
- Không được sử dụng lãnh thổ hoặc cho các quốc gia khác
sử dụng lãnh thổ của mình để gây thiệt hại cho quốc gia thứ ba.11
1.4.3.3. Nội dung quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia
Xuất phát từ nguyên tắc chù quyền quốc gia, quốc gia chủ
nhà có quyền ấn định quy chế pháp lý đối với lãnh thổ của mình
trên cơ sở phù hợp với pháp luật quốc tế. Dựa vào các nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế, quốc gia xác lập quy chế pháp lý của
lãnh thổ quốc gia bằng cách ban hành các văn bản pháp luật điều
chỉnh quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia với những nội dung
cơ bản sau đây:
11 Ví dụ, các nước trong khu vực tiểu vùng sơng Mekong, đặc biệt là các quốc
gia ở hạ nguồn như Cambodia và Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ "khát
nước ngọt ” hoặc biến đơi dịng chày, cạn kiệt tài nguyên, thay đồi hệ sinh thái
tự nhiên của sông Mekong vì những cơng trình xây đập thủy điện, tưới tiêu
của các nước ở thượng nguồn đặc biệt là Trung Quốc từ những năm đầu của
thế kỷ XXI đến nay. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Nông
lương thế giới ( Food and Agriculture Organization, FAO), Tổ chức Khí
tượng thế giới ( World Metereologỉcal Organization, OMM) và Tổ chức Y tế
thế giới ( World Health Organization, WHO), việc xây dựng các cơng ừình
đập chăn nước nhăm mục đích thủy điện của Trung Quốc và Lào sẽ là một
nguy cơ lớn đôi với môi trường sinh thái sơng Mekong nói riêng và tồn khu
vực nói chung và nó sẽ “giêt chêt” sơng Mekong trong tương lai. Việc sử
dụng này, trong nhiều trường hợp sẽ tạo nên những tình thế hoặc tranh chấp
đe dọa hịa bình, an ninh qc tê. Việc sử dụng lãnh, thồ của mình gây thiệt hại
cho quốc gia khác có thể gây ra những tình thế hoặc tranh chấp đe dọa hịa
bình, an ninh thế giới. Chẳng hạn, Myanmar xây dựng đập nước trên sông
N aaf năm trên lãnh thô của Myanmar nên Bangladesh đã phản đơi quyết liệt
vì cho răng việc Myanmar xây dựng đập nước như vậy là gây thiệt hại cho họ.
Ngày 15/1/2001 Bangladesh đã đưa quân đội đến khu vực này. Tương tự,
ngày 13/9/2002 Thủ tướng Israel tuyên bố sẽ đưa quân đội vào khu vực sông
Hasbani (nguồn cung cấp nước chủ yếu cho Israel) nếu Liban cố tình làm
chệch hướng dịng chảy cùa sơng này.
240
Một là , quốc gia có tồn quyền tự do lựa chọn chế độ
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội phù hợp với nguyện vọng của
cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó mà khơng có sự can
thiệp hoặc áp đặt dưới bất kỳ hình thức nào từ bên ngoài. Trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia, quốc gia chủ nhà có quyền tối cao về
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội của quốc gia phải dựa trên nguyên tắc quyền
dân tộc tự quyết, lợi ích của quốc gia, lợi ích của cộng đồng dân
cư sống trên lãnh thổ đó và do quốc gia chủ nhà quyết định. Các
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế khơng có quyền
can thiệp. Bởi lẽ, “khơng can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia” đã được thừa nhận là một trong 7 nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế. Mọi tổ chức, cá nhân cư trú, hoạt động trong
lãnh thổ quốc gia đều phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó.
Mọi hành động gây sức ép hay can thiệp nhằm mục đích ép buộc
quốc gia từ bỏ hoặc thay đổi chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội mà quốc gia đã lựa chọn là hành vi vi phạm nghiêm trọng
luật pháp quốc tế.
Hai là, quốc gia có quyền lựa chọn và quyết định phương
hướng phát triển đất nước, thực hiện những cải cách kinh tế - xã
hội phù hợp với các đặc điểm của quốc gia. Các quốc gia khác có
nghĩa vụ tơn trọng sự lựa chọn đó. Sự lựa chọn này xuât phát từ
đặc điểm riêng biệt của mỗi quốc gia.
