Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Lv ths luật học vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các vụ án dân sự tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.78 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm và đặc trưng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong giải quyết vụ án dân sự

1.2.

8

Cơ sở của việc xác định vai trò của Viện kiểm sát nhân trong
giải quyết các vụ án dân sự

1.3.

8

28

Quy định của pháp luật thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong giải quyết vụ án dân sự
Chương 2:



32

THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TỈNH PHÚ THỌ VÀ KIẾN NGHỊ

2.1.

Khái quát chung về vị trí địa lý, tình hình kinh tế, xã hội tỉnh
Phú Thọ

2.2.

60

Một số khó khăn, vướng mắc trong cơng tác kiểm sát việc giải
quyết vụ án dân sự

2.4.

58

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ trong giải
quyết vụ án dân sự

2.3.

58


62

Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
có hiệu quả hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự

68

KẾT LUẬN

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

KSV

: Kiểm sát viên

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Trang

bảng
2.1

Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của VKSND
tỉnh Phú Thọ trong hai năm 2017 – 2020

2.2

Thống kê kết quả công tác kiểm sát tại phiên tòa, phiên
họp của VKSND tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn 2017-2020

2.3

60
61

Thống kê kết quả công tác kiểm sát bản án, quyết định của
VKSND tỉnh Phú Thọ đạt được trong giai đoạn 2017-2020

61


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh cơng bố Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đánh dấu một bước ngoặt lớn chuyển Viện
công tố thành VKSND và ngành Kiểm sát nhân dân trở thành một hệ thống
trong cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Từ đó đến nay, với chức năng thực hiện quyền công tố đồng thời kiểm sát
hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp khác, VKSND đã khẳng định
được vai trò và tầm quan trọng của mình, hồn thành tốt các mục tiêu, nhiệm
vụ của Đảng và Nhà nước giao phó.
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Trong thời gian vừa qua, dưới ánh sáng của sự lãnh
đạo của Đảng thì xã hội của chúng ta khơng ngừng có những đổi mới, có
những chuyển biến nhất định. Nền kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống của
mỗi người dân đều được đổi mới, nâng cao hơn. Xã hội của chúng ta là xã hội
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hoạt động cải cách, đổi mới hệ
thống tư pháp, hệ thống pháp luật đều cần được nhấn mạnh, mang lại hiệu quả
cao hơn nữa cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân ở Việt Nam hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thì ngành Kiểm sát nhân dân
có những sự tiến bộ, đổi mới nhất định, đặc biệt là yêu cầu đòi hỏi về việc cải
cách bộ máy VKSND theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Điều này thể hiện trước
hết thơng qua các u cầu mang tính định hướng của các Nghị quyết của
Đảng đã được ban hành. Đơn cử như Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn
mạnh đến yêu cầu cải cách về tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân
dân như sau: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền


2

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”1. Ngày 15
tháng 6 năm 2004, tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam khóa XI đã thơng qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). BLTTDS năm
2004 là văn bản đầu tiên của Việt Nam về vấn đề tố tụng dân sự (TTDS) ở
cấp độ Bộ luật, trước đây chỉ là các pháp lệnh đơn lẻ được ban hành trong
từng thời kỳ khác nhau. Việc ban hành BLTTDS cho thấy tư tưởng thống
nhất, đầy đủ về phương thức giải quyết các vụ việc dân sự đã được quan tâm
hơn nữa. Trong BLTTDS năm 2004 thì vị trí, vai trị của VKSND trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự đã được xác định một cách chi tiết, đầy đủ và
có ý nghĩa cao. Điều này đẩy mạnh hơn nữa vai trò của VKSND trong việc
tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đề cao nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Trong quá trình áp
dụng và thực hiện đầy đủ yêu cầu cải cách tư pháp thì BLTTDS cũng đã cho
thấy nhiều điểm bất cập, hạn chế, tồn tại nhất định. Nhiều vấn đề đặt ra chưa
được giải quyết một cách triệt để, các nội dung về chứng minh, giải quyết vụ
việc dân sự còn nhiều bất cập. BLTTDS còn chưa làm rõ được nhiều vấn đề
trong đó có yêu cầu về xác định cách thức, thẩm quyền của VKSND trong q
trình tham gia vào TTDS, từ đó làm hạn chế đáng kể vai trò của cơ quan này.
Từ những vấn đề này mà Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ: Nhiệm vụ
cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn
biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu
kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện
và tranh chấp có yếu tố nước ngồi có chiều hướng tăng về số lượng và phức
tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư
pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
1


