CHƯƠNG 6
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TÊ
1. QUYỀN TÁC GIẢ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm
Quyền tác giả là một nhóm của quyền SHTT, bao gồm những quyền nhân thân và
quyền tài sản của tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật và các
quyền đó được nhà nước bảo hộ cho một thời hạn nhất định. Quyền tác giả trong TPQT là
quyền xuất hiện từ các quan hệ trong lĩnh vực quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài trong quan hệ về quyền tác giả đc t.hiện trên 3 trường hợp sau:
- Chủ thể: có ít nhất 1 bên là người nc ngoài, pháp nhân nước ngoài.
- Khách thể tồn tại ở nước ngoài.
- Sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài- công bố, phổ biến, đăng ký, cấp văn bằng
bảo hộ... ( Tác giả là CD VN đang cư trú ở nước ngoài cho công bố tác phẩm đầu tiên do
mình sáng tác).
Đặc điểm:
- Mang tính chất lãnh thổ triệt để để - Quyền tác giả xuất hiện trên lãnh thổ nước
nào chỉ được bảo hộ ở nước đó mà thôi, không được bảo hộ ở nước ngoài. Nếu các nước
không có ĐƯQT hoặc không chấp nhận nguyên tắc có đi có lại trong bảo hộ quyền tác
giả.
- Quyền tác giả dễ bị xâm phạm vì đối tượng của quyền tác giả mang tính phi vật
thể, do vậy tạo khả năng để khai thác, phổ biến rộng rãi khi được bộc lộ ra dưới một hình
thức nhất định trong phạm vi nhiều nước khác nhau.
- Quyền tác giả mang tính thời hạn.
1.2 Các hình thức bảo hộ quốc tế quyền tác giả
1.2.1 Các điều ước quốc tế đa phương quan trọng về bảo hộ quyền tác giả
Công ước Berner 1886
Là công ước quốc tế đầu tiên về bảo vệ quyền tác giả, được ký tại Berne (Thụy Sĩ)
năm 1886. Công ước đã được sửa đổi nhiều lần, lần gần đây nhất là 24/7/1971 và
28/9/1979.VN chính thức gia nhập ngày 26/10/2004, và trở thành thành viên thứ 156. Đến
nay công ước có 160 thành viên.
Mục đích:
- Là công ước đa phương đầu tiên được kí kết giữa các quốc gia nhằm thiết lập một
khung pháp lý thống nhất trong việc bảo hộ quốc tế quyền tác giả về các tác phẩm văn
học, khoa học, nghệ thuật.
51
- Tiền đề cơ bản của việc bảo hộ tác phẩm là nước xuất xứ tác phẩm phải là một
trong những nước tham gia công ước. Xác định nước xuất xứ:
+ Tác phẩm chưa công bố thì nước xuất xứ tác phẩm là nước mà tác giả là công
dân (quốc tịch).
+ Tác phẩm đã công bố thì nước xuất xứ chính là nước mà tại đó tác phẩm được
công bố lần đầu tiên (lãnh thổ).
+ Tác phẩm được công bố cùng một lúc tại nhiều quốc gia thành viên thì nước xuất
xứ chính là nước có thời hạn bảo hộ ngắn nhất. Nếu TP đc công bố tại một nước thành
viên và tại một nước khác không phải là thành viên thì nước xuất xứ tác phẩm chính là
quốc gia thành viên.
Nguyên tắc bảo hộ:
- Đối xử quốc gia: các tác phẩm xuất phát từ mọi nước thành viên đều được bảo vệ
ngang nhau trong tất cả các nước thành viên. Chính quyền có bổn phận đảm bảo mức bảo
hộ tối thiểu theo các qui định của Công ước. (Điều 3.2)
- Bảo hộ tự động: sự thụ hưởng và thực hiện các quyền được bảo vệ, vô điều kiện và
không cần phải thông qua thủ tục đăng ký hay thủ tục hành chính khác. (Đ 5.2)
- Bảo hộ tối thiểu: các quyền qui định theo Công ước đuợc thực thi và hưởng độc
lập với mọi quyền khác đang được hưởng tại nước xuất xứ tác phẩm. (VD: CDVN sống ở
Mĩ hưởng các quyền theo PL Mĩ, công ước Berne độc lập với quyền CDVN được hưởng
tại Mĩ). (Đ 5.3)
Đối tượng bảo hộ của Công ước
- Tất cả các sản phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật, được biểu hiện dưới bất kỳ
hình thức nào và theo phương thức nào. Tức là :
+ Tác phẩm viết
+ Các bài giảng, bài phát biểu;
+ Tác phẩn, kịch, nhạc kịch, biên đạo múa, tiểu phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng,
tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nhiếp ảnh.
+ Các bức họa đồ, bản vẽ, sơ đồ có liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình
khoa học;
Nói tóm lại, mọi sản phẩm của trí tuệ dưới mọi hình thức.
- Các tác phẩm dịch, mô phỏng, chuyển thể từ một tác phẩm gốc đều được bảo vệ
như tác phẩm gốc, miễn là không phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. ( VD:
tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chủ giải, tuyển tập, hợp tuyển).
- Công ước không bảo hộ các tin tức thời sự hay sự việc vụn vặt chỉ mang tính chất
thông tin báo chí. Ngoài ra các quốc gia có thể lập qui định riêng hay giới hạn chế độ bảo
hộ đối với các văn kiện hành chính luật pháp, các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng hay các
mô hình thiết kế công nghiệp.
52
Tác giả được bảo hộ:
- Các tác giả là công dân của những nước hoặc cư trú tại những nước có tác phẩm
công bố hoặc chưa công bố.
- Tác giả là công dân của những nước hoặc cư trú tại những nước không phải là
thành viên của công ước nhưng có tác phẩm lần đầu tiên công bố tại một nước là thành
viên của Công ước.
Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả được áp dụng để bảo hộ quyền tác
giả cho cả công dân và pháp nhân các nước không phải là thành viên của công ước. Vì:
Theo khoản 2 và 3 điều 3 Công ước Berne thì: tác giả không là thành viên của công ước
vẫn có thể đc bảo hộ quyền tác giả trong 2 trường hợp:
+ Tác phẩm của họ công bố lân đầu tiên ở một trg những nước là thành viên của
công ước. Hay đồng thời công bố ở một nước là thành viên và một nước ko là thành viên
của công ước.
+ Tác giả có nơi cư trú thường xuyên ở một trg những nước là thành viên của công
ước.
Thời hạn bảo hộ:
- Những tác phẩm đích danh được bảo hộ trong suốt cuộc đời của tác giả cộng
thêm 50 năm sau khi tác giả qua đời.
- Trong trường hợp đồng tác giả, thời gian bảo hộ là 50 năm sau cái chết của tác
giả cuối cùng.
- Các tác phẩm khuyết danh hay bút danh (anonymous or pseudonymous) được
bảo hộ 50 năm kể từ ngày phổ biến hợp pháp ra công chúng. Nếu tên thật của tác giả được
biết chính xác bên cạnh bút danh hoặc nếu tác giả của tác phẩm khuyết danh lộ diện trong
thời gian 50 năm nói trên thì tác phẩm được bảo hộ như đích danh.
- Đối với các tác phẩm nhiếp ảnh và mỹ thuật ứng dụng, thời gian bảo hộ có thể
ngắn hơn nhưng ít nhất phải là 25 năm.
- Đó là qui định tối thiểu theo Công ước. Các nước thành viên có thể ấn định thời
gian dài hơn, như khuynh hướng hiện nay. Liên Hiệp Châu Âu, chẳng hạn, qui định là kể
từ 1.7.1995, thời gian bảo vệ bản quyền là 70 năm sau khi tác giả qua đời.
Tính chất: Công ước bao gồm các quy phạm thực chất thống nhất, quy định quyền
và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả.
Những điều lệ giới hạn sự bảo hộ:
Sự bảo hộ tuy nhiên không tuyệt đối. Để dung hoà quyền lợi của tác giả và nhu cầu
chính đáng của người dùng, Công ước dự trù hai biệt lệ chính giới hạn sự bảo hộ :
- Một tác phẩm có thể được khai thác tự do (free use), không cần xin phép người
giữ bản quyền và không phải phí tác quyền, để trích dẫn hay minh hoạ (nhưng phải ghi rõ
tên tác giả, xuất xứ), sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy hoặc thông tin công chúng,
miễn là một cách công minh chính trực (fair use) và theo một số điều kiện nhất định.