Ba là, quốc gia tự quy định chế độ pháp lý đối với từng
vùng của lãnh thổ quốc gia. Theo nội dung này. chỉ có quốc gia
chủ nhà mới là chủ thể có tồn quyền quyết định chế độ pháp lý
dối với từng vùng của lãnh thổ quốc gia trôn cơ sờ phù hợp với
các chuẩn mực chung của luật pháp quốc tế. Ví dụ, Cơng ước
của LHQ về luật biển quốc tế năm 1982 tại Điều 3 quy định:
“Mọi quốc gia đều có quvền ẩn định chiều rộng lãnh hài cùa
mình; chiêu rộng này khơng vượt q 12 hài lý kê từ đường cơ
sở được vạch ra theo đúng công ước''. Như vậy, qc gia có
quyền trong việc ấn định chiều rộng lãnh hải của mình và
241
quyền này chỉ bị giới hạn bởi quy định về
12 hải lý ...” .
khơng vượt q
Bổn là, quốc gia có quyền sở hữu hồn tồn đơi với tài
ngun và tư liệu sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của mình.
N hư đã phân tích, lãnh thổ quốc gia là nền tảng vật chất quan
trọng của quốc gia, thuộc quyền sở hữu của quốc gia, chỉ có
quốc gia mới có đầy đủ quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt lãnh thổ quốc gia trên cơ sờ phù hợp với lợi ích và sự lựa
chọn của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ quốc gia. Tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia bao gồm đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở
thềm lục địa... và cả phần vốn và tài sản của nhà nước đầu tư
vào các xí nghiệp, cơng trình thuộc tất cả các ngành nghề, các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh đều thuộc
quyền sở hữu của quốc gia.
Năm là, quốc gia có quyền tài phán đối với mọi cá nhân, tổ
chức trong phạm vi lãnh thổ quốc gia (trừ trường hợp pháp luật
quốc gia và các điều ước quốc tế mà quốc gia ký kết hoặc tham
gia có quy định khác). Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc
gia, quốc gia có quyên ban hành pháp luật có phạm vi áp dụng
trên tồn lãnh thổ quốc gia bắt buộc cá nhân, tổ chức kể cả các cá
nhân, tổ chức hước ngoài phải tuân thủ. Tuy nhiên, trong những
trường hợp đặc biệt, các cá nhân được hưởng các quyền ưu đãi,
miễn trừ ngoại giao, lãnh sự ghi nhận trong các điều ước quốc tế
mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Quốc gia có quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thích hợp, kể cả quốc hữu hóa, trưng
thu, trưng dụng, trưng mua tài sản của các cá nhân, tổ chức nước
ngoài. Điều kiện và thể thức thi hành các hoạt động trên do pháp
luật của quốc gia quy định.
Sáu là, quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ và cải tạo
lãnh thổ quốc gia theo những yêu cầu chung của luật pháp quốc
tế như đảm bảo môi trường sống trong sạch, không gây ô nhiễm
môi trường ở vùng biển, châu Nam Cực...
242
1.5.
lãnh thổ
Thay đổi và xác lập chủ quyền quốc gia đối với
1.5.1. Thay đổi lãnh thổ quốc gia
Lãnh thổ quốc gia được hình thành trong quá trình vận
động của lịch sử, gắn liền với cộng đồng dân cư nhất định. Lãnh
thổ quốc gia cũng gắn liền với đặc trưng văn hoá, xã hội của
cộng đồng dân cư này. Mặc dù lãnh thổ quốc gia là ổn định, toàn
vẹn và bất khả xâm phạm, lãnh thổ quốc gia vẫn có thể thay đổi
trong một số trường hợp nhất định trên cơ sờ pháp luật quốc tế
và quốc gia.
Trước đây, khi luật quốc tế còn thừa nhận quyền chiến
tranh trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, bao gồm cả
tranh chấp về lãnh thổ, biên giói thì cơ sở của việc thay đổi lãnh
thổ quốc gia chủ yếu là các cuộc chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ.