3


dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ
hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với các loại tội phạm và vi phạm2.
Xuất phát từ thực tiễn trên, ngày 29 tháng 3 năm 2011 tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS trong đó sửa đổi, bổ sung các quy định về việc VKSND tham gia
TTDS. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã có nhiều sửa đổi,
bổ sung theo hướng nhấn mạnh vị trí, vai trị của VKSND trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự những vấn đề vẫn còn nhiều hạn chế, việc nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung vẫn còn cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Với sự thay đổi
của Hiến pháp năm 2013, bản Hiến pháp này quy định “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 vẫn tiếp tục ghi nhận VKSND có chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong lĩnh vực TTDS thì
VKSND có thêm những nhiệm vụ quyền hạn quan trọng. Ngồi ra theo
BLTTDS năm 2015 thì: “Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối
với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến
hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích
cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này” . Theo quy định này, phạm vi
những vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát (VKS) tham gia phiên tòa được
mở rộng hơn, đồng thời về việc phát biểu quan điểm của VKS tại phiên tịa sơ
thẩm cũng có sự đổi mới so với BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Quá trình giải quyết vụ án dân sự (VADS) trên cả nước, và đặc biệt tại
Phú Thọ đã có nhiều thay đổi từ ngày BLTTDS có hiệu lực pháp luật, trong
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

2


4

đó, có một phần khơng nhỏ đến từ việc thay đổi vị trí của ngành Kiểm sát nhân
dân trong quá trình giải quyết các VADS, do đó học viên lựa chọn đề tài: “Vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các vụ án dân sự tại tỉnh
Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá, làm rõ vai trò của ngành
Kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết các VADS và đưa ra một số
khuyến nghị giúp đẩy mạnh vai trò của ngành Kiểm sát nhân dân giúp việc
giải quyết VADS được nhanh gọn, đúng quy định pháp luật, đáp ứng các yêu
cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học đề cập đến chức năng
kiểm sát giải quyết các VADS của VKSND, cụ thể:
- Cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” do
TS. Bùi Thị Huyền chủ biên năm 2016 và cuốn “Bình luận khoa học Bộ
luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015” do PGS.TS. Trần Anh Tuấn làm chủ biên năm 2017.
- Luận văn thạc sĩ Luật học về “Kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
từ thực tiễn thực hiện tại các Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh” của
tác giả Phạm Thị Hoa năm 2019, đã có những phân tích đáng chú ý về cơng
tác kiểm sát việc giải quyết VADS. Tuy nhiên, luận văn viết dưới góc độ tỉnh
Quảng Ninh, do vậy khó tránh khỏi những hạn chế nhất định và đồng thời
cũng chưa tập trung nghiên cứu về riêng vai trò của ngành Kiểm sát nhân dân
trong quá trình giải quyết các VADS.
- Bài viết “Những sửa đổi, bổ sung về kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, “Những sửa
đổi, bố sung các quy định về xét xử phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà được đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 6/2016.
- Bài viết “Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật
Tố tụng dân sự”, Đề tài khoa học cấp Bộ của TS. Trần Văn Trung, năm 2003.


5

- Luận án tiến sĩ Luật học “Quá trình hình thành, phát triển và đổi
mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam”, của
tác giả Trần Văn Nam, năm 2010.
- Bài viết “Đổi mới vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách
chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2008.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam” của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006.
Bài viết “Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm
sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga, đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 09 năm 2004.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010...
Như vậy, từ đó cho thấy, việc nghiên cứu về vị trí, tầm quan trọng của
VKSND trong q trình giải quyết VADS còn chưa được nhiều tác giả nghiên
cứu, sâu sát công bố đặc biệt là nghiên cứu về hoạt động của VKSND trong
quá trình giải quyết các VADS tại tỉnh Phú Thọ. Do vậy, mong rằng những
nghiên cứu của học viên sẽ góp phần vào các tài liệu nghiên cứu và có ý
nghĩa thực tiễn nhất định nhằm nâng cao vai trị của ngành Kiểm sát nhân dân
nói chung và của VKSND tỉnh Phú Thọ nói riêng trong TTDS.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tổng thể, đầy đủ và
kỹ càng những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của VKSND trong
TTDS được thể hiện trong BLTTDS cũng như trong thực tiễn tham gia giải
quyết các VADS tại VKS tỉnh Phú Thọ và đề xuất các giải pháp nhằm hồn
thiện và thực hiện có hiệu quả các quy định của BLTTDS về VKSND tham
gia TTDS.