- Để tránh việc không cho phép sử dụng có thể cản trở sự phát triển của một công
53
nghệ mới, cơ quan hữu trách có thể áp dụng biện pháp giấy phép phi tự nguyện (nonvoluntary licence), qua đó một tác phẩm có thể được khai thác mà không cần đến sự ưng
thuận của người giữ bản quyền, nhưng phải trả phí tác quyền. Điều lệ này nhằm bảo vệ sự
phát triển lúc đó của các kỹ thuật ghi âm, phát thanh và truyền sóng, nhưng hiện nay được
bàn cãi lại vì đã có những phương tiện hiện đại kết hợp việc bảo vệ tác quyền và nhu cầu
phổ biến rộng rãi các tácphẩm.
theo Điều II và III của Phụ lục của Công ước, công dân các nước đang phát triển có thể
được đương nhiên cấp giấy phép để dịch hoặc sao chép các tác phẩm được bảo hộ trong
mục đích nghiên cứu, giáo dục. Theo thủ tục qui định, văn kiện ký Công ước của VN có
kèm theo bản tuyên bố yêu cầu được áp dụng hai điều lệ này.
Các quy định của Công ước Berne với các nước đang phát triển:
- Theo Điều II và III của Phụ lục của Công ước, công dân các nước đang phát triển
có thể được đương nhiên cấp giấy phép để dịch hoặc sao chép các tác phẩm được bảo hộ
trong mục đích nghiên cứu, giáo dục. Theo thủ tục qui định, văn kiện ký Công ước của
VN có kèm theo bản tuyên bố yêu cầu được áp dụng hai điều lệ này.
Nội dung:
Công ước qui định hai loại quyền, quyền kinh tế và quyền tinh thần.
- Quyền kinh tế (quyền tài sản). Tác giả có toàn quyền cho phép hay ngăn cấm
người khác sử dụng hay phổ biến tác phẩm của mình và giữ độc quyền cho mọi hình thức
khai thác: dịch thuật, sao chép, trình diễn và truyền thông công cộng, phát sóng, cải biên,
chuyển thể, phân phối, thuê mướn, và xuất khẩu sang nước khác. Tất cả những hoạt động
ấy, nếu không được tác giả cho phép bằng văn kiện, đều vi phạm bản quyền. Ngoài ra tác
giả cũng hưởng quyền lợi ích khi bán lại tác phẩm gốc đã chuyển nhượng.
- Quyền tinh thần (quyền nhân thân). Tác giả có quyền đứng tên tác phẩm của
mình kể cả khi đã chuyển nhượng, và phản đối mọi sự xuyên tạc, cắt xén, sửa đổi hay bất
cứ hành vi nào có thể tổn hại đến danh dự hoặc uy tín của mình. Các quyền tinh thần vĩnh
viễn thuộc về tác giả, dẫu là các quyền kinh tế đã được chuyển nhượng hay không.
1.2.2 Điều ước quốc tế song phương về bảo hộ quyền tác giả
Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Được bộ trưởng Bộ ngoại giao hai nước ký kết ngày 27/6/1997 và bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 23/12/1998. Hiệp định gồm 11 điều, quy định các vđề cơ bản: tác phẩm đc
bảo hộ, phạm vi các quyền đc bảo hộ, đký TP, ngăn ngừa và xử lyys vi phạm quyền tác
giả, sử dụng tác phẩm sau khi có hiệu lực…
Mục đích:
- Thúc đẩy quá trình bính thường hóa quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ.
- Tăng cường mqh giao lưu và phát triển hợp tác văn hóa giữa các nước,
- Góp phần tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nước ngoài và chuyển giao công
nghệ
54
- Đáp ứng những yêu cầu cần thiết trong việc bảo hộ quyền tác giả trong nước và
nước ngoài.
Tác phẩm được bảo hộ:
- Tại Hoa Kỳ các tác phẩm sau được bảo hộ về quyền tác giả:
+ Tác phẩm là công dân Việt Nam hoặc người thường trú tại Việt Nam
+ Tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam của người không phải là công
dân Việt Nam, hoặc người không thường trú tại Việt Nam.
+ Tác phẩm mà một công dân Việt Nam hoặc người thường trú tại Việt Nam được
hưởng những quyền kinh tế theo luật quyền tác giả tại Hoa Kỳ
+ Tác phẩm mà những quyền kinh tế thuộc về một pháp nhân do một công dân
Việt Nam hoặc người thường trú tại Việt Nam kiểm soát trực tiếp, gián tiếp hoặc có
quyền sở hữu đối với phần lớn cổ phần hoặc tài sản của pháp nhân đó. Với điều kiện
quyền kinh tế nói trên phát sinh trong vóng một năm kể từ ngày công bố làn đầu tác phẩm
đó tại một nước thành viên của một điều ước đa phương về quyền tác giả và tại thời điểm
hiệp định có hiệu lực, Việt Nam là thành viên của điều ước quốc tế nói trên.
+ Tác phẩm của tác giả là công dân Việt Nam hoặc người thường trú tại Việt Nam
và các tác phẩm công bố lần đầu ở Việt Nam trước khi hiệp định này có hiệu lực nhưng
chưa thuộc về công cộng tại VN sau khi hưởng toàn bộ thời hạn bảo hộ.
- Tác phẩm sau được bảo hộ tại Việt Nam quyền tác giả:
+ Tác phẩm là công dân Hoa Kỳ hoặc người thường trú tại Hoa Kỳ
+ Tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Hoa Kỳ của người không phải là công
dân của Hoa Kỳ, hoặc người ko thường trú tại Hoa Kỳ.
+ Tác phẩm mà một công dân Hoa Kỳ hoặc người thường trú tại Hoa Kỳ được
hưởng những quyền kinh tế theo luật quyền tác giả tại Việt Nam.
+ Hoặc Tác phẩm mà những quyền kinh tế thuộc về một pháp nhân do một công
dân Hoa Kỳ hoặc người thường trú tại Hoa Kỳ kiểm soát trực tiếp, gián tiếp hoặc có
quyền sở hữu đối với phần lớn cổ phần hoặc tài sản của pháp nhân đó, với điều kiện
quyền kinh tế nói trên phát sinh trong vóng một năm kể từ ngày công bố làn đầu tác phẩm
đó tại một nước thành viên của một điều ước đa phương về quyền tác giả tại thời điểm
hiệp định có hiệu lực, Hoa Kỳ là thành viên của điều ước quốc tế nói trên.
+ Tác phẩm của tác giả là công dân Hoa Kỳ hoặc người thường trú tại Hoa Kỳ và
các tác phẩm công bố lần đầu ở Hoa Kỳ trước khi hiệp định này có hiệu lực nhưng chưa
thuộc về công cộng tại Hoa Kỳ sau khi hưởng toàn bộ thời hạn bảo hộ.
+ Trường hợp thời hạn bảo hộ với các tác phẩm trên đây theo pháp luật Việt Nam
ngắn hơn thời hạn bảo hộ theo pháp luật Hoa Kỳ, tác phẩm không được bảo hộ tại Việt
Nam nếu thời điểm hiệp định có hiệu lực, thời hạn theo pháp luật Việt Nam đã kết thúc.
Phạm vi các quyền được bảo hộ theo hiệp định:
55
+ Mỗi bên ký kết, phù hợp với luật và các thủ tục của mình, sẽ dành cho các tác
phẩm của những tác giả, nhà sáng tạo và nghệ sĩ là công dân hoặc người thường trú của
Bên ký kết kia và cho các tác phẩm công bố lần đầu tại lãnh thổ của Bên ký kết kia sự bảo
hộ quyền tác giả không kém thuận lợi hơn sự bảo hộ mà Bên đó dành cho công dân nước
mình. (nguyên tắc đãi ngộ như công dân).
+ Quyền tối thiểu: Các bên ký kết phải đảm bảo rằng người được hưởng quyền tác
giả đối với một tác phẩm sẽ có độc quyền cho phép hoặc cấm; Việc sao chép một tác
phẩm, sáng tạo tác phẩm khác dựa trên tác phẩm đó và phân phối bản sao của các tác
phẩm đó; Việc trình diễn, trình bày các tác phẩm trước công chúng.