Từ khi luật quốc tế hiện đại ra đời và ghi nhận nguyên tắc cấm
sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế là một
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì việc thay đổi lãnh thổ
quốc gia bằng chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ đã bị loại trừ.
Theo đó, bất kỳ quốc gia nào khi tiến hành bất cứ hình thức thay
đổi lãnh thổ quốc gia nào cũng phải dựa trên nguyên tắc quyền
dân tộc tự quyết. Thông qua hình thức trưng cầu dân ý, nhà nước
đại diện cho cộng đồng dân cư của mình sẽ ký kết các điều ước
quốc tế về lãnh thổ với các quốc gia khác nhằm mục đích thay
đơi lãnh thơ qc gia.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, lãnh thổ quốc gia có thể
được thay đổi bằng một trong các hình thức sau đây:
Thử nhất, thay đổi lãnh thổ quốc gia do phân chia một quốc
gia thành hai hay nhiều quốc gia mới như Tiệp Khắc đã phân chia
thành hai quốc gia độc lập là Cộng hòa Czech và Slovakia năm
1993; Liên bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết (Liên Xô) đã
phân chia thành 15 quốc gia độc lập vào năm 1991..
243
Thứ hai, thay đổi lãnh thổ quốc gia do hợp nhât hai hay
nhiều quốc gia thành một quốc gia mới. Ví dụ: tháng 8/1990, hai
nước Cộng hịa dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã hợp
nhất thành Cộng hòa Liên bang Đức.
Thứ ba, thay đổi lãnh thổ quốc gia do sáp nhập một bộ
phận lãnh thổ quốc gia này vào lãnh thổ của quốc gia khác. V í
dụ: ngày 18/8/1945, ba ngày sau khi Nhật Bản tuyên bố đâu
hàng, chấm dứt chiến tranh thế giới lần thứ hai, Liên bang Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết đã sáp nhập quần đảo Kuril thuộc
lãnh thổ của Nhật Bản vào lãnh thổ của mình.
Thử tư, thay đổi lãnh thổ quốc gia do trao đổi một bộ phận
lãnh thổ giữa hai quốc gia với nhau. Ví dụ: ngày 1/7/1997, Liên
hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland đã trao trả lại Hồng Kơng
cho Trung Quốc sau hơn 100 năm chiếm đóng; hoặc ngày
31/12/1999 Bồ Đào Nha trả lại Ma Cao cho Trung Quốc sau 442
năm chiếm đóng.
Thứ năm, thay đổi lãnh thổ quốc gia do chuyển nhượng
một bộ phận lãnh thổ của qc gia này cho một quốc gia khác.Ví
dụ: Sa Hoàng đã bán vùng lãnh thổ bang Alaska hiện nay cho
Hoa Kỳ vào ngày 9/4/1867 với giá 7.200.000USD.12
Thứ sáu, thay đổi lãnh thổ quốc gia bàng một điều ước quốc
tê đặc biệt. Ví dụ: việc thay đơi lãnh thổ Triều Tiên sau cuộc chiên
tranh liên Triều bắt đầu từ ngày 25/6/1950 và kết thúc ngày
27/7/1953 bàng hiệp định tạm đình chiến Bàn Môn Điếm13; hoặc
thay đổi lãnh thổ cùa nước ta sau Hiệp định Geneva năm 1954.
1.5.2. Xác lập chủ quyền quốc gia đổi với lãnh thổ
Vấn đề xác lập chủ quyền quốc gia đối với các vùng lãnh
thô mới được đặt ra trong thực tiễn pháp luật quốc tế từ rất sớm.
12 Xem thêm: />13 Xem thêm:
_tranh_Tri%El% BB%
244
Trong q trình phát triển của chế định này, có ba nguyên tắc
xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ phổ biến và chủ
yếu sau đây:
- Xác lập chủ quyền bàng chiếm hữu;
- Xác lập chủ quyền bằng chuyển nhuợng tự nguyện;
- Xác lập chủ quyền theo thời hiệu.
