ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ THU ANH
SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN
SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
a
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ THU ANH
SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN
SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội – 2017
b
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các trích dẫn, ví dụ, số liệu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đề tôi có thể bảo
vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Ngô Thị Thu Anh
c
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ ...... 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải
quyết vụ án dân sự. .............................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự
............................................................................................................................. 10
1.1.2. Đặc điểm về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự
............................................................................................................................. 15
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự 20
1.2. Cơ sở của việc quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết
vụ án dân sự ......................................................................................................... 22
1.2.1. Xuất từ nhu cầu bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ án dân sự ............................................................................................... 22
1.2.2. Xuất phát từ hoạt động đặc thù của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự .. 23
1.2.3. Xuất phát từ việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
những người không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự, tự bảo vệ quyền lợi
của mình. ............................................................................................................. 23
1.2.4. Xuất phát từ thực tiễn giải quyết vụ án dân sự ......................................... 24
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật Việt Nam về sự tham gia của Viện
kiểm sát trong giải quyết dân sự.......................................................................... 25
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 ...................................................... 25
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 ...................................................... 28
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2015 ...................................................... 29
d
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay ................................................................ 34
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ .................................................................................. 39
2.1. Viện kiểm sát giám sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố
tụng, tham gia tố tụng.......................................................................................... 39
2.1.1. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ
án dân sự của Tòa án ........................................................................................... 39
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham
gia tố tụng và những người có liên quan trong tố tụng dân sự ........................... 49
2.2. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giải quyết vụ án dân sự .......................... 50
2.2.1. Viê ̣n kiể m sát tham gia phiên tòa sơ thẩm ................................................ 50
2.2.2. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm ............................................ 57
2.2.3. Tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ............................................ 59
2.3. Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự. .............................................................................. 60
2.3.1. Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị ................................... 60
2.3.2. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị ............................... 64
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI HẢI PHÒNG VÀ KIẾN NGHỊ ............. 70
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về sự tham
gia của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự tại Hải Phòng. .................. 70
3.1.1. Những kết quả đạt được ............................................................................ 70
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại .............................................................................. 84
3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .................................................. 86
e
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về sự tham gia của
Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự và nâng cao hiệu quả tham gia của
Viện kiểm sát tại Hải Phòng................................................................................ 92
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về sự tham gia của Viện
kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự ................................................................ 92
3.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tham gia của Viện kiểm sát trong giải
quyết vụ án dân sự tại Hải phòng ........................................................................ 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 102
f
DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BTP: Bộ Tư pháp
BCA: Bộ Công an
BTC: Bộ tài chính
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
CEL: Luật thi hành án dân sự Nhật Bản
LTCVKSND: Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
NĐ-CP: Nghị định chính phủ
NQ/TW: Nghị quyết trung ương
TTLT: Thông tư liên tịch
THADS: Thi hành án dân sự
TAND: Tòa án nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKS: Viện kiểm sát
VADS: Vụ án dân sự
g
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “VKSND thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”[15]; Điều 4 LTCVKSND năm
2014 quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND [16].
Trong đó, lĩnh vực kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự đóng vai trò quan
trọng, để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31 tháng 12 năm
1959 lần đầu tiên quy định về chế định VKSND [9]. LTCVKSND năm 1960
quy định “VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
các TAND và trong việc chấp hành các bản án” [10, Điều 3]. Tiếp sau đó
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (sau đây gọi tắt là
PLTTGQCVADS) đã quy định VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS. Theo đó, VKS có quyền khởi tố, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, tham gia các phiên tòa khi VKS khởi tố,
kháng nghị hoặc khi xét thấy cần thiết [25]. Sau nhiều năm thi hành
PLTTGQCVADS, VKSND đã thực hiện được chức năng, nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm đảm bảo sự
tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các VADS, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước. BLTTDS năm 2004 ra đời đã
hạn chế sự tham gia của VKSND trong giải quyết các VADS. Qúa trình thi
hành BLTTDS đã cho thấy, BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những vướng
mắc, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ theo quy định tại Hiến pháp và LTCVKSND. Thực tiễn xét xử
trong những năm qua cho thấy, nhiều VADS được giải quyết không tuân thủ
đúng quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà VKS
1
không kịp thời phát hiện dẫn đến bản án bị hủy, sửa ở cấp phúc thẩm. Thông
báo Kết luận của Bộ Chính trị số 230-TB/TW ngày 26/3/2009 về sơ kết 3
năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đánh giá “Tiến độ giải quyết các vụ việc còn
chậm, chất lượng xét xử các VADS còn thấp,… trong đó có nguyên nhân là
chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát có hiệu quả việc giải quyết các VADS”
[2].