+ Các bên ký kết sẽ giới hạn những hạn chế và ngoại lệ đối với các quyền quy định
tại khoản 1 Điều này (quyền tối thiểu) trong phạm vi một số trường hợp đặc biệt mà
những trường hợp đó không cản trở sự khai thác bình thường của tác phẩm và không ảnh
hưởng bất hợp lý đến lợi ích chính đáng của người được hưởng quyền tác giả.
+ Tất cả các sản phẩm phải đăng.ký tại cqnn có thẩm quyền của Hoa Kỳ và cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của pháp luật hai nước.
+ Mọi cá nhân, pháp nhân có quyền hoặc lợi ích với các tác phẩm được bảo hộ
theo hiệp định tại Việt Nam có quyền thực hiện các biện pháp được pháp luật Việt Nam
quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của mình bị vi phạm tại Việt Nam.
+ Mọi tổ chức, cá nhân có các quyền, lợi ích với các tác phẩm được bảo hộ theo
hiệp định tại Hoa Kỳ có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của hiệp định, các
quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam, pháp luật Hoa Kỳ và có quyền thực hiện
các biện pháp được pháp luật Hoa Kỳ quy định để bảo vệ, quyền và lợi ích của mình.
+ Việc giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm tại Hoa
Kỳ được thực hiện theo hiệp định và pháp luật Hoa Kỳ; nếu ở Việt Nam thì là theo hiệp
định và pháp luật Việt Nam.
1.2.3 Bảo hộ quyền tác giả theo nguyên tắc có đi có lại:
VD: Pháp quy định, Pháp sẽ ko bảo hộ các tác phẩm đã được xuất bản ở một nước, mà
nước đó ko dành sự bảo hộ tương ứng đối với các tác phẩm của công dân Pháp.
- Việc bảo hộ quyền tác giả theo nguyên tắc có đi có lại được phân biệt thành:
+ Có đi có lại hình thức: các bên trao cho nhau sự bảo hộ với tác phẩm của công
dân mỗi bên, nhưng thực tế các quyền lợi cụ thể, khối lượng bảo hộ quyền tác giả không
trùng nhau.
+ Có đi có lại thực chất: các tác giả là công dân của các bên hữu quan phải được
đối xử thực sự bình đẳng trong các quyền lợi cụ thể.
- Thực tế hiện nay thường áp dụng nguyên tắc có đi, có lại hình thức.
1.2.4 Bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài theo quy định của luật Sở hữu trí
tuệ Việt Nam 2005.
Nguyên tắc bảo hộ:
Theo quy định tại điều 774 Bộ Luật dân sự 2005 chia làm 2 trường hợp:
56
- Trường hợp 1: trường hợp có Điều ước quốc tế điều chỉnh (Công ước Berne,
Hiệp định Trips, Hiệp định Việt Nam – Hòa Kỳ; Hiệp định giữa Việt Nam – Thụy Sĩ;
Hiệp định khung Việt Nam – ASEAN thì chế độ bảo hộ được xác định theo điều ước
quốc tế và pháp luật Việt Nam..
- Trường hợp 2: Không có điều ước quốc tế thì quyền tác giả của người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài sẽ được bảo hộ tại Việt Nam nếu họ có tác phẩm lần đầu
tiên công bố tại Việt Nam và lần đầu tiên sáng tạo ở Việt Nam.
Các quy định cụ thể:
- Theo pháp luật Việt Nam, tác giả là công dân Việt Nam có tác phẩm, công trình
chưa công bố ở trong nước mà đc sử dụng lần đầu tiên dưới bất kỳ hình thức nào ở nước
ngoài cũng sẽ được hưởng quyền tác giả ở nước sử dụng tác phẩm đó.
- Việt công bố tác phẩm của công dân Việt Nam ở nước ngoài phải được cơ quan
quản lý nhà nước về xuất bản có thẩm quyền cho phép và phải tuân theo các quy định của
pháp luật Việt Nam.
- Đối với tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài có tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam hoặc được sáng
tạo và thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam đều được Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền tác giả ( trừ trường hợp nhà nước bảo hộ).
- Tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả
theo quy định của pháp luật Việt Nam có các quyền tác giả được quy định tại Luật sở hữu
trí tuệ.
- Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản:
+ Quyền nhân thân bao gồm các quyền:
* Đặt tên cho tác phẩm.
* Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; đc nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm đc công bố, sử dụng.
* Công bố tác phẩm hoặc cho người khác công bố tác phẩm.
* Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, ko cho phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín
của tác giả.
+ Quyền tài sản:
* Làm tác phẩm phái sinh.
* Biểu diễn tác phẩm dưới công chúng.
* Sao chép tác phẩm.
* Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
* Tuyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyền, mạng thông tin
điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
57
* Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
- Như vậy, tác giả nước ngoài sẽ được hưởng những quyền tài sản và quyền nhân thân
trg lĩnh vực quyền tác giả như tác giả là công dân VN.
2. QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
2.1 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của các điều ước quốc tế
a. Công ước Pari 1883
Là một trong những công ước quốc tế đa phương quan trọng về sở hữu công
nghiệp. Công ước được ký kết ngày 20/3/1983 với sự tham gia của 11 nước, đến ngày
19/5/2005 số lượng thành viên là 169, Việt Nam tham gia năm 1981.
Mục đích:
Xây dựng các đkiện có lợi cho việc cấp văn bằn bảo hộ cho chủ sở hữu công
nghiệp là công dân, pháp nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên công ước trên
cơ sở tôn trọng luật sở hữu công nghiệp của nước thành viên.
Ý nghĩa:
Công ước mang tính nền tảng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế điều chỉnh
việc bảo hộ từng đối tượng riêng biệt (như thoả ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá, Công ước Lahay về đăng ký kiểu dáng công nghiệp, Hiệp ước hợp tác trong lĩnh vực
cung cấp văn bằng bảo hộ sáng chế… đều được ký kết trong khuôn khổ của công ước
Paris).
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp:
Các đối tượng sở hữu công nghiệp được công ước bảo hộ theo công ước Pari đc
hiểu theo 2 nghĩa:
- Nghĩa rộng: Quyền sở hữu công nghiệp ko chỉ áp dụng cho công nghiệp và
thương mại mà còn áp dụng cho cả ngành san xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và
tất cả các sản phẩm chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, thuốc lá, hoa
quả, gia súc, khoáng sản, nước khoảng.
- Nghĩa hẹp: Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn
gốc hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền chống cạnh tranh lành mạnh.
Nguyên tắc bảo hộ:
- Nguyên tắc “đãi ngộ như công dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản mà
Công ước áp dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp. Theo đó, khi tham gia Công ước công dân của bất kỳ các thành viên nào của công
ước cũng đều được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giống như công dân của
nước sở tại. Ngay cả những công dân của các quốc gia không phải là thành viên của công
ước Paris hay là những doanh nghiệp thực sự quan trọng ở đó, thì cũng nhận được sự bảo
hộ của công ước theo nguyên tắc này.
- Nguyên tắc “quyền ưu tiên“: Một người nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp nộp đơn đầu tiên của mình ở một nước thành viên của công ước thì trong
58
thời hạn nhất định sau ngày nộp đơn đầu tiên (12 tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu
ích, 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá), người đó có thể nộp
đơn yêu cầu bảo hộ ở bất kỳ nước thành viên nào và những đơn nộp sau sẽ được tính cùng
ngày nộp đơn của đơn đầu tiên. Tuy nhiên, để dược hưởng quyền ưu tiên, người nộp đơn
phải ghi rõ ngày nộp đơn, nước nhận đơn thứ nhất, các nước thành viên có thể yêu cầu
người nộp đơn phải nộp các bản sao mô tả bản vẽ của đơn thứ nhất để làm bằng chứng
cho việc hưởng quyền ưu tiên của mình.
- Bên cạnh đó, Công ước PARIS còn quy định cả quyền ưu tiên về triển lãm: Các
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá có khả năng được
bảo hộ tạm thời tại các cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc các cuộc triển lãm được
công nhận là chính thức tổ chức tại một trong số các nước thành viên. Điều đó cho phép
một đối tượng sở hữu công nghiệp tham gia triển lãm tại hội chợ th́ ì được lấy ngày bắt
đầu trưng bày hàng hóa tại triểm lãm làm ngày được hưởng quyền ưu tiên với thời hạn
không quá 6 tháng.