1.5.2.1. Nguyên tẳc xác lập chủ quyển bằng chiếm hữu
Xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ theo nguyên
tắc chiếm hữu có nghĩa là hành động của một quốc gia tuyên bố
xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ vô chủ, không
thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào vào thời điểm xác lập.
Cho đến nay, có thể khẳng định rằng, trên trái đất này khơng cịn
lãnh thổ vơ chủ nữa nhưng về phương diện pháp lý nguyên tăc
này là cơ sờ pháp lý được vận dụng đê giải quyết tranh châp vê
chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia.
Nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm hữu được chia
thành hai dạng là chiếm hữu tượng trưng và chiếm hữu thực sự.
- Nguyên tắc chiếm hữu tượng trưng
Từ đầu thế kỷ XII, cùng với sự phát triển của ngành hàng
hài thế giới, các cường quốc hàng hài châu Âu như Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Italia, Hà Lan, Vương quốc Anh, Pháp... đã liên tục
sai phái các thần dân của mình vượt các đại dương đi tìm vùng
đất mới để mở rộng lãnh thổ. Một trong những cuộc thám hiêm
vĩ đại của thế giới có thể kể đến là sự kiện các thủy thủ người
Tây Ban Nha tìm ra quần đảo Canary năm 1130. Đen năm 1480,
những thủy thủ Bồ Đào Nha đã đến mũi Nam Cực và châu Phi.
Năm 1492, Christophe Colombo lần đầu tiên đặt chân lên lục địa
M. Vũ Phi Hoàng: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bộ phận lãnh thô
Tiệt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, 1988.
245
châu Mỹ; năm 1495, Caboto tìm ra Bắc Mỹ; năm 1499, Cabran
và Vespucsi đến bờ biển Nam Mỹ và năm 1497, Vasco de Gama
đi vòng quanh châu Phi đến Án Độ bàng đường biển. Đến đầu
thế kỷ XV, Fernand de M agienlan đã trở thành người đầu tiên đi
vòng quanh thế giới bằng tàu biển. Từ những khám phá vĩ đại
đó, luật quốc tế thời kỳ bấy giờ đã hình thành học thuyết làm cơ
sở cho việc xác lập chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ vơ chủ
đó là học thuyết quyển khám phá trước tiên.
Theo học thuyết này, cơ sở để xác lập chủ quyền quốc gia
đối với vùng lãnh thổ mới được thực hiện thông qua sự cơng
nhận một số hành vi mang tính chất tượng trưng như hành vi của
viên thuyền trưởng hay nhà thám hiểm nào đó đã đặt chân lên
đảo hay bờ biển của vùng lãnh thổ vô chủ và để lại bằng chứng
như cây thập tự, cột gỗ, bia đá... hay bất kỳ dấu tích nào để
chứng minh sự có mặt của họ trên lãnh thổ đó. Tiếp đó, nhà nước
mà nhà thám hiểm là cơng dân phải đưa ra tun bố chính thức
về việc xác lập chủ quyền của quốc gia đối với vùng lãnh thổ
mới phát hiện.
Hai điều kiện trên là đủ để một một vùng đất vô chủ được
coi là thuộc chủ quyền của quốc gia phát hiện ra nó mà khơng
cần có sự hiện diện của chính quyền nhà nước thơng qua việc
kiểm sốt và thực hiện chủ quyền trên thực tế.
