Phân tích bài thảo ln 1 mơn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Dựa trên cơ sở nào để khẳng định đến năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được hình thành về cơ bản?
Trả lời:
Có thể khẳng định đến năm 1930 tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành cơ bản về con
đường cách mạng Việt Nam: vừa khoa học vừa thực tiễn. Hồ Chí Minh đã hoạt động
thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn Pháp như: tích cực hoạt động trong ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, xuất bản tờ Le Paria nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923). Năm 1923-1924, tại Liên-Xô, dự đại hội
Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản. Năm 1924, Bác về Quảng Châu, tổ
chức Việt Nam thanh niên cách mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ. Năm 1925, tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản tại Pa-ri. Năm 1927, Bác xuất bản tác
phẩm “Đường Kách Mệnh”. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt của Đảng”.
Ngày 3/2/1930 đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời. Sự kiện này đã châm dứt thời kỳ
khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh trở thành
nhà tư tưởng theo đúng nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được hình
thành cơ bản. Có thể nói sự kiện ĐCS VN ra đời với cương lĩnh đúng đắn đã thể hiện
tư tưởng HCM đã hình thành về cơ bản.
Câu 2: Phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc:
- Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trị của cách mạng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng vơ sản ở chính quốc, Nguyễn Ái Quốc lại đưa ra những quan
điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Người khẳng định: “…Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và
sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa…”, và nếu
khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được liều thuốc vực
dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình những người cộng
sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa và không thực hiện đúng di huấn của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; ngay cả những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản
lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc,
đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ thuộc vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, coi
phong trào giải phóng dân tộc là “hậu bị quân” của cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Vận dụng cơng thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng dân tộc cần được
tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Cơng cuộc giải phóng anh em chỉ
có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Theo Người, tất cả sinh lực
của chủ nghĩa tư bản, đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa.
Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vịi để minh họa cho chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ với
hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào đầu ở chính quốc, nó sẽ tích
cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống của thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh khơng
cịn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi phục và quay lại chống cách mạng chính quốc, điều
đó khơng những gây tổn thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà cịn khiến
nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng nhân
dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà không thể dựa vào sự cầu
viện ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa sẽ là một lực lượng khổng lồ
có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa cùng với các dân
tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để. Một mặt tấn cơng ở chính
quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị đau ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu
hướng quay về giữ sân nhà của mình, tạo đà cho cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng
lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần dần bị suy
giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng. Người khẳng định:
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người anh em của mình ở chính
quốc trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn.
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng sản nhận ra và lập
tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất cả các nước và các dân tộc áp bức
đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu tranh giành độc lập tự do của chính
mình.
- Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo về giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh:
Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác –
Lênin
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngồi mà ln
phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành
được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một số
nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một tư tưởng hoàn
toàn đúng đắn.
Câu 3: Phân tích những điểm sáng tạo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn và trở thành cơ sở lý luận quan
trọng cho Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo cơng cuộc đổi
mới. Có thể nói, đó là q trình liên tục có sự đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận.
Nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng đã lãnh đạo cơng cuộc đổi mới thu được thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng
định, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay”(16).
Tuy nhiên, trong tình hình mới, trước yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, chúng ta
đang đứng trước hàng loạt những thách thức, khó khăn trên cả bình diện quốc tế cũng
như ở trong nước. Để có thể tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, trên cơ sở nhận thức
và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Phải kiên định mục tiêu này bởi, đó là kết luận
mà qua trải nghiệm cá nhân, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn mà Hồ Chí Minh đã
đúc kết. Theo Người, các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới là “cuộc cách mạng chưa
đến nơi”, “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chân chính nhất, cách mạng
nhất, đúng đắn nhất là chủ nghĩa Lênin”. Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội cũng đã được lịch sử kiểm chứng là đúng đắn. Trên thế giới đã từng có
nhiều quốc gia giành được độc lập song vẫn rơi vào vòng lệ thuộc chủ nghĩa tư bản. Vì
vậy, chỉ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mới đem lại độc lập dân tộc thật sự, tự do,
cơm no, áo ấm cho mọi người dân Việt Nam.
Hai là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc, tồn diện, khó khăn, lâu
dài, vì vậy phải từng bước hiện thực hóa những giá trị của chủ nghĩa xã hội trong đời
sống.
Bài học từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường lên
chủ nghĩa xã hội cho thấy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội khơng chỉ là mơ ước, là khát
vọng trừu tượng mà hết sức cụ thể, gần gũi với cuộc sống con người. Đó là độc lập cho
dân tộc, là cơm no, áo ấm, được học hành của mỗi người dân. Chủ nghĩa xã hội là làm
cho dân khỏi đói, khỏi rét, khỏi mù chữ...Vì lẽ đó, mỗi người dân đều nhận thấy chủ
nghĩa xã hội hiện hữu trong cuộc sống. Đó là cơ sở từ đó hình thành niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội.
Ba là, quá trình truyền bá, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin vào các quốc gia, dân
tộc, cho thấy, trong bối cảnh giai cấp công nhân Việt Nam cịn ít về số lượng, chưa cao
về chất lượng, trình độ dân trí của người dân cịn thấp song Việt Nam là mảnh đất du
nhập học thuyết cách mạng đó nhanh và sớm, ít bị ảnh hưởng bởi các trào lưu cơ hội, xét
lại. Điều đó khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của đại bộ phận nhân dân, Đảng ta, thông qua đội ngũ đảng viên là một Đảng
cách mạng chân chính mà Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng ta là đạo đức, là văn minh.
Vì lẽ đó, nếu thừa nhận chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp văn hóa, Đảng cầm quyền phải
là tổ chức của những cá nhân ưu tú nhất. Đội ngũ đó phải là những con người không sa
vào chủ nghĩa cá nhân, phải là “người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân” như Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Do vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội tất yếu phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có tâm,
đủ tầm. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng đã rất quyết liệt thực hiện vấn đề này và đã
thu được những kết quả bước đầu, song chắc chắn, cần phải tiếp tục kiên trì, kiên quyết
hơn nữa.
Bốn là, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng phải dựa vào nhân dân. Theo Người, “dễ
trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, Vì vậy, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh là tìm mọi biện pháp để phát huy các nguồn lực của nhân dân phục
vụ mục tiêu nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân.
Bài học đó đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta thể nghiệm. Nhờ đó, một dân tộc “đất
không rộng lắm, người không đông lắm đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp
và Mỹ” và đang có những bước tiến thắng lợi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, bài học đó rất cần được tiếp tục vận
dụng hiệu quả hơn nhằm phát huy mạnh mẽ nội lực của dân tộc phục vụ mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Năm là, cách mạng là sáng tạo, đó là bài học lớn qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài học này hiện vẫn cịn
ngun giá trị thời sự trong cơng cuộc đổi mới và hội nhập hiện nay. Vì vậy, sáng tạo,
liên tục đổi mới là chìa khóa để chúng ta tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng giành thắng
lợi.