Quy định tiêu chuẩn bảo hộ, điều kiện đăng ký và chuyển giao quyền sử dụng đối
với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp:
Để nâng cao hiệu quả bảo hộ, Công ước Paris đã có những quyết định điều chỉnh
việc bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp một cách cơ bản nhất.
- Đối với patent quy định về vấn đề nhập khẩu đối tượng, quyền đưa ra các biện
pháp pháp lý quy định việc cấp Licence không tự nguyện nhằm ngăn chặn việc lạm dụng
việc độc quyền của các nước thành viên.
- Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tại tất cả các nước thành viên của Liên hiệp
và sẽ không thể bị đình chỉ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho dù có vì lý do không sử dụng
hoặc vì lý do nhập khẩu các đối tượng tương tự với các đối tượng đang được bảo hộ.
- Các quy định trong việc đăng ký, chuyển giao, bảo hộ ở các nước thành viên, về
những công cụ bảo vệ và quyền yêu cầu toà án xét xử đối với các loại nhãn hiệu (nhãn
hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể,…) cùng với các loại đối tượng khác.
Quy định về vấn đề hiệu lực:
Ngoài việc quy định một số điều khoản bắt buộc mà các nước thành viên đểu phải
tuân thủ, với nguyên tắc tôn trọng sự độc lập của pháp luật các quốc gia thành viên về lĩnh
vực bảo hộ sở hữu công nghiệp, công ước Paris cho phép các nước thành viên được quyền
xây dựng và áp dụng pháp luật sở hữu công nghiệp của mình, cũng như ký kết những
Hiệp ước với nhau về sở hữu công nghiệp nhưng không được trái với các điều khoản
trong công ước Paris.
Quyền ưu tiên theo Công ước Pari
Quyền ưu tiên là quyền của nqười nộp đơn trên cơ sở một đơn hợp lệ lần đầu tiên
đã được nộp tại một quốc gia khác là thành viên điều ước quốc tế có quy định về quyền
ưu tiên (sau đây gọi là quốc gia thành viên), trong một thời hạn nhất định người nộp đơn
có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ đối tượng sở hữu trí tuệ đó tại một quốc gia thành viên
khác và đơn nộp sau đó được coi như nộp cùng ngày với đơn nộp đầu tiên. Nói cách khác,
59
những đơn nộp sau sẽ có quyền ưu tiên đối với các đơn có thể đã được người khác nộp
trong khoảng thời gian ưu tiên nói trên chi chính đối tượng sở hữu trí tuệ đó.
Quyền ưu tiên là một nội dung quan trọng của Công ước Pari và có nghĩa là trên
cơ sở đơn yêu cầu thông thường đầu tiên được gởi đến quốc gia thành viên Công ước,
người yêu cầu có thể yêu cầu bảo vệ tại bất cứ quốc gia thành viên Công ước nào (12
tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu ích; 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và
nhãn hiệu); những đơn yêu cầu muộn hơn sẽ được xem như được gởi cùng ngày với đơn
yêu cầu đầu tiên. Tức là những đơn yêu cầu muộn hơn này sẽ được ưu tiên (như vậy gọi
là -quyền ưu tiên") so với các đơn yêu cầu khác về cùng một sáng chế, giải pháp hữu ích,
nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công nghiệp do những người khác gởi đến trong thời hạn nói
trên. Như vậy, một người không cần phải gởi đơn yêu cầu cùng một lúc đến nhiều nước
mà có 6 tháng hoặc 12 tháng tùy thuộc vào ý muốn của mình để quyết định những nước
mà người đó muốn có sự bảo vệ và chuẩn bị cẩn thận những bước cần thiết phải tiến hành
để đảm bảo cho yêu cầu bảo vệ.
Ví dụ: Ngày 02/02/2004 một công dân Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ một
KDCN là X' tại Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam. Ngày 02/05/2004 một công dân Pháp cũng
nộp đơn đăng ký chính đối tượng X' đó tại cơ quan sở hữu trí tuệ của Pháp. Ngày
05/05/2004 công dân Việt Nam đó mới nộp đơn đăng ký bảo hộ đối tượng này tại Pháp.
Theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên thì đơn của công dân Pháp nộp ở Pháp sẽ hợp lệ (vì
đơn nộp sớm hơn tại Pháp). Tuy nhiên trong trường hợp này công dân Việt Nam có thể
xin hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đơn đã nộp sớm hơn tại Việt Nam (nộp ngày
02/02/2004). Do đó đơn của công dân Việt Nam nộp ở Pháp sẽ được tính là ngày
02/02/2004.
Ý nghĩa của quyền ưu tiên:
+ Việc quy định quyền ưu tiên mang lại lợi ích thiết thực cho người nộp đơn khi
đơn này muốn đạt được sự bảo hộ của nhiều quốc gia khác nhau, họ không phải nộp đồng
thời tất cả các đơn tại nước xuất xứ và các nước khác nhau mà có thời hạn nhất định để
xem xét lựa chọn việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào thiết thực nhất vì các đơn
nộp sau này sẽ có ngày ưu tiên là ngày nộp đơn đầu tiên.
+ Nó ngăn chặn hữu hiệu người khác lợi dụng đăng ký đối tượng đó tại các quốc
gia khác khi người nộp đơn chưa kịp làm việc này.
+ Tránh được tình trạng người nộp đơn phải nộp nhiều đơn khác nhau tại một thời
điểm.
Nội dung của quyền ưu tiên:
- Các đối tượng sở hữu trí tuệ được hưởng quyền ưu tiên. Theo quy định của công
ước Paris bao gồm: Sáng chế, Mẫu hữu ích (còn gọi là Giải pháp hữu ích), kiểu dáng công
nghiệp, Nhãn hiệu
- Quyền ưu tiên có này không được giành cho các đối tượng của quyền tác giả và
quyền liên quan vì: Theo quy định chung của hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới,
các đối tượng bảo hộ của quyền tác giả (gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học) và
quyền liên quan (cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa) được bảo hộ từ thời điểm chúng được định hình
60
dưới một hình thức vật chất nhất định mà không cần đăng ký bảo hộ, không phụ thuộc
vào việc có đăng ký đối tượng đó hay không nên việc quy định quyền yêu tiên trong việc
đăng ký là không cần thiết.
- Cần xác định quyền ưu tiên trong sở hữu công nghiệp vì: quyền Sở hữu đối với
một số đối tượng sở hữu trí tuệ khác như Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, Nhãn hiệu,
Giống cây trồng mới chỉ phát sinh trên cơ sở việc đăng ký đối tượng này tại cơ quan Sở
hữu trí tuệ. Hơn nữa, do tính chất giới hạn của việc đăng ký các đối tượng này chỉ có hiệu
lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia nhất định nên cần có một cơ chế ghi nhận quyền yêu
tiên cho người nộp đơn trước tại một quốc gia khác.
Điều kiện để được hưởng quyền ưu tiên: Để được hưởng quyền ưu tiên người nộp
đơn phải đáp ứng được các điều kiện sau đây: 3 điều kiện
- Có đơn nộp sớm hơn tại một/các nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy
định về quyền ưu tiên;
- Đơn xin hưởng quyền ưu tiên phải đề cập đến cùng một đối tượng như trong đơn
đầu tiên;
- Đối tượng hưởng quyền ưu tiên phải là Sáng chế, Mẫu hữu ích, Kiểu dáng công
nghiệp, Nhãn hiệu. Tuy nhiên, trong Khoản E, Điều 4 Công ước Paris cũng có quy định
rằng "(1) Nếu một đơn kiểu dáng công nghiệp nộp tại một nước với yêu cầu hưởng quyền
ưu tiên trên cơ sở một mẫu hữu ích, thời hạn hưởng quyền ưu tiên sẽ là thời hạn cho kiểu
dáng công nghiệp (2) có thể cho phép nộp một đơn mẫu hữu ích tại một nước với yêu cầu
hưởng quyền yêu tiên trên cơ sở một đơn sáng chế và nguợc lại". Có thể xảy ra trường
hợp cùng một Giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn xin bảo hộ tại nhiều quốc gia khác nhau
nhưng mỗi nước có thể bảo hộ các đối tượng này theo cơ chế khác nhau do tính tương tự
giữa chúng, điều này phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước. Để khắc phục điều này,
Công ước Paris đã dự liệu trường hợp người nộp đơn có thể hưởng quyền ưu tiên của kiểu
dáng công nghiệp trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ một mẫu hữu ích nộp sớm hơn tại
một quốc gia khác hay đơn sáng chế trên cơ sở mẫu hữu ích và ngược lại. Cùng với đó
người nộp đơn được hưởng quyền ưu tiên từ nhiều đơn cũng như từ một phần của đơn
nộp trước "Nếu kết quả xét nghiệm khẳng định đơn sáng chế bao gồm nhiều sáng chế,
người nộp đơn có thể tách đơn thành một số lượng nhất định các đơn riêng và giữ ngày
nộp đơn ban đầu là ngày nộp đơn của mỗi đơn đó và giữ nguyên quyền ưu tiên nếu
có...người nộp đơn cũng có thể tự mình chủ động tách đơn sáng chế và giữ nguyên ngày
nộp đơn ban đầu của mỗi đơn mới tách và giữ nguyên quyền ưu tiên. nếu có". (Điểm G,
Điều 4, Công ước Paris).