Nguyên tắc chiếm hữu tượng trưng đã bộc lộ những thiếu
sót và hạn chế. Một là, việc chiếm hữu theo cách này rất dễ dàng
đối với vùng đất, đảo nhỏ nhưng ngược lại, đối với những vùng
đất đai rộng lớn nếu chỉ lưu lại bàng chứng tại một điểm nào đó
nhưng thực chất nhà thám hiểm chưa khám phá hết vùng đất mới
mà quốc gia đã xác lập chủ quyền hoàn toàn đối với vùng đất
này là chưa hợp lý. Ví dụ: ngày 24/6/1497, John Cabot cùng thủy
thủ đoàn chỉ mới đặt chân lên bờ biển Bonavista, thuộc bang
N ew Foundland của Canada ngày nay và chỉ đi dọc từ vĩ tuyến
56 đến 38 Bắc mà nước Anh đã đòi xác lập chủ quyền đối với cả
246
vùng Bắc Mỹ rộng lớn.15 Hai là, do điều kiện thơng tin lúc đó
chưa phát triển nên đã dẫn tới tình trạng các quốc gia khơng
được thơng tin đầy đủ và kịp thời về một vùng lãnh thổ đã được
một quốc gia khác phát hiện. Do vậy, đã dẫn đến hệ quả là nhiều
quốc gia đều tuyên bố chủ quyền trên một vùng đất mới. Ba là,
những dấu tích, chứng cứ như cờ, cây thập tự, cột gỗ được lưu lại
trên các vùng lãnh thổ mới phát hiện không phải bao giờ cũng
nguyên vẹn qua thời gian. Điều này dẫn đến tình trạng tái phát
hiện, sáp nhập đi sáp nhập lại các vùng đất mới. Chính vì vậy,
dần dần ngun tắc chiếm hữu tượng trưng đã được thay thế
bàng nguyên tắc chiếm hữu thực sự.
- Nguyên tắc chiếm hữu thực sự
Nguyên tắc này được khởi xướng và hình thành từ năm
1884. Thời kỳ này, đê giải quyêt tranh châp vê những vùng đât
thuộc Congo (châu Phi), 13 quốc gia châu Âu và Hợp chủrig
quốc Hoa Kỳ đã tổ chức một Hội nghị tại Berlin và ký thỏa ước
Berlin năm 1885, trong đó có hai điều khoản quy định: việc quốc
gia nào chiếm hữu một vùng lãnh thổ mới ở châu Phi đều phải
thông báo cho các nước tham gia hội nghị biết (Điều 34); và các
nước chiếm hữu phải bảo đảm sự tồn tại cùa một tổ chức chính
quyền tại vùng lãnh thổ họ chiếm hữu để thi hành luật pháp, và
khi cần thiết để bảo vệ tự do buôn bán và quá cảnh trong các
điều kiện đã được quy định (Điều 35).
Mặc dù Hiệp ước Berlin năm 1885 chỉ giải quyết vấn đề
tranh châp vê lãnh thô ở châu Phi và chỉ ràng buộc 14 quôc gia
15 John Cabot là một người Ý, sinh tại Genoa, tên trên giấy khai sinh là
Giovanni Caboto, vì bất mãn với chính quyền Ý, ông di cư sang sống tại Anh
Quốc. Là một nhà thám hiểm, ơng thỉnh cầu Hồng đẽ Anh Henri VII tài trợ
cho cuộc hành trình đi tìm Tân Thế giới. Được nhà vua châp thuận, ông cải
tên là John Cabot. Cuộc hành trình đầy mạo liiêm phiêu lưu khởi hành vào
tháng 6-1497, từ cảng Bristol, trên con thuyền buồm mang tên The Matthew.
Sau 52 ngày lênh đênh trên Đại Tây Dương, ơns và đồn tly thù đã tới bờ
biển Bonavista, nay thuộc bang New Foundland cùa Canada.
247
ký kết nhung hai điều khoản quan trọng nói trên đã được Viện
luật Lausanne - Thụy Sĩ đưa vào vào Dự thảo Tuyên bố ngày
7/9/1888 về chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ. Từ khi Tịa án
Cơng lý thường trực quốc tế và sau này là Tịa án Cơng lý quốc
tê thông qua các phán quyêt vê giải quyết các tranh châp đôi với
đảo Grenland giữa Đan Mạch và Na Uy, đảo Clipperton giữa
Pháp và Mexico... nguyên tắc chiếm hữu thực sự đã trở thành
nguyên tắc đặc biệt quan trọng để giải quyết các tranh chấp về
lãnh thô biên giới giữa các quôc gia. Theo nguyên tăc này, luật
quốc tế hiện đại thừa nhận việc thiết lập và khẳng định chủ
quyền quốc gia đối với vung lãnh thổ mới phải xuất phát sự
chiếm hữu thực sự, đồng thời quốc gia phải quản trị và duy trì
liên tục, hịa bình quyền lực của nhà nước trên vùng lãnh thổ đỏ.