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên của BLTTDS năm
2004, đảm bảo phù hợp với thực trạng hoạt động giải quyết các VADS, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
ngày 29/3/2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS sửa đổi, bổ sung) và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2012. Điều 21 khoản 2 BLTTDS sửa đổi, bổ sung
quy định: “VKSND tham gia … các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án
do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản
công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”[14].
Khoản 1 Điều 21 cũng khẳng định: “VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo
quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp
thời, đúng pháp luật” [14]. Điều 45 BLTTDS quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của kiểm sát viên. Theo đó, kiểm sát viên được phân công tham gia phiên
tòa xét xử các VADS có quyền phát biểu quan điểm của VKS về giải quyết
VADS. Khi đề cập đến việc giải quyết các VADS, cần phải xem xét cả việc
tuân theo pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung được áp dụng để giải quyết
vụ án. Có nghĩa là, kiểm sát viên có quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung. Tuy nhiên, Điều 234 khoản 1
2
BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung lại quy định: “…, kiểm sát viên phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia
TTDS, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án…” [17]. Theo tinh thần của điều luật này thì kiểm sát viên không có
quyền phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về nội dung, chưa đảm
bảo cho việc giải quyết về nội dung các VADS được tuân thủ đúng quy định
của pháp luật, dẫn đến việc bản án bị hủy, sửa. Vì vậy, vai trò của VKS
trong giải quyết các VADS chưa đạt được hiệu quả tương xứng với vị trí của
mình.
Hải Phòng là thành phố đã có những nỗ lực trong việc giải quyết các
VADS cũng gặp những vấn đề như vậy. Chính vì vậy, với cương vị là học
viên cao học, tôi chọn đề tài “Sự tham gia của VKSND trong giải quyết các
VADS và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” làm đề tài
nghiên cứu nhằm góp phần tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng, vai trò
của VKSND trong TTDS nói chung và trong việc giải quyết các VADS nói
riêng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến sự tham gia
của VKSND trong giải quyết các VADS, cụ thể:
* Các công trình được nghiên cứu trước khi ban hành LTCVKSND
năm 2014 và BLTTDS năm 2015:
- Giáo trình các trường đại học như Giáo trình Luật TTDS, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2011; Giáo trình Luật
TTDS, Học viên tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2007. Tuy nhiên, các
giáo trình này đều được viết theo BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS năm 2011.
3
- Các biết viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như bài
biết “Về quyền kháng nghị theo thủ tục phẩm dân sự của VKS” của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí luật học số 11/2009; “Vai trò của
VKSND trong TTDS” của tác giả Phan Vũ Ngọc Quang đăng trên Tạp chí
kiểm sát, tháng 4/2005; “Những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS” của tác giả Kiều Trang đăng trên
Tạp chí kiểm sát, số 22 tháng 11/2009; “Nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng
quyền và trách nhiệm của VKS trong công tác kháng nghị phúc thẩm dân
sự” của tác giả Võ Huy Triết đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 5 tháng 3/2009;
“Mâu thuẫn trong một số quy định của BLTTDS về việc VKSND tham gia tố
tụng và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Quang Lộc đăng trên Tạp chí
TAND, số 12 tháng 6/2013. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các
tác giả còn giới hạn ở một số khía cạnh của chức năng kiểm sát trong TTDS
của VKS, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về vai trò của VKS
trong giải quyết các VADS. Hơn nữa, các công trình này đều nghiên cứu sự
tham gia của VKS trong TTDS theo quy định của BLTTDS năm 2004 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011.