Thời hạn hưởng quyền ưu tiên và các trường hợp không được hưởng quyền ưu
tiên:
- Đối với từng đối tượng khác nhau, thời hạn để người nộp đơn hưởng quyền ưu
tiên cũng khác nhau.
+ Thời hạn hưởng quyền ưu tiên đối với Sáng chế và Mẫu hữu ích là 12 tháng, kể
từ ngày nộp đơn đầu tiên
61
+ đối với kiểu dáng công nghiệp và Nhãn hiệu thì thời hạn này là 06 tháng, kể từ
ngày nộp đơn đầu tiên, ngày nộp đơn đầu tiên không tính vào thời hạn.
Những quy định này không chỉ áp dụng trong phạm vi đăng ký vào một quốc gia
mà cả khi đăng ký quốc tế, các đơn này vẫn được hưởng quyền này. Điều này giúp cho
người nộp đơn chỉ phải nộp lệ phí xin hưởng quyền yêu tiên ở một cơ quan quốc tế duy
nhất thay vì phải nộp lệ phí đó ở tất cả các quốc gia đăng ký có yêu cầu xin hưởng quyền
ưu tiên và mức lệ phí cũng sẽ tiết kiệm hơn.
- Trường hợp không được hưởng quyền ưu tiên:
"...Nếu tại thời điểm nộp đơn sau, đơn nộp trước nói trên đã được rút bỏ, không
được xem xét tiếp hoặc bị từ chối nhưng chưa đưa ra xét nghiệm công chúng và không để
lại bất cứ quyền nào chưa giải quyết, và nếu chưa phải là cơ sở để hưởng quyền yêu tiên.
Lúc đó, đơn nộp trước sẽ không được dùng làm cơ sở để hưởng quyền ưu tiên" (Điểm 4,
Khoản C, Công ước Paris).
Quy định này nhằm hạn chế những người nộp đơn trước lợi dụng điều này để xin
hưởng quyền ưu tiên một cách không hợp lý khi đơn đã rút bỏ hoặc bị từ chối chính thức..
b. Thỏa ước Madrid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa năm 1891:
Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid có sự khác nhau:
- Nghị định thư cho phéo đăng ký quốc gia dựa trên đơn quốc gia chứ ko chỉ dựa
trên việc đăng.ký quốc gia.
- Nghị định thư quy định thời hạn 18 tháng thay cho thời hạn 1 năm dành cho các
bên tham gia để từ chối bảo hộ.
- Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không phải là
hiệp định điều chỉnh về mặt nội dung. Nghị định thư giúp những người sở hữu nhãn hiệu các cá nhân và doanh nghiệp - bảo vệ được nhãn hiệu của họ một cách hiệu quả cùng một
lúc ở nhiều quốc gia thông qua việc lập hồ sơ xin cấp bằng phát minh sáng chế tới một cơ
quan duy nhất với một ngôn ngữ, một khoản chi phí và một loại tiền tệ. Hơn nữa, không
cần phải lập hồ sơ qua trung gian. Đơn xin cấp bằng phát minh, sáng chế có thể được lập
bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc Tây Ban Nha.
VN đã tham gia thỏa ước nhưng chưa tham gia nghị định thư.
Mục đích: Tạo đkiện thuận lợi cho việc đký nhãn hiệu hàng hóa tại các nước thành
viên.
Nội dung:
- Nộp đơn đăng ký quốc tế:
+ Việc bảo hộ quốc tế đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất phát từ yêu cầu bảo hộ của
chủ nhãn hiệu hàng hóa thông qua việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ, đơn này gọi là “đơn đký
quốc tế”.
+ Đơn đc nộp bởi 1 thể nhân hoặc pháp nhân có sở kinh doanh hoặc cư trú tại một
nước tham gia thỏa ước.
62
+ Trong đơn quốc tế phải xác định một hoặc nhiều nước nơi nhãn hiệu đc bảo hộ.
Nước đc chỉ định trg đơn và nước xuất xử đều là thành viên của TƯ.
+ Đơn quốc tế đc nộp tới văn phòng quốc tế của tổ chức SHTT thế giới thông qua
có quan trung gian là cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ. Kèm theo đơn là lệ phí: lệ
phí đký, lệ phí quốc gia.
- Hiệu lực của đơn đăng ký:
+ Đăng ký tại văn phòng quốc tế có hiệu lực trg vòng 20 năm kể từ ngày đăng ký
và có quyền gia hạn thêm 20 năm kể từ ngày hết hạn thời hạn trước đó.
+ Ngày đăng ký quốc tế là ngày nộp đơn đăng ký quốc tế tại nước xuất xứ nếu văn
phòng quốc tế nhận đc đơn đó trg vòng 2 tháng kể từ ngày nhận đc đơn.
+ Kể từ ngày đăng ký quốc tế thực hiện tại văn phòng quốc tế việc bảo hộ đối với
nhãn hiệu hàng hóa tại tất cả các nước thành viên được thực hiện như đối với nhãn hiệu
đc nộp trực tiếp tại nước đó.
- Từ chối bảo hộ: Tất cả các nước thành viên của TƯ được chỉ định trg đơn quốc tế
có quyền từ chối bảo hộ trên phạm vi lãnh thổ nước mình.
c. Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế (PCT)
Hiệp định PTC của WIPO đã được ký kết tại Washington, D.C. năm 1970 và có
hiệu lực năm 1978. Hiệp định đã được sửa đổi năm 1979, 1984, 2001 và 2004. Tính đến
ngày 15/9/2005 đã có 128 bên tham gia ký kết PCT.
Nhờ đơn giản hóa quá trình lập hồ sơ đăng ký bằng phát minh sáng chế nên PCT
đã giúp những nhà phát minh được bảo hộ bằng phát minh của họ trên toàn thế giới. Hiệp
định này cũng khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân tìm cách bảo hộ bằng
phát minh sáng chế của họ ở nước ngoài.
Theo hiệp định này, các công dân của một quốc gia tham gia ký kết chỉ cần lập
một hồ sơ đăng ký cấp bằng phát minh duy nhất - thường được gọi là hồ sơ “quốc tế” – và
gửi tới Cơ quan cấp bằng phát minh của nước họ hoặc tới WIPO với tư cách là cơ quan
tiếp nhận hồ sơ. Như vậy, đơn xin cấp bằng phát minh sáng chế của họ sẽ tự động được
gửi tới tất cả 127 quốc gia tham gia PCT.
Hiệp định cho phép những người nộp đơn có thời gian dài hơn – 30 tháng – để cam
kết trang trải mọi chi phí dịch thuật, lệ phí hồ sơ trong nước và thực thi ở tất cả mọi quốc
gia nơi họ muốn được bảo hộ. Nhờ cho phép người nộp đơn có nhiều thời gian và thông
tin hơn để đánh giá thế mạnh trong bằng phát minh sáng chế tương lai của họ và quyết
định kế hoạch tiếp thị của mình, thời hạn 30 tháng giúp các ứng viên lựa chọn tốt hơn
những quốc gia nơi họ muốn nộp hồ sơ. Đây là một bước tiến quan trọng so với thời hạn
ưu tiên 12 tháng đã được quy định trong Công ước Paris đối với những người nộp đơn xin
cấp bằng phát minh sáng chế.