Nguyên tắc này là cơ sở lý luận để quốc gia chứng minh một
vùng lãnh thô tranh châp thuộc chủ quyền của mình nêu đáp ứng
được các điều kiện sau:
+ Những vùng đất, đảo được quốc gia chiếm hữu phải là
lcmh thơ vơ chủ, khơng năm hoặc khơng cịn năm trong hệ thơng
địa lý hành chính của một qc gia nào.
Vùng đất, đảo có thể có hoặc khơng có người ờ nhưng khái
niệm vơ chù (terra nullius) có nghĩa là vùng đất, đảo đó khơng
năm trong hệ thống hành chính của bất kỳ nước nào, hoặc tuy đã
từng thuộc về một quốc gia nhưng quốc gia này đã từ bỏ và
không có ý định tiếp tục thực hiện chủ quyền của mình ở đó.
Những vùng đất, đảo vơ chủ đó có thể trở thành đối tượng chiếm
hữu của bất kỳ quốc gia nào. Ví dụ, năm 1606, Tây Ban Nha đã
chiếm hữu đảo Palmas và các đảo khác trong quần đảo
Philippines nhưng việc chiếm hữu này chi mang tính chất tượng
trưng, chưa có tổ chức hành chính và biện pháp cai trị nào và
cũng chưa có bất kỳ một văn bản nào của nhà nước chính thức
xác lập chủ quyền đối với hòn đảo này. Đến cuối thế kỷ XVIL
Tây Ban Nha đã rút khỏi Palmas và sau đó từ bỏ chủ quyền của
mình trên hịn đảo này. Hịn đảo này sau đó đã được Hà Lan
248
chiếm hữu vào các năm 1667, 1697, 1785, 1885, 1889. Sau khi
cuộc chiên tranh Mỹ - Tây Ban Nha kết thúc, theo Hòa ước Paris
ngày 10/12/1898, Tây Ban Nha nhượng cho Mỹ quần đảo
Philippines* trong đó bao gồm cả đảo Palmas. Đầu năm 1906, khi
Mỹ tiếp quản đảo Palmas thì Hà Lan đang quản lý đảo này. Vụ
việc này được chuyển đến Tòa Pháp viện thường trực quốc tế La
Haye, Tịa án đã xử Hà Lan thăng kiện vì sau khi Tây Ban Nha
từ bỏ chủ quyên thì đảo Palmas đã trở thành lãnh thổ vô chủ,
lãnh thổ bị bỏ roi (res derelicta).
+ Việc chiếm hữu đó phải là hành động của nhà nước
Việc chiếm hữu một vùng lãnh thổ phải là một hành động
có tính chât nhà nước, nghĩa là được thực hiện bởi những viên
chức đại diện cho nhà nước hoặc những ngi được nhà nước ủy
quyền thì mới có giá trị pháp lý. Hành động của cá nhân, tổ chức
tư nhân đêu khơng có giá trị pháp lý để xác định chủ quyền lãnh
thổ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các hành động của tư
nhân với danh nghĩa công dân cùa một quốc gia, dù chưa được
nhà nước đó chứng nhận, cũng có thể có một ý nghĩa nhất định.
Khi giải quyêt tranh chấp lãnh thô, những hành động này sẽ là
chứng cứ có lợi cho một quốc gia nếu phía bên kia khơng có
hành động có ý nghĩa pháp lý nào được thực hiện.
+ Việc chiếm hữu phải thực sự
Việc chiếm hữu mang tính thực sự khi có sự hiện diện của
chính qun nhà nước trong việc thiết lập, kiểm soát, quản lý,
bảo vệ và thực hiện chủ quyền quốc gia trên vùng lãnh thổ mà
quốc gia dã chiếm hữu và xác lập chù quyền.
+ Việc chiếm hữu phải hịa bình được dư luận đương thời
chấp nhận
u cầu về tính hịa bình của sự chiếm hüll có nghĩa là
việc chiêm hữu và xác lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh
thổ không phải là kết quả của hành vi tước đoạt chủ quyền của
một quốc gia khác bằng hành vi sứ dụng hoặc đe dọa sư dụng vũ
249