6

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt
động kiểm sát quá trình giải quyết các VADS, những quy định của pháp luật
TTDS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về công tác kiểm
sát quá trình giải quyết VADS của VKSND trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ đề cập đến kiểm sát quá trình giải quyết VADS theo
thủ tục tố tụng thông thường, luận văn khơng nghiên cứu về kiểm sát q
trình giải quyết VADS theo thủ tục rút gọn, cũng như kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong TTDS.
- Luận văn tập trung nghiên cứu công tác kiểm sát giải quyết các
VADS theo quy định của BLTTDS năm 2015 và thực tiễn kiểm sát giải quyết
VADS tại tỉnh Phú Thọ trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2020.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, xây dựng
pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Ngồi ra, việc nghiên cứu cịn sử dụng kết hợp các phương pháp

nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
chứng minh tổng hợp...
- Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá chuyên sâu những
quy định của pháp luật TTDS về chức năng kiểm sát quá trình giải quyết VADS;
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát chung về những
vướng mắc từ thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về vai trò,
chức năng kiểm sát quá trình giải quyết VADS của VKSND;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn
cơng tác kiểm sát q trình giải quyết VADS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.


7

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là cơng tình nghiên cứu cơng phu, có tính hệ thống những
vấn đề liên quan đến chức năng kiểm sát quá trình giải quyết VADS của
VKSND, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về VKSND tham gia TTDS góp phần
nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị, chức năng của VKS trong TTDS;
- Phân tích các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về hoạt động
kiểm sát việc giải quyết VADS, chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong việc thực
hiện các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS và nguyên nhân
của những hạn chế, tồn tại này, từ đó đưa ra kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao
hiệu quả trong thực hiện kiểm sát quá trình giải quyết VADS trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
- Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các
cơng trình nghiên cứu tiếp theo về các vấn đề có liên quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 02 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
giải quyết quyết vụ án dân sự tại tỉnh Phú Thọ và kiến nghị.


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc trưng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái qt về vị trí, vai trị, chức năng của Viện kiểm sát trong
bộ máy nhà nước ở Việt Nam
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đến
những năm 1957 - 1958, ngành tư pháp có bước phát triển mới địi hỏi phải có
những cải cách đảm bảo cho một nền tư pháp dân chủ, duy trì hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Tại khóa họp lần thứ 8,
ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
quyết định thành lập Tòa án tối cao và hệ thống Tòa án, thành lập Viện công
tố Trung ương và hệ thống cơ quan công tố tách khỏi Bộ Tư pháp. Đến năm
1976, hệ thống VKS đã cơ bản được thiết lập ở tất cả các địa phương, ngành
Kiểm sát tiếp tục củng cố, hoàn thiện các đơn vị trên phạm vi cả nước.
Như vậy, VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành nên
bộ máy nhà nước Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì VKSND là cơ

quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ pháp luật XHCN.
Tất cả những vấn đề nêu trên đều được ghi nhận trong tất cả Hiến
pháp, mà cụ thể tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


9

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp3.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là
một nước dân chủ nhân dân (Điều 2), một nhà nước thống nhất gồm nhiều dân
tộc (Điều 3). Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân (Điều 4). Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ
nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân
(Điều 6). Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống
lại chế độ dân chủ nhân dân (Điều 7). Như vậy, Hiến pháp năm 1959 đã khẳng
định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, quy định trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trước Tổ quốc và nhân dân, ghi rõ
phương thức thực hiện quyền lực nhân dân, xác lập chế độ dân chủ và chuyên

chính với mọi hành động xâm hại tới chế độ dân chủ và quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 1980 khẳng định bản chất Nhà nước Cộng hịa XHCN
Việt Nam là nhà nước chun chính vơ sản... thực hiện quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động (Điều 2). Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên
nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phát huy dân chủ
XHCN. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8).
Như vậy, Hiến pháp năm 1980 đã quy định một cách mạnh mẽ và toàn diện
. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