Trong khuôn khổ PCT, WIPO đã ấn hành “áp dụng tính quốc tế” cùng với hướng
dẫn về việc công nhận phát minh sáng chế. Việc hướng dẫn như vậy có nghĩa là tiến hành
nghiên cứu sơ bộ và/hoặc kiểm tra thông qua một “cơ quan quốc tế” - một trong 11 cơ
quan cấp bằng phát minh sáng chế hiện đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về nhân lực và các
63
yêu cầu xử lý hồ sơ khác được WIPO ủy quyền. Việc chỉ dẫn như vậy giúp người nộp đơn
quyết định xem có nên tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp bằng phát minh, sáng chế tới các cơ
quan cấp bằng phát minh, sáng chế ở trong nước hay trong khu vực hay không. Các cơ
quan cấp bằng phát minh cũng được hưởng lợi từ quá trình chỉ dẫn này khi quyết định có
nên cấp bằng phát minh sáng chế quốc gia hay khu vực dựa theo hồ sơ đăng ký trong
khuôn khổ của PCT hay không. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã xác định
những văn bản liên quan cần thiết giúp các cơ quan cấp bằng phát minh, sáng chế đảm
bảo nguồn lực trong quá trình điều tra và nâng cao chất lượng kiểm tra của họ.
Các nước thành viên của hiệp ước PCT sẽ từ chối ko cấp văn bằng bảo hộ đối với
sáng chế được nêu trg đơn quốc tế khi:
-Việc bảo hộ sáng chế đó là trái với PL của nước thành viên đc yêu cầu bảo hộ
- Việc bảo hộ sáng chế có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia hoặc các quyền lợi kinh
tế của nước thành viên đc chỉ định.
e. Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPs của WTO (được ký kết năm 1994 và chính thức có hiệu lực vào
tháng 1/1995) đã ra đời nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hộ quyền SHTT.
Với Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về quyền SHTT được đưa vào hệ thống
thương mại đa biên và người ta kỳ vọng rằng Hiệp định sẽ "góp phần thúc đẩy việc cải
tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người
sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng
giữa quyền lợi và nghĩa vụ" (Điều 7, Hiệp định TRIPs).
Tầm quan trọng của Hiệp định TRIPS được thể hiện ở ba điểm:
Đây là hiệp định duy nhất đầu tiên thực sự mang tính quốc tế đã đưa ra các chuẩn
mực tối thiểu về bảo hộ nhiều hình thức của sở hữu trí tuệ;
Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ có những quy định cụ thể về
trách nhiệm dân sự, hình sự và bảo vệ biên giới; và
Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ được áp dụng để giải quyết
tranh chấp. Trên thực tế, TRIPS đặt nền tảng cho một hạ tầng cơ sở vững chắc và hiện đại
trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ cho cộng đồng quốc tế.
Ý nghĩa của hiệp định
+ Hiệp định TRIPS có vị thế độc nhất trong số các điều ước quốc tế về IPR bởi lẽ
việc trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc tham gia “trọn gói” các hiệp ước.
Nói cách khác, các quốc gia thành viên của WTO không được phép lựa chọn các hiệp ước
mà phải tuân thủ tất cả các hiệp ước đa phương của WTO, bao gồm cả TRIPS.
+ Các quy định mới điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền
SHTT thông qua Hiệp định TRIPs đã trở thành một phương tiện giúp củng cố trật tự,
cũng như giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống hơn trên phạm vi toàn cầu.
+ Hiệp định nêu ra các nguyên tắc và ấn định mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc
gia thành viên phải bảo đảm cho quyền sở hữu trí tuệ của các quốc gia thành viên khác.
64
Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối
với xã hội.
- Hiệp định Trips là sự tổng hợp, kế thừa và phát triển của 2 Công ước Berne và
Pari:
+ Berner chỉ bao gồm quyền tác giả, Pari chỉ gồm quyền sở hữu công nghiệp.
+ Trips: bao gồm cả quyền tác giả + quyền sở hữu công nghiệp + một số quyền
khác ( VD thông tin bí mật trg thương mại, bảo hộ quyền phát song trên vệ tinh…)
Mục đích:
Quy định những điều kiện thuận lợi cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho các công
dân của các nước thành viên.
Nguyên tắc bảo hộ:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia: Mỗi thành viên phải dành cho công dân của các
nước thành vieech khác sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn so với sự đối xử của
thành viên đó với công dân của mình trg việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc:
+ Bất kỳ một sự thuận lợi, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một thành
viên dành cho công dân bất kỳ nước nào khác thì lập tức và vô điều kiện phải đc dành cho
công dân của tất cả các thành viên khác.
+ Bản chất của nguyên tắc MFN là cầm một nước thành viên phân biệt đối xử giữa
các thành viên khác ( bình đẳng giữa các bên thứ 3) trg việc bảo hộ quốc tế quyền sở hữu
trí tuệ.
+ NT, MFN là nguyên tắc lần đầu tiên được quy định trg TRIPS vì:
TRIPS công nhận sở hữu trí tuệ là tài sản tư nhân được lưu thông trog thương mại
và các quốc gia trên thế giới phải có nghĩa vụ bảo hộ, mà để bảo hộ các quốc gia phải
thực sự bình đẳng trong một sân chơi, do đó cần ghi nhận nguyên tắc MFN.
Đối tượng và tiêu chuẩn bảo hộ
- Quyền tác giả: Điều 9.1 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải
tuân thủ Công ước Bern từ Điều 1 đến Điều 21 và Phụ lục kèm theo. Quyền tác giả được
bảo hộ cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp định TRIPs quy định các chương
trình máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo đúng
Công ước Bern.
- Nhãn hiệu hàng hóa: Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết
hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng
hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
Điều 16 của Hiệp định quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Điều 6 bis của Công
ước Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các thành viên WTO có thể quy định
các điều kiện cấp phép và chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa, trong đó không được quy
định việc cấp phép bắt buộc và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký có quyền
chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa đó có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ
65
sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hóa đó. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hóa
không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế.
- Chỉ dẫn địa lý: là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước, khu vực hay
địa phương thuộc nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý
quyết định (Điều 22). Các thành viên WTO phải quy định những biện pháp để các bên
liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa lý của hàng
hóa hoặc tạo thành "hành vi cạnh tranh không lành mạnh" theo điều 10 bis Công ước
Paris.
- Bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp: Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định các thành
viên WTO phải bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp được sáng tạo một cách độc lập, có
tính mới hoặc tính sáng tạo ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo
hộ có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có
chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên
tùy ý quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng công nghiệp hoặc bằng quyền
tác giả.
- Bằng sáng chế: Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua
bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ, cả sản
phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp
bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng
hoặc đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế,
tuy nhiên, cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng
sáng chế lạm dụng quyền của mình (như không cung ứng sản phẩm cho thị trường).
Trong trường hợp này, theo một số điều kiện nhất định trong Hiệp định, chính phủ các
nước có thể cấp "giấy phép bắt buộc" cho phép các nhà sản xuất khác sản xuất sản phẩm
này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy định mềm
dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu, nhất là đối
với các nước đang phát triển và kém phát triển.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí
mạch tích hợp trên cơ sở Hiệp định Washington về quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực
mạch tích hợp. Theo điều 36, các hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối nhằm mục đích
thương mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được phép của chủ
sở hữu được coi là bất hợp pháp. Điều 37 quy định, các thành viên sẽ không coi những
hành vi liên quan đến việc vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do vô
ý là bất hợp pháp nhưng sẽ yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích
hợp sau khi có thông báo vi phạm.
- Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo
hộ thông tin bí mật như một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát
thông tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái
phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 quy định các thành
viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để
xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ
công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó
không bị tiết lộ) nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.
66
- Kiểm soát hành vi chống cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí
tuệ (Hợp đồng lixăng): Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể cho phép người khác sản
xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hóa hoặc thương hiệu, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc
các mẫu mã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs thừa nhận trong số các điều kiện của hợp đồng
chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao
công nghệ. Hiệp định quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có
quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng
quyền SHTT trong lĩnh vực nhượng bản quyền, và phải sẵn sàng tham khảo lẫn nhau
nhằm chống lại các hành vi này.
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Điều 41 quy định các thành viên WTO phải đảm bảo khả năng khiếu kiện có hiệu
quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định,
trong đó có những chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm cũng như
không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn.
Mặt khác, những thủ tục này phải được áp dụng theo cách thức tránh tạo ra các
hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp.
Theo Hiệp định, tòa án quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời
để bảo vệ các chứng cứ của hành vi vi phạm quyền SHTT; sau khi đã xác định rõ chứng
cứ vi phạm, tòa án phải ra phán quyết yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại cho
người nắm giữ quyền SHTT.
Hiệp định cũng kêu gọi các quốc gia cần lưu ý, trong trường hợp trên thị trường
xuất hiện hành vi ăn cắp bản quyền với quy mô lớn, theo khung hình phạt, người có hành
vi vi phạm bản quyền sẽ bị khởi tố, có thể bị phạt tù, hoặc chịu các hình phạt khác. Các
thủ tục và biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm 2 nhóm cơ bản: các
biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự.
Giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs là quy định quan trọng nhất
trong lĩnh vực này và sẽ được giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp
của WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu các thành viên WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho
công chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử
cuối cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ,
thực thi, ngăn chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi
thỏa thuận đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT.
Hạn chế của HĐ TRIPS:
+ Hiệp định TRIPS không thể bao hàm được một số diễn biến mới, như các vấn đề
về Internet và tác quyền kỹ thuật số, công nghệ sinh học tiên tiến, và quá trình nhất thể
hóa những chuẩn mực toàn cầu về luật pháp hoặc thông lệ. Hiệp định này mới chỉ đặt nền
tảng cho việc bảo hộ IPR ở mức tối thiểu chứ chưa phải tối đa.
+ Hiệp định đã không xem xét một cách thích đáng sự khác biệt giữa hai khối quốc
gia phát triển và đang phát triển trong quá trình phát triển khoa học - công nghệ
67
+ Không có các biện pháp cụ thể nhằm rút ngắn khoảng cách này.
+ Hiệp định lại chỉ chú trọng đến quyền SHTT, không đề cập đến trách nhiệm xã
hội của quyền sở hữu này và như vậy vô hình chung sẽ làm tăng thêm khoảng cách giữa
hai khối quốc gia này.
+ Các nước đang phát triển đã không thể khai thác triệt để các biện pháp ưu tiên
mà CƯ dành cho, do tính chất không bắt buộc của các biện pháp ưu tiên đó.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả trong Tư pháp quốc tế
2. Trình bày nguyên tắc, điều kiện và nội dung bảo hộ quyền tác giả theo công ước
Berner 1886
3. Trình bày nguyên tắc, điều kiện và nội dung bảo hộ quyền tác giả theo công ước
Giownever 1952 – Công ước toàn cầu về quyền tác già
4. Trình bày nội dung bảo hộ quyền tác giả theo Hiệp định thiết lập quan hệ quyền
tác giả giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 1998
5. Bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
6. Trình bày nguyên tắc, điều kiện và nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
theo Công ước Pari 1883 về quyền sở hữu công nghiệp
7. Trình bày nguyên tắc và nội dung bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định
Trips 1995
8. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
68
CHƯƠNG 7
THỪA KẾ
1. THỪA KẾ VÀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa
kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc
chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự
nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền,
nghĩa vụ của người thừa kế.
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước và cũng là
một chế định quan trọng của tư pháp quốc tế. Quyền thừa kế có mối quan hệ mật thiết với
quyền sở hữu và do quyền sử hữu quyết định. Trong đó, việc để thừa kế và hưởng thừa kế
sẽ dẫn đến vấn đề chuyển quyền sở hữu từ người để thừa kế cho người được hưởng quyền
thừa kế chỉ có thể là đối tượng của quyền sở hữu.
Pháp luật về thừa kế ở các nước đa số được xác định dựa trên hai nguyên tắc
chính:
- Tự do di chúc.
- Bảo vệ quyền lợi của cá nhân, gia đình và xã hội.
Dựa trên các chế độ sở hữu khác nhau và do ảnh hưởng của các yếu tố như chế độ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo,… mà pháp luật về thừa kế
của các nước có sự khác nhau.
Về nguyên tắc, tất các các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế phát sinh trong phạm vi
quốc gia nào thì do pháp luật của quốc gia đó điều chỉnh. Khi các quan hệ về thừa kế vượt
ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật trong nước, hay nói cách khác, quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngoài, thì chúng thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa kế:
- Có ít nhất một bên là người nước ngoài (bao gồm cá nhân, pháp nhân và thậm chí
là quốc gia nước ngoài).
- Di sản đang ở nước ngoài.
- Căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài.
Xung đột pháp luật trong lĩnh vực thừa kế thường được giải quyết bằng pháp luật
quốc gia và điều ước quốc tế, nhưng hiện nay pháp luật quốc gia đang giữ vai trò chủ đạo.
2. NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
CỦA CÁC NƯỚC
2.1 Thừa kế theo luật
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người
còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
69
Thừa kế theo pháp luật không có sự định đoạt của người để lại di sản mà chỉ có ý
chí của nhà nước, thông qua pháp luật để giải quyết vấn đề thừa kế.
Để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo luật có yếu tố nước ngoài, pháp luật các nước
áp dụng các nguyên tắc khác nhau:
- Các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ:
Quan điểm thừa kế là một phương thức chuyển giao tài sản. Do vậy các quy phạm
pháp luật tập trung vào các hành vi lần lượt tác động đến mỗi tài sản, xảy ra suốt trong
quá trình chuyển giao tài sản đó.
Chia di sản thừa kế thành hai loại: động sản và bất động sản. Việc định danh tài
sản sẽ tuân theo pháp luật của nước nơi có tài sản.
Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế:
* Đối với di sản là bất động sản: sử dụng hệ thuộc Luật nơi có tài sản.
* Đối với di sản là động sản: sử dụng hệ thuộc Luật người để lại di sản thừa kết có
nơi cư trú cuối cùng.
- Các nước Tây Âu:
Quan điểm thừa kế là mối quan hệ nhân thân giữa người để lại thừa kế và người
thừa kế. Do đó các quy phạm pháp luật tập trung vào yếu tố nhân thân của người để lại di
sản và di sản được coi như một khối tài sản.
Không chia di sản thành động sản và bất động sản.
Áp dụng nguyên tắc duy nhất là luật nhân thân của người để lại di sản thừa kế, mà
cụ thể là luật quốc tịch.
- Ngoài ra, một số nước sử dụng dung hòa hai phương pháp này theo những cách
khác nhau
2.2 Thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những
người còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc.
Thừa kế theo di chúc thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết. Do đó, di chúc phải có các yếu tố sau:
- Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác.
- Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người
khác.
- Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và của di chúc nói
riêng.
Pháp luật các nước quy định rất khác nhau về điều kiện để di chúc có hiệu lực như
hình thức của di chúc, năng lực lập và hủy bỏ di chúc,…
70
Về hình thức của di chúc:
- Các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa quy định các hình thức di chúc
sau:
+ Di chúc viết tay do chính người để lại di sản viết toàn bộ, có chữ ký và xác nhận
của người đó.
+ Di chúc được lập dưới sự chứng kiến và xác nhận của người có thẩm quyền như
công chứng viên.
+ Di chúc được người để lại di sản lập một cách bí mật và yêu cầu cơ quan công
chứng bảo vệ.
- Các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ : chỉ thừa nhận một hình thức di
chúc chính, không cho phép người lập di chúc quyền tự do lựa chọn. Di chúc đó phải
được thể hiện ở hình thức viết, có chữ ký của người lập di chúc hoặc người được người
đó chỉ định với sự làm chứng của ít nhất hai người nếu người lập di chúc vắng mặt. Tuy
nhiên di chúc đó không đòi hỏi phải được viết bởi người lập di chúc, mà có thể bởi người
được ủy quyền.
Về năng lực lập di chúc
Hầu hết các nước quy định cá nhân đủ 18 tuổi là có đủ năng lực lập di chúc. Pháp
cho phép người chưa thành niên đến 16 tuổi được lập di chúc để định đoạt một nửa tài sản
thuộc sở hữu của mình.