* Các công trình được nghiên cứu sau khi ban hành LTCVKSND năm
2014 và BLTTDS năm 2015:
Sau khi LTCVKSND năm 2014, BLTTDS năm 2015 ban hành thì
cũng có một số công trình đề cập đến sự tham gia của VKS trong TTDS
như:
- Cuốn “Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015” do TS. Bùi Thị
Huyền chủ biên năm 2016 và cuốn “Bình luận khoa học BLTTDS của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” do PGS.TS Trần Anh Tuấn
làm chủ biên năm 2017. Hai cuốn sách chủ yếu phân tích về những điểm
mới của BLTTDS năm 2015 đồng thời có phân tích, đánh giá những quy
4
định mới về sự tham gia của VKS trong TTDS. Tuy nhiên, những bình luận,
đánh giá này mang tính chất gợi mở và chưa hệ thống về sự tham gia của
VKS trong TTDS.
- Bài viết “Những sửa đổi, bổ sung về kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm trong BLTTDS năm 2015”; “Những sửa đổi, bổ sung các quy
định về xét xử phúc thẩm trong BLTTDS năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị
Thu Hà được đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2016, tạp chí
Luật học số 7/2016 phân tích, đánh giá những quy định mới của BLTTDS
2015 về kháng cáo, kháng nghị và về xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, bài viết
chỉ thể hiện được một phần về sự tham gia của VKS trong TTDS (ở cấp xét
xử phúc thẩm).
- Bài viết "Những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015" của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi được đăng trên tạp chí Kiểm sát số
5/2016 hệ thống về những quy định mới liên quan đến công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng chưa đưa ra những phân tích, đánh giá
những quy định mới về sự tham gia của VKS trong TTDS.
- Bài viết "Về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ
thẩm theo BLTTDS năm 2015" của tác giả Bùi Văn Kim được đăng trên tạp
chí Kiểm sát số 5/2016 đã đánh giá về thực trạng nội dung phát biểu ý kiến
của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm theo quy định của BLTTDS
năm 2011; đồng thời, phân tích, đánh giá các quy định mới về nội dung phát
biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Tuy nhiên, bài viết chỉ thể hiện được
một phần về sự tham gia của VKS thông qua bài phát biểu tại phiên tòa dân
sự sơ thẩm.
- Bài viết "Công tác kiểm sát xét xử vụ án dân sự và vấn đề nâng cao
chất lượng bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa" của Tiến sĩ Lê
Thành Dương được đăng trên tạp chí Kiểm sát số 20/2016 phân tích, đánh
5
giá những quy định mới của BLTTDS năm 2015 về việc tham gia phiên tòa,
phiên họp dân sự của Viện kiểm sát, về nội dung kiểm sát việc tuân theo
pháp luật tại phiên tòa và nâng cao chất lượng bài phát biểu ý kiến của VKS
tại phiên tòa. Tuy nhiên, bài viết chỉ thể hiện được một phần sự tham gia của
VKS trong TTDS (tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự).
Như vậy, có thể khẳng định, từ khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực
đến nay thì sự tham gia của VKS trong TTDS rất được quan tâm, nghiên cứu
nhưng các công trình này thường chỉ xem xét ở một khía cạnh về quyền hạn,
nhiệm vụ và trách nhiệm của VKS mà chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện về sự tham gia của VKS trong giải quyết
các VADS dưới cả góc độ lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện tại
thành phố Hải Phòng. Hy vọng những nghiên cứu của tác giả góp phần vào
kho tàng lý luận và có ý nghĩa thực tiễn nhất định nhằm nâng cao vai trò của
Ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và của VKSND thành phố Hải Phòng
nói riêng trong TTDS.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của VKS
trong giải quyết VADS;
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành về sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS
và những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó trong thực tiễn
giải quyết VADS tại Tòa án trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia
của VKS trong giải quyết VADS nói chung và tại Hải phòng nói riêng.