3


10

hơn về bản chất và mục tiêu của Nhà nước ta. Đồng thời, tại Chương I, Hiến
pháp năm 1980 còn ghi nhận những nguyên tắc và quy định quan trọng xác
lập những mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, bảo
đảm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phù hợp với bản chất đó
(trong các điều 4, 5, 7, 8, 12, 13).
Kể từ khi thành lập đến nay, VKSND ln khẳng định được vị trí của
mình trong bộ máy nhà nước ta. Vị trí của VKSND được xác lập trong Hiến
pháp. Vị trí của VKSND trong bộ máy nhà nước Cộng hịa XHCN Việt Nam
được thể hiện thơng qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước Cộng hịa XHCN Việt Nam nói chung, ngun tắc tổ chức, hoạt động
của VKSND nói riêng.
Ở nước Cộng hịa XHCN Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), các VKSND địa phương,
các Viện kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Viện trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSNDTC theo
nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng VKSNDTC chịu sự giám sát của Quốc
hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.
Phó Viện trưởng VKSNDTC và Kiểm sát viên (KSV) VKSNDTC do
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện
trưởng VKSNDTC.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV VKSND địa phương, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng,
KSV VKS quân sự quân khu và tương đương, VKS quân sự khu vực, Điều tra


11

viên của VKSNDTC và VKS quân sự Trung ương đều do Viện trưởng
VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất, bao gồm VKSNDTC,
các VKSND địa phương, các VKS quân sự. VKSND do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp
trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng VKS quân sự các cấp
chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC.
- Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất., góp phần bảo vệ cơng lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

tồn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, tổ chức của VKSND có hai thuộc tính là tính thống nhất và
tính độc lập:
Tính thống nhất của nó được thể hiện ở chỗ: Viện trưởng VKSND cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các
VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC.
Tính độc lập của nó thể hiện ở chỗ Viện trưởng VKSNDTC - người
đứng đầu hệ thống thống nhất đó - chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc
hội; trong thời gian Quốc hội khơng họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công
tác của các Viện trưởng các VKS khác do luật định. Theo quy định của Luật
Tổ chức VKSND hiện hành thì ở các địa phương, Viện trưởng VKSND chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của
đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 thì địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy


12

nhà nước, có chức năng thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp,
có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân.
Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND đã làm rõ vị trí, vai trị của
VKSND trong mối quan hệ phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà
nước theo tư tưởng Hiến pháp năm 2013.
Từ cấu trúc bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay cho thấy VKSND
có mối quan hệ chặt chẽ và chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà
nước ngang hàng và chịu trách nhiệm về các hoạt động thực hiện nhiệm vụ

của mình trước Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác. VKSND trong bộ
máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo chế độ tập trung thống nhất,
không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào và tồn tại như một hệ thống độc lập.
Hiện nay, hệ thống VKSND ở Việt Nam, bao gồm: VKSNDTC, VKSND cấp
cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là VKSND
cấp tỉnh), VKSND huyện, quận, thị xã, tỉnh thuộc tỉnh và tương đương (sau
đây gọi là VKSND cấp huyện), VKS quân sự các cấp.
Trong đó, mối quan hệ lãnh đạo của VKSND cụ thể: “Viện Kiểm sát
nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện
trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và bãi nhiệm”.
Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà
nước. Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp năm 2013,
Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam.


13

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố
Về bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Từ đó có thể thấy, chức năng thực hành quyền công tố của VKSND có

nghĩa là VKSND là cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền
đưa người phạm tội ra truy tố trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội. Tại khoản 1, Điều 3 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 xác định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự”. Theo đó, VKSND thực hành quyền cơng tố của
mình trong những lĩnh vực sau: Thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Thực hành quyền cơng tố
trong giai đoạn truy tố tội phạm. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự. Điều tra một số loại tội phạm. Thực hành quyền công tố
trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố là phát hiện, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh mọi tội phạm và người
phạm tội không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải


14

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật”.
Từ những quy trình đầu tiên của thủ tục tố tụng, VKS hoạt động tư
pháp đã diễn ra từ khâu tiếp nhận và giải quyết tố giác cho đến khi kết thúc
quá trình giải quyết vụ án
Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi
việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành
vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một công việc quan trọng trong thực
tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước. Ở nước ta, Luật Tổ chức VKSND
quy định cụ thể thẩm quyền, phạm vi và thủ tục kiểm sát hoạt động tư pháp.
Theo đó, VKS là cơ quan có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp.
VKSNDTC kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND địa phương thực hiện
quyền kiểm sát hoạt động tư pháp ở địa phương mình. VKS quân sự thực hiện
quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Luật Tổ chức VKSND quy định chức năng, nhiệm vụ của VKSND đối
với kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; tiếp nhận,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về
các hoạt động tư pháp. Theo đó, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều
tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra; điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; kiểm sát việc tuân theo pháp