Để xác định quyền thừa kế theo di chúc trong các quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài, các nước trên thế giới áp dụng các nguyên tắc khác nhau:
Các nước Anh, Mỹ quy định:
- Đối với di sản là động sản: năng lực hành vi lập di chúc, hình thức của di chúc áp
dụng hệ thuộc luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản.
- Đối với di sản là bất động sản: năng lực hành vi lập di chúc, hình thức của di
chúc áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản.
Ở các nước Tây Âu:
- Năng lực hành vi lập di chúc được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng của
người lập di chúc hoặc nơi luật nơi có tài sản.
- Hình thức của di chúc được xác định theo một trong các hệ thuộc sau: luật nơi có
tài sản, luật quốc tịch của người lập di chúc, luật nơi cư trú của người lập di chúc. Nếu
người lập di chúc không tuân thủ quy định về hình thức của các hệ thống pháp luật nói
trên mà lại thỏa mãn yêu cầu đối với luật nơi lập di chúc thì di chúc đó cũng không bị coi
là bất hợp pháp.
Theo quy định của các nước Đông Âu: Tính hợp pháp của di chúc, năng lực lập và
hủy bỏ di chúc áp dụng pháp luật của nước mà người để lại di sản là công dân vào thời
điểm lập di chúc. Riêng với vấn đề hình thức của di chúc thì bên cạnh đó còn có thể áp
dụng luật nơi lập di chúc.
71
Một số nước khác như Nga, Mông Cổ quy định: năng lực lập và hủy bỏ di chúc,
hình thức của di chúc và các văn bản hủy di chúc áp dụng pháp luật của nước nơi người
để lại di chúc cư trú vào thời điểm lập giấy tờ. Nhưng di chúc và việc hủy bỏ di chúc
không bị coi là vô hiệu vì không đòi hỏi về mặt hình thức nếu như hình thức cuối cùng
của nó thỏa mãn các yêu cầu của luật nơi lập giấy tờ hoặc pháp luật của nước sở tại. Đối
với các công trình xây dựng trên lãnh thổ của nước sở tại thì năng lực lập và hủy bỏ di
chúc, hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước sở tại.
3. GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ QUA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
GIỮA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Để điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, ngoài việc quy định trong hệ
thống pháp luật quốc gia, các nước còn ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế.
Trong các điều ước quốc tế đa phương, có thể kể đến các điều ước quan trọng sau:
Công ước Lahaye 1892 (được sửa đổi, bổ sung năm 1900, 1925, 1928, 1964):
- Luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, kể cả đối
với động sản và bất động sản, là luật nhân thân của người để lại di sản thừa kế, mà cụ thể
là luật quốc tịch.
- Công ước này cho đến nay vẫn chưa có hiệu lực pháp luật.
Công ước Lahaye 1961 về giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến hình thức
của di chúc: hình thức của di chúc sẽ có giá trị pháp lý nếu nó thỏa mãn các yêu cầu của
một trong số các hệ thống pháp luật sau:
- Luật nơi lập di chúc.
- Luật quốc tịch của người lập di chúc vào thời điểm lập di chúc hoặc vào lúc
người đó chết.
- Luật nơi cư trú của người lập di chúc vào thời điểm lập di chúc hoặc vào lúc
người đó chết.
- Đối với di chúc về bất động sản còn có thể áp dụng luật nơi có bất động sản.
Đối với các điều ước quốc tế song phương:
Phân chia di sản thành động sản và bất động sản.
- Đối với di sản là động sản: áp dụng luật quốc tịch của người để lại di sản.
- Đối với di sản là bất động sản: áp dụng luật nơi có vật.
4. VẤN ĐỀ “DI SẢN KHÔNG NGƯỜI THỪA KẾ” TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Di sản không người thừa kế là di sản mà không có người thừa kế theo di chúc, theo
pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản.
Theo pháp luật về thừa kế của phần lớn các quốc gia thì với trường hợp di sản
không người thừa kế, di sản sẽ thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, tính chất của quy định này
trong pháp luật các nước có sự khác nhau:
72
- Pháp luật một số nước như Nga, Hungari, Tây Ban Nha, Italia,… nhà nước
hưởng số di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế.
- Pháp luật của Anh, Mỹ, Pháp,… quy định nhà nước hưởng số di sản này như là
tài sản vô chủ trên cơ sở thực thi quyền chiếm hữu các tài sản vô chủ đó.
- Do đó có sự khác nhau trong pháp luật các nước trong việc định đoạt số phận di
sản không người thừa kế. Cụ thể là khi công dân của một nước cư trú và chết trên lãnh thổ
của nước khác, để lại di sản không người thừa kế trên lãnh thổ nước đó hay ở một nước
thứ ba.
Đối với những nước quy định nhà nước hưởng di sản không người thừa kế với tư
cách là người thừa kế:
- Nếu nước đó xây dựng hệ thống quy phạm xung đột trên cơ sở quy tắc Luật quốc
tịch thì số di sản này được chuyển giao cho nhà nước mà người để lại di sản thừa kế mang
quốc tịch.
- Nếu nước đó xây dựng hệ thống quy phạm xung đột trên cơ sở quy tắc Luật cư
trú thì số di sản này được chuyển giao cho nhà nước nơi người để lại di sản thừa kế cư trú
vào thời điểm người đó chết.
Đối với những nước quy định nhà nước hưởng di sản không người thừa kế trên cơ
sở quyền chiếm hữu đối với tài sản vô chủ thì tài sản đó được chuyển giao cho nhà nước
nơi hiện có số di sản thừa kế.
Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề di sản không người thừa kế:
- Trong Bộ luật dân sự 2005, tại điều 767, khoản 3 và khoản 4:
Di sản không người thừa kế là động sản thuộc về nhà nước mà người thừa kế để lại
di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.
Di sản không người thừa kế là bất động sản thuộc về nhà nước nơi có bất động sản.
Việc phân biệt tài sản là động sản hay bất động sản được xác định theo pháp luật
của nước nơi có tài sản.
Trong các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam là thành viên: vấn đề di sản
không người thừa kế được giải quyết thống nhất theo nguyên tắc:
- Nếu di sản là động sản thì được giao cho nước ký kết mà người để lại di sản là
công dân khi chết.
- Nếu di sản là bất động sản thì thuộc về nước ký kết nơi có bất động sản đó.
- Việc phân biệt tài sản là động sản hay bất động sản được xác định theo pháp luật
của nước nơi có di sản.
73
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm thừa kế trong Tư pháp quốc tế
2. Trình bày phương pháp giải quyết xung đột về thừa kế theo pháp luật Việt Nam và các
điều ước quốc tế liên quan
3. Nêu cách xác định quyền sở hữu đối với di sản không có người thừa kế
74
CHƯƠNG 8
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. KHÁI NIỆM
1.1 Khái niệm về hôn nhân và gia đình
Khái niệm hôn nhân:
- Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa đàn ông và đàn bà.
- Dưới góc độ pháp lý, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.
Khái niệm gia đình:
- Gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, nuôi dạy thế hệ trẻ
dưới sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội.
- Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật.
1.2 Khái niệm về hôn nhân và gia đình trong Tư pháp quốc tế
Quan hệ hôn nhân và gia đình, xét ở nhiều góc độ khác nhau, vừa là quan hệ pháp
luật vừa là quan hệ xã hội rất phức tạp và nhạy cảm. Trong điều kiện giao lưu dân sự và
hội nhập quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ, quan hệ hôn nhân và gia đình đã vượt ra khỏi
biên giới mỗi quốc gia và mang yếu tố quốc tế rõ rệt.
Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về yếu tố nước ngoài trong
quan hệ hôn nhân và gia đình. Lý luận và thực tiễn tư pháp quốc tế của các nước cho thấy
quan điểm về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau:
- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân của một nước với người nước ngoài,
không kể các quan hệ đó phát sinh ở trong hay ngoài lãnh thổ nước đó.
- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại một
lãnh thổ một nước.
- Quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân một nước với nhau phát sinh tại
nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam quy định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia
đình tại khoản 14 – điều 8 – Luật hôn nhân và gia đình 2000 như sau:
- Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
- Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
75