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn đưa ra những nhiệm vụ cụ
thể sau:
6
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của VKS trong
giải quyết VADS: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của sự tham gia của VKS
trong giải quyết VADS; cơ sở của việc quy định về sự tham gia của VKS
trong giải quyết VADS và quá trình phát triển các quy định về sự tham gia
của VKS trong giải quyết VADS;
- Sự cần thiết và những điều kiện đảm bảo hiệu quả sự tham gia của
VKS trong giải quyết VADS trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về sự
tham gia của VKS trong giải quyết VADS;
- Đề cập tới những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật TTDS về sự tham gia của VKS trong giải quyết
VADS trên địa bàn thành phố Hải phòng, chỉ ra những nguyên nhân của
những khó khăn, vướng mắc này;
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật TTDS về sự tham gia
của VKS trong giải quyết VADS, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động về sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản;
những quy định của pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật TTDS về sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở một số nội dung sau
đây:
- Luận văn chỉ đề cập đến sự tham gia của VKS trong giải quyết
VADS theo thủ tục tố tụng thông thường, luận văn không nghiên cứu về sự
tham gia của VKS trong giải quyết VADS theo thủ tục TTDS rút gọn cũng
7
như việc kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTDS.
- Luận văn tập trung nghiên cứu sự tham gia của VKS trong giải quyết
các VADS theo quy định của BLTTDS năm 2015 và thực tiễn kiểm sát giải
quyết VADS tại thành phố Hải Phòng trong khoảng thời gian từ năm 2015
đến nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác Lê Nin về nhà nước và pháp quyền; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật;
- Phương pháp phân tích quy phạm được sử dụng khi đánh giá chuyên
sâu những quy định của pháp luật TTDS về sự tham gia của VKS trong giải
quyết VADS;
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát chung về những
vướng mắc từ thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về sự
tham gia của VKS trong giải quyết VADS;
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử
hình thành và phát triển các quy định pháp luật TTDS về sự tham gia của
VKS trong giải quyết VADS;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
6. TÍNH MỚI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, có tính hệ thống những
vấn đề liên quan đến sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS, thể hiện
ở các nội dung cơ bản sau đây:
8
- Luận văn làm sáng tỏ những lý luận về sự tham gia của VKS trong
giải quyết VADS, góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng
của VKS trong TTDS.
- Phân tích các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về sự tham gia
của VKS trong giải quyết VADS, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, những
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó, từ đó đưa ra những kiến
nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả về sự tham gia của VKS trong giải
quyết VADS trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo về các vấn đề có liên quan.
7. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cấu 3 chương, gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của VKS
trong giải quyết VADS.
- Chương 2: Quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về sự
tham gia của VKS trong giải quyết VADS.
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về
sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS tại Hải Phòng và kiến nghị.
9
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm
sát trong giải quyết vụ án dân sự.
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết
vụ án dân sự
Trong TTDS, nếu như vị trí, vai trò của Tòa án và các bên đương sự
được xác định một cách rõ ràng thì vị trí, vai trò của Viện công tố không
hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Sở dĩ có sự khác nhau
này là do quan niệm về quyền lực Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, truyền thống văn hóa, hoàn cảnh lịch sử, điều
kiện kinh tế - xã hội ở các quốc gia khác nhau, dẫn đến có những quy định
khác nhau về vị trí, vai trò và chức năng của Viện công tố, đặc biệt là trong
lĩnh vực dân sự. Trong tố tụng hình sự, Viện công tố giữ quyền công tố có
vai trò nhân danh quyền lực Nhà nước để truy tố và buộc tội kể thực hiện
hành vi phạm tội trước Tòa án. Trong TTDS, do bị chi phối bởi nguyên tắc
quyền tự định đoạt của đương sự nên vai trò của Viện công tố trong TTDS bị
hạn chế hơn so với tố tụng hình sự. Không những thế vị trí, vai trò của Viện
công tố trong TTDS của các nước còn được quy định khác nhau. “Ở các
nước theo truyền thống luật án lệ Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ... do tranh
chấp, mâu thuẫn dân sự là của các đương sự, nên các chủ thể không có lợi
ích thì không được quyền kiện dân sự hay kháng cáo. Thậm chí, các nước
này còn cho rằng trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động càng ít sự can
10
thiệp của công quyền càng tốt”[6, tr31]. Do đó, trong TTDS ở các nước theo
truyền thống luật án lệ, Viện công tố hầu như không tham gia trong quá trình
giải quyết các VADS mà chủ yếu giữ quyền công tố trong các vụ án hình sự.
“Ở các nước theo truyền thống luật dân sự (như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa
liên bang Nga, Nhật Bản…) với mục đích là để đại diện cho lợi ích chung và
bảo vệ trật tự công nên VKS có thể tham gia tố tụng với tư cách là một bên
đương sự hoặc với tư cách là người giám sát”[6, tr 31]. Dù Viện công tố
tham gia với tư cách là một bên đương sự hay với tư cách là người giám sát
thì cũng đều xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng,
bảo đảm công bằng xã hội và sự tuân thủ pháp luật. Trong các trường hợp
này Viện công tố không có lợi ích liên quan đến vụ án và kể cả trong trường
hợp tham gia tố tụng với tư cách là một bên đương sự thì Viện công tố cũng
vì lợi ích chung của xã hội, lợi ích của những người không có khả năng tự
thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tại Việt Nam, tổ chức Bộ máy Nhà nước được tổ chức và hoạt động
dựa trên nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, tập trung vào Quốc
hội, có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án và VKS
để mỗi cơ quan có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình, với sự phối hợp
và hiệp đồng chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước.
Một trong những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi về vị ví,
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND chính là sự ra đời của Hiến pháp
năm 1959, theo đó, VKSND được quy định thành một cơ quan tách khỏi hệ
thống Toà án. Sự tham gia của VKSND trong bộ máy Nhà nước góp phần
bảo vệ chế độ xã hội, chống mọi sự vi phạm đến quyền lợi dân chủ nhân
dân; Tăng cường đấu tranh chống bọn phản cách mạng; Nâng cao chất lượng
các khâu công tác kiểm sát, xây dựng từng bước ngạch kiểm sát viên, tăng
cường đào tạo cán bộ, cải tiến lề lối làm việc. Bước vào hoạt động, VKSND
11
thực hiện 3 chức năng: Công tác kiểm sát chung; Công tác kiểm sát hình sự;
Công tác kiểm sát dân sự. Việc thực hiện 3 chức năng trên thể hiện vai trò
của VKSND trong hoạt động của bộ máy Nhà nước hết sức quan trọng.
Đến Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung thì VKSND là một
hệ thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức
thành một hệ thống từ trung ương xuống địa phương (cấp huyện), có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [11]. Theo
Điều 20 LTCVKSND năm 2002, VKSND là cơ quan kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực TTDS [12]. Đến Hiến pháp năm 2013 và
LTCVKSND năm 2014 thì VKS tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS và có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Như vậy, so với viện công tố các nước, nhiệm vụ và quyền hạn của
VKS trong TTDS ở Việt Nam được quy định rộng hơn nhiều. VKS Việt
Nam còn được trao thêm một số quyền mà Viện công tố các nước không có
như quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND và những người
tham gia tố tụng, quyền kháng nghị tất cả các bản án, quyết định dân sự của
toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm…
Với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS thì VKS có thẩm
quyền khởi tố VADS hay không? Nếu trước khi BLTTDS năm 2004
ra đời thì VKSND có quyền khởi tố VADS nhưng khi BLTTDS ra
đời, chức năng này đã bị bãi bỏ. Bởi vì, thứ nhất, để bảo đảm quyền
tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự. Thứ hai, nếu quy
12
định thẩm quyền khởi tố VADS của VKS thì cần phải coi VKS là
một bên đương sự và như vậy sẽ làm mất đi sự bình đẳng giữa các
bên trong TTDS vì VKS còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS. Đối với những trường hợp không có khả năng tự
bảo vệ khi quyền dân sự bị vi phạm thì nên giao cho các tổ chức xã
hội khởi kiện thay [23].
Vì vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều BLTTDS năm 2011 và BLTTDS năm 2015, VKS là cơ quan
tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS. Theo đó, VKS có thẩm quyền kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu; kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc; thu thập tài
liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định; tham gia phiên tòa,
phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án, vụ
việc theo quy định của pháp luật; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án;
kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật; kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động tố tụng…
Việc loại bỏ thẩm quyền khởi tố của VKS đã làm thay đổi vị trí, vai
trò của VKSND khi tham gia giải quyết các vụ việc dân sự. Trước đây,
VKSND có thể tham gia TTDS với hai tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng
(kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng) và người tham gia tố tụng (với tư
cách là người khởi tố), mặc dù khi tham gia phiên tòa, vai trò này của kiểm
sát viên không được tách bạch một cách rõ ràng, nhưng nó khá giống với vị
trí, vai trò của Viện công tố một số nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên,
việc xóa bỏ thẩm quyền khởi tố của VKSND trong TTDS đã loại bỏ luôn cả
13
vai trò người tham gia TTDS của VKS. Hiện nay, Điều 46 của BLTTDS
năm 2015 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng. Được coi là cơ
quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của VKSND chủ yếu để
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải
quyết các vụ việc dân sự tại Toà án, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn
cứ trong hoạt động xét xử của Toà án.
Tuy nhiên, việc loại bỏ thẩm quyền khởi tố VADS của VKS đã thực
sự tạo ra khoảng trống pháp luật vì để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công
cộng thì không một cá nhân, một cơ quan, tổ chức xã hội nào có thể thay thế
hoặc rất khó có thể thay thế được VKS. Trước khi BLTTDS năm 2004 ra
đời, VKSND đã khởi tố một số lượng rất lớn các VADS, bảo vệ hiệu quả lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các công
dân, của những người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần… Hơn nữa,
từ khi ban hành BLTTDS năm 2004 đến nay, vẫn chưa có một VADS nào
được khởi kiện nhằm bảo vệ lợi ích chung mặc dù đã có hàng trăm, hàng
ngàn vụ việc dân sự xâm hại lợi ích công đã và đang xảy ra cần được xử lí.
Rõ ràng, một cá nhân, cơ quan, tổ chức… sẽ khó có đủ điều kiện khả
năng để thực hiện việc khởi kiện lên Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, những hạn chế về mặt nhận thức pháp luật, hiểu biết về trình
tự, thủ tục tố tụng, án phí (án phí tạm ứng)… đều là rào cản để những đối
tượng này tự bảo vệ mình nhưng đối với VKS thì khác. Với việc thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tố tụng, có tính
chuyên nghiệp cao thông qua bộ máy và cán bộ chuyên môn trong hệ thống
cơ quan VKS từ trung ương đến địa phương, mô hình VKS có điều kiện hơn
và có ưu thế hơn các mô hình khác trong việc khởi tố để bảo vệ lợi ích nhà
nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những người không có khả năng tự thực
hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này cũng đã
14
được chứng minh qua pháp luật của các nước theo truyền thống pháp luật
dân sự như Cộng hòa Pháp, Liên Bang Nga… Tuy nhiên, phải khẳng định
rằng khi VKS thực hiện thẩm quyền khởi tố VADS thì VKS tham gia tố tụng
như một bên đương sự để bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích
của những người không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo
vệ quyền lợi của mình.
Vậy, với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, VKS thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS để đảm bảo sự tuân thủ
đúng pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng, qua đó đảm bảo
pháp chế XHCN. Với tư cách là một bên đương sự, VKS tham gia tố tụng để
bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những người không có
khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Qua việc phân tích trên có thấy đưa ra khái niệm về sự tham gia của
VKS trong giải quyết VADS như sau: Là hoạt động của VKSND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định TTDS của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong việc
giải quyết VADS nhằm bảo đảm việc giải quyết VADS được thực hiện đúng
quy định của pháp luật cũng như bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ
án dân sự
- Sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS để bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
Hiến pháp năm 2013 và LTCVKSND năm 2014 đã khẳng định:
"VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
15
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [15, Điều 107][16, Điều 2].
Trong TTDS, VKSND thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua
các hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất chức năng thực kiểm
sát các hoạt động tư pháp của VKSND là bảo đảm cho việc giải quyết
VADS được thực hiện đúng quy định của pháp luật; bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; bảo đảm
mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý
kịp thời, nghiêm minh.
Vì vậy, quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKS có
thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án như kiểm sát việc trả
lại đơn khởi kiện, thụ lý VADS, kiểm sát bản án, quyết định và các văn bản
tố tụng khác có liên quan đến việc giải quyết VADS của Tòa án; kiểm sát
việc tống đạt các văn bản tố tụng... và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của Luật TCVKSND và BLTTDS.
- VKS tham gia tố tụng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những người không
có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Mặc dù chức năng, vị trí, vai trò của VKSND có thể có sự thay đổi
qua các giai đoạn để phù hợp với tình hình phát triển chính trị- kinh tế - xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, dù là thời kì nào thì việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích
của những người yếu thế trong xã hội như: người chưa thành niên, người
mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức và làm chủ hành vi… cũng là nhiệm vụ và mục đích hướng đến của
VKSND khi tham gia vào TTDS.
16
VKSND có thể tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là cơ quan
tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng (đương sự). Với tư cách là
một bên đương sự, VKSND có thể đại diện cho đương sự (người chưa thành
niên, những người yếu thế trong xã hội, những người có quyền và lợi ích
hợp pháp cùng bị một chủ thể khác xâm phạm như vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm, môi trường… ) thực hiện việc khởi tố để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho họ, bảo vệ lợi ích công cộng. Khi tham gia tố tụng với tư cách
người tiến hành tố tụng thì VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết VADS kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án
đến khi Tòa án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Như vậy, dù với
VKS tham gia với tư cách cơ quan tiến hành tố tụng hay người tham gia tố
tụng thì không nằm ngoài mục đích để bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những người
không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
- Sự tham gia của VKS trong giải quyết VADS được thực hiện thông
qua nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng VKS, kiểm sát viên
và kiểm tra viên
VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết VADS. Theo đó, VKS kiểm sát hoạt động giải quyết VADS
của Tòa án và hoạt động tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, hoạt động kiểm sát này thực hiện thông qua những con người cụ
thể đó là, Viện trưởng VKS, kiểm sát viên và kiểm tra viên.
Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết VADS, Viện trưởng
VKS là người tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS; quyết định phân công kiểm sát viên thực hiện việc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật; quyết định thay đổi kiểm sát viên, Kiểm
17
tra viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Tòa án; yêu cầu, kiến nghị; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
quy định của pháp luật.
Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS thì:
Ở các nước theo truyền thống luật dân sự, nhìn chung Viện
công tố có quyền kháng cáo phúc thẩm trong các vụ án liên quan
đến lợi ích công cộng, bảo vệ quyền lợi của những người không có
khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc không có khả năng tự bảo
vệ mình như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần, người bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự…[6, tr 60].
Ở Việt Nam, mặc dù hiện này không có bất kỳ một sự hạn chế nào đối
với việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS. Tuy nhiên, cần phải giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa việc VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Bởi vì,
việc quy định quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKSND là cần
thiết để bảo đảm pháp luật TTDS được thực hiện nghiêm chỉnh và thống
nhất. Hơn nữa, trong một số trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm sau khi
tuyên xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của các đương sự mà họ
không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc không có khả năng tự
bảo vệ mình hoặc xâm phạm đến quyền lợi của người thứ ba không được
triệu tập với tư cách là đương sự ở Tòa án cấp sơ thẩm hoặc vụ án chưa có
điều luật để áp dụng thì VKS cần thiết phải kháng nghị. Còn các trường hợp
khác thì cần tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, chúng tôi
đồng ý với quan điểm cho rằng cần phải hạn chế quyền kháng nghị phúc
thẩm của VKS [6].
Đối với kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát việc giải quyết
18