15


luật trong việc xét xử các vụ án hình sự, kiểm sát việc giải quyết các VADS,
hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân (TAND);
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lí và
giáo dục người chấp hành án phạt tủ, tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt
động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật. Khi thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có quyền ra quyết định,
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu
cầu của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân thực hiện
nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
Đối với công tác kiểm sát hoạt động điều tra, VKSND kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các Cơ quan điều tra, các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm
bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra, khởi tố, xử lí kịp thời, khơng
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để người
nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền cơng dân, bị
xâm phạm tính mạng, tài sản và nhân phẩm một cách trái pháp luật, đảm bảo
việc điều tra phải khách quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc
phục kịp thời và xử lí nghiêm minh; truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị
can phải có căn cứ và đúng pháp luật. Trong thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động điều tra, VKSND có quyền khởi tố vụ án, yêu cầu Cơ quan điều
tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; đề ra yêu cầu điều tra và yêu
cầu Cơ quan điều tra trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của pháp luật; yêu cầu thay đổi Điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác;
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định hoặc hủy bỏ các quyết định trái
pháp luật của cơ quan điều tra; kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động



16

điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của các Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về
thẩm quyền điều tra, đồng thời, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị có
liên quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Như vậy, các hoạt động tư pháp là đối tượng của hoạt động kiểm sát
của VKSND bao gồm hoạt động tố tụng hình sự, TTDS, tố tụng hành chính
và hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành chính.
1.1.2. Khái niệm, đặc trưng của kiểm sát việc giải
quyết vụ án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là công tác thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án kịp thời, đúng pháp luật.
Cơng tác kiểm sát việc giải quyết các VADS bắt đầu từ khi Tòa án
thông báo trả lại đơn khởi kiện VADS, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
hoặc từ khi Tòa án thông báo thụ lý vụ việc dân sự đến khi bản án, quyết định
giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án có hiệu lực pháp luật mà khơng có
kháng nghị, khơng có u cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại theo quy định
của BLTTDS năm 2015.
Tham gia phiên tòa là một trong những hoạt động tố tụng của KSV
trong TTDS, hoạt động này có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó quyết định đến
chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS
của VKS nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VADS của Tòa án kịp thời, đúng
pháp luật. Trên cơ sở quy định của pháp luật về một số vấn đề lý luận, pháp lý
về công tác kiểm sát giải quyết các VADS đã được đề cập phần đầu của bài
viết này giúp cho sự nhận thức đầy đủ quyền năng pháp lý của VKS để thực

hiện tốt công tác kiểm sát các vụ việc dân sự đảm bảo có hiệu quả, chất lượng.
Một vấn đề lớn, cơ bản được đặt ra cho cơng tác này, đó là: Cơng tác


17

kiểm sát xét xử VADS dù ở cấp nào cũng phải đáp ứng được tiêu chí phát
hiện kịp thời và đầy đủ các vi phạm của Tòa án trong quá trình thụ lý, giải
quyết và xét xử VADS. Trên cơ sở đó để có biện pháp xử lý, giải quyết phù
hợp theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án
của Tòa án kịp thời, đúng pháp luật; bảo đảm cho các bản án và quyết định
của Tòa án trong các vụ việc dân sự có căn cứ và đúng pháp luật.
1.1.2.2. Đặc trưng của kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
Hiện nay, tranh chấp dân sự diễn biến phức tạp, quy mô ngày càng
lớn, nhiều vụ việc kéo dài dẫn đến khiếu kiện ngày càng gia tăng. Trong đó,
tranh chấp về đất đai chiếm tỷ lệ rất lớn, chính vì vậy nếu không giải quyết
dứt điểm những vụ việc tranh chấp dân sự sẽ ảnh hưởng chung đến sự phát
triển của đất nước, gây mâu thuẫn gay gắt và tiềm ẩn nhiều loại tội phạm cũng
như tình hình bất ổn trong nhân dân.
Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có vai trị vơ cùng
quan trọng trong giải quyết vụ việc dân sự, đảm bảo giải quyết đúng pháp luật,
kịp thời phát hiện kháng nghị, kiến nghị, khắc phục những vi phạm xảy ra.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, thì
VKSND thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. VKS là cơ
quan nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật TTDS quy định về sự
tham gia của VKS trong việc giải quyết các VADS. Sự tham gia của VKS
đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Tại khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND
2014: “1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm

sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”4.
Viện kiểm sát nhân dân tham gia TTDS với tư cách là cơ quan tiến
hành tố tụng, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo
. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